vi_ulb/24-JER.usfm

2616 lines
287 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id JER
\ide UTF-8
\h Giê-rê-mi
\toc1 Giê-rê-mi
\toc2 Giê-rê-mi
\toc3 jer
\mt Giê-rê-mi
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời của Giê-rê-mi, con trai Hinh-kia; một trong số những thầy tế lễ ở A-na-tốt trong xứ Ben-gia-min.
\v 2 Có lời Đức Giê-hô-va phán với ông trong đời của Giô-si-a, con trai A-môn, vua Giu-đa, vào năm thứ mười ba thuộc triều đại của vua ấy.
\v 3 Lời Ngài cũng đến với ông trong đời Giê-hô-gia-kim, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, đến tháng năm năm thứ mười một trong đời Sê-đê-kia, con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, khi dân thành Giê-ru-sa-lem bị bắt làm tù binh.
\s5
\v 4 Đức Giê-hô-va phán với tôi rằng:
\v 5 “Trước khi Ta dựng nên ngươi trong lòng mẹ, Ta đã chọn ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã biệt riêng ngươi; Ta đã lập ngươi làm tiên tri cho các nước.”
\v 6 “Ôi, Đức Giê-hô-va!” Tôi trả lời: “Con không biết cách nói chuyện, vì con còn trẻ quá.”
\s5
\v 7 Nhưng Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Chớ nói: Con còn trẻ quá. Ngươi phải đi bất cứ nơi nào Ta sai ngươi đi, và ngươi phải nói bất cứ điều gì Ta truyền cho ngươi nói!
\v 8 Chớ sợ chúng, vì Ta ở với ngươi đặng giải cứu ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 9 Sau đó, Đức Giê-hô-va giơ tay Ngài ra, chạm vào miệng tôi, và phán với tôi: “Bây giờ, Ta đã đặt lời Ta trong miệng ngươi.
\v 10 Ngày nay, Ta sẽ lập ngươi trên các nước và trên các vương quốc, đặng nhổ và đập tan, hủy diệt và phá đổ, xây dựng và thiết lập.”
\s5
\v 11 Lời của Đức Giê-hô-va đến cùng tôi rằng: “Giê-rê-mi, ngươi thấy gì?” Tôi nói: “Con thấy một nhánh hạnh nhân.”
\v 12 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Ngươi đã thấy đúng, vì Ta đang canh chừng lời Ta để thực hiện nó.”
\s5
\v 13 Lời của Đức Giê-hô-va đến với tôi lần thứ nhì rằng: “Ngươi thấy gì?” Tôi đáp: “Con thấy một nồi nước sôi sùng sục, bắn lên từ phương bắc.”
\v 14 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Tai họa sẽ ra từ phương bắc đổ xuống dân cư trong xứ này.
\s5
\v 15 Vì Ta sẽ gọi các bộ tộc từ các vương quốc phương bắc, Đức Giê-hô-va phán. Chúng sẽ đến, mỗi người sẽ đặt ngai mình ở lối cổng thành Giê-ru-sa-lem, đánh hạ các tường thành xung quanh và các thành phố của Giu-đa.
\v 16 Ta sẽ tuyên bố án phạt trên chúng vì việc ác của chúng khi từ bỏ Ta, dâng hương cho các thần khác, và thờ lạy những thứ do chính tay chúng dựng nên.
\s5
\v 17 Hãy sẵn sàng! Hãy đứng dậy và nói với chúng bất cứ điều gì Ta truyền cho ngươi. Chớ kinh sợ trước mặt chúng, nếu không Ta sẽ khiến ngươi sợ sệt trước mặt chúng!
\v 18 Kìa! Ngày nay Ta đã lập cho ngươi một thành trì kiên cố, một trụ sắt, và các bức tường bằng đồng nghịch với cả xứ này nghịch với các vua Giu-đa, các quan chức, thầy tế lễ, và dân cư trong xứ.
\v 19 Chúng sẽ đánh ngươi, nhưng chúng sẽ không thắng được ngươi, vì Ta sẽ ở cùng ngươi đặng giải cứu ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Lời của Đức Giê-hô-va phán cùng tôi rằng:
\v 2 “Hãy đi và công bố đến tai Giê-ru-sa-lem. Hãy nói rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ta còn nhớ lòng trung tín thỏa ước của ngươi khi ngươi còn xuân xanh, tình yêu của ngươi khi chúng ta mới ước hẹn, khi ngươi theo Ta vào hoang mạc, là xứ không được gieo trồng.
\v 3 Y-sơ-ra-ên được biệt riêng cho Đức Giê-hô-va, là trái đầu mùa thu hoạch! Tất cả những ai ăn trái đầu mùa đều phạm tội! Tai họa sẽ giáng trên chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.’”
\s5
\v 4 Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi nhà Gia-cốp và mọi gia đình trong nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 5 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Tổ phụ các ngươi đã thấy Ta có gì sai chăng, đến nỗi họ không theo Ta nữa? Đến nỗi họ theo các thần vô dụng và chính họ trở nên vô dụng?
\v 6 Họ không nói: Đức Giê-hô-va ở đâu, là Đấng đem chúng ta ra khỏi xứ Ai Cập? Đức Giê-hô-va ở đâu, là Đấng dẫn chúng ta đến hoang mạc, vào xứ A-ra-ba, vào một xứ khô cằn, tối tăm đầy hầm hố, một xứ chẳng có ai đi ngang qua và chẳng có ai sống?
\s5
\v 7 Nhưng Ta đã đem các ngươi đến xứ Cạt-mên, để các ngươi ăn hoa quả và những vật tốt! Nhưng khi các ngươi đến, các ngươi làm ô uế đất của Ta, các ngươi khiến sản nghiệp của Ta trở nên gớm ghiếc!
\v 8 Thầy tế lễ không nói: Đức Giê-hô-va ở đâu? và các thầy dạy luật chẳng quan tâm đến Ta! Những người chăn bầy chống nghịch Ta. Các tiên tri nói tiên tri cho Ba-anh và bắt chước những việc vô ích.
\s5
\v 9 Vậy, Ta vẫn sẽ buộc tội các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta sẽ buộc tội con cháu các ngươi.
\v 10 Vì các ngươi vượt qua bờ biển Kít-tim và nhìn. Các ngươi sai sứ giả đến Kê-đa đặng tìm kiếm và xem coi có điều gì giống vậy chăng.
\v 11 Có nước nào từng đổi các thần, dù chúng không phải là thần? Nhưng dân Ta đã đổi sự vinh quang của họ để lấy thứ không thể giúp họ.
\s5
\v 12 Hỡi các từng trời, hãy kinh hoàng về việc này! Hãy hoảng hốt và khiếp sợ - Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 13 Vì dân Ta đã phạm hai điều ác đối với Ta: Họ đã từ bỏ các suối nước sống qua việc đào bới tìm kiếm các bể chứa, là những bể chứa nứt ra và không thể trữ nước!
\s5
\v 14 Có phải Y-sơ-ra-ên là nô lệ không? Nó không được sinh ra trong nhà? Vậy tại sao nó trở thành của cướp bóc?
\v 15 Sư tử con gầm rống chống lại nó. Chúng rống thật to và biến xứ của nó thành một sự kinh khiếp! Các thành của nó bị hủy diệt đến nỗi không còn dân cư.
\v 16 Ngoài ra, dân Mem-phi và Ta-pan-hê cạo nát sọ và bắt các ngươi làm nô lệ!
\v 17 Chẳng phải các ngươi đã tự làm việc này khi các ngươi lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi, khi Ngài dẫn các ngươi đi trên đường sao?
\s5
\v 18 Vậy bây giờ, sao các ngươi lên đường đến Ai Cập và uống nước ở Si-ho? Sao các ngươi lên đường đến A-sy-ri và uống nước Sông Ơ-phơ-rát?
\v 19 Sự gian ác của các ngươi quở trách các ngươi, và sự thất tín của các ngươi đoán phạt các ngươi. Vậy hãy nghĩ về điều đó; hãy hiểu rằng việc các ngươi từ bỏ Ta, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi, là việc ác và đầy cay đắng, và các ngươi không còn kinh sợ Ta nữa Đức Giê-hô-va vạn quân đã phán vậy.
\s5
\v 20 Vì Ta đã bẻ ách ngươi vào xưa kia; Ta đã tháo cùm cho ngươi. Nhưng ngươi vẫn nói: Con sẽ không phục vụ! vì ngươi đã quỳ lạy ở trên đồi cao và dưới cây rậm lá, các ngươi là những kẻ ngoại tình.
\v 21 Nhưng chính Ta đã trồng các ngươi như cây nho được chọn, như hột giống tốt nhất. Tuy nhiên, các ngươi đã thay đổi trước mặt Ta, từ một cây nho ngoại thành một cây nho hoang!
\v 22 Vì ngay cả nếu các ngươi làm sạch mình ở dưới sông hoặc dùng chất tẩy rửa, tội lỗi các ngươi vẫn là vết nhơ trước mặt Ta Chúa Giê-hô-va đã phán vậy.
\s5
\v 23 Làm sao các ngươi có thể nói: Con không ô uế! Con không theo thần Ba-anh? Hãy nhìn xem hành vi của các ngươi ở các thung lũng! Hãy hiểu việc các ngươi làm, các ngươi như lạc đà nhanh nhảu chạy theo đường nó!
\v 24 Các ngươi là lừa hoang, quen nơi hoang mạc, động dục và huýt gió! Ai xoay chuyển nó khi nó động đực? Ai tìm nó chẳng thấy mệt nhọc. Chúng đến gặp nó vào tháng động tình.
\v 25 Hãy giữ chân ngươi khỏi để trần và cổ ngươi khỏi cơn khát! Nhưng ngươi nói: Thật vô vọng! Không, con yêu những người lạ và đi theo họ!
\s5
\v 26 Như tên trộm xấu hổ khi bị phát hiện, nhà Y-sơ-ra-ên cũng sẽ xấu hổ - họ, các vua, các vương tử, thầy tế lễ và những tiên tri!
\v 27 Đây là những người nói với cây rằng: Ngài là cha tôi, và nói với cục đá: Ngài là mẹ tôi. Vì họ xây lưng lại với Ta chứ không xây mặt về phía Ta. Tuy nhiên, họ nói trong lúc khốn khó: Xin trỗi dậy và cứu chúng con!
\v 28 Nhưng các thần mà ngươi đã dựng cho chính mình ở đâu? Hãy để chúng trỗi dậy nếu chúng muốn cứu các ngươi khi khốn khó, vì số thần của các ngươi bằng với số thành phố của các ngươi, hỡi Giu-đa!
\s5
\v 29 Vậy sao các ngươi kết tội Ta làm sai? Tất cả các ngươi đã phạm tội trước mặt Ta Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 30 Ta đã phạt dân ngươi thật vô ích. Chúng chẳng chịu kỷ luật. Gươm các ngươi nuốt các tiên tri như sư tử vồ mồi!
\v 31 Hỡi các ngươi là những người thuộc thế hệ này! Hãy chú ý lời Ta, là lời của Đức Giê-hô-va! Ta là một hoang mạc cho Y-sơ-ra-ên sao? Hay Ta là một xứ tối tăm? Sao dân Ta nói: Hãy để chúng tôi lang thang, chúng tôi sẽ không đến gặp Ngài nữa?
\s5
\v 32 Trinh nữ sẽ quên trang sức mình chăng, nàng dâu sẽ quên mạng che mặt chăng? Nhưng dân Ta đã quên Ta từ rất lâu rồi!
\v 33 Các ngươi thật khéo tính toán đường lối để kiếm người tình. Các ngươi thậm chí dạy đường lối các ngươi cho phụ nữ xấu xa.
\v 34 Huyết của mạng người vô tội, người nghèo vấy trên quần áo ngươi. Họ không bị bắt quả tang trộm cắp.
\s5
\v 35 Trái lại, dù sự thật là như vậy, nhưng các ngươi cứ nói: Con vô tội. Chắc chắn cơn giận của Đức Giê-hô-va sẽ giáng trên con. Nhưng kìa! Các ngươi sẽ bị đoán xét vì các ngươi nói: Con không phạm tội.
\v 36 Sao các ngươi thay đổi đường lối các ngươi dễ dàng vậy? Ai Cập sẽ làm các ngươi xấu hổ, như A-sy-ri đã làm đối với các ngươi.
\v 37 Các ngươi cũng sẽ đi ra khỏi nơi khiến thất vọng, tay giơ trên đầu, vì Đức Giê-hô-va đã từ bỏ những người mà các ngươi tin, để họ sẽ không giúp các ngươi.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Họ nói: Một người nam đuổi vợ mình, nàng rời khỏi người và làm vợ của người khác. Lẽ nào người nên trở lại bên nàng? Chẳng phải nàng hoàn toàn không bị ô uế sao? Người nữ đó chính là xứ này! Ngươi đã hành dâm như gái điếm với nhiều người, rồi bây giờ ngươi muốn trở về bên Ta? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 2 Hãy ngước mắt lên các nơi cao hoang phế và nhìn xem! Có chỗ nào mà ngươi không hãm hiếp? Ngươi ngồi bên lề đường chờ người tình, như dân du cư trong hoang mạc. Ngươi đã làm ô uế xứ này bằng sự điếm đĩ và tội ác của ngươi.
\s5
\v 3 Vì vậy, mưa xuân bị ngăn lại và mưa cuối mùa không đến. Nhưng ngươi vênh mặt kiêu ngạo, như mặt đàn bà tạp hôn. Ngươi không biết xấu hổ.
\v 4 Chẳng phải từ bây giờ ngươi sẽ không kêu cầu Ta: Thưa Cha của con! Ngài là bạn thân nhất của con từ khi con còn trẻ.
\v 5 Ngài sẽ giận đời đời sao? Ngài sẽ luôn giận sao? Kìa! Ngươi tuyên bố rằng ngươi sẽ phạm điều ác, và ngươi đã phạm nó. Vậy hãy cứ làm đi!”
\s5
\v 6 Sau đó, trong đời vua Giô-si-a, Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Ngươi thấy Y-sơ-ra-ên xảo trá với Ta thế nào chưa? Nó đến mọi núi cao và dưới gốc cây xum xuê và hành dâm tại đó.
\v 7 Ta đã nói: Sau khi nó làm những việc này, nó sẽ trở lại bên Ta, nhưng nó đã không trở lại. Chị gái lật lọng của nó đã thấy việc nó làm.
\s5
\v 8 Vậy nên Ta đã thấy nó phạm tội tà dâm vì tất cả những lý do này. Y-sơ-ra-ên bội giáo! Ta đã đuổi nó và đưa cho nó một tờ ly dị. Nhưng chị gái Giu-đa phản nghịch của nó không sợ, nó ra ngoài và hành dâm!
\v 9 Việc nó làm ô uế xứ được xem là tầm thường, vì vậy chúng làm thần tượng bằng đá và cây.
\v 10 Sau mọi việc này, chị gái Giu-đa lật lọng của nó không hết lòng trở về bên Ta, nhưng chỉ là một lời dối trá! Đức Giê-hô-va đã phán vậy.”
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Y-sơ-ra-ên vô đạo còn công bình hơn Giu-đa lật lọng!
\v 12 Hãy đi và rao những lời này cho phương bắc. Hãy nói: Y-sơ-ra-ên vô đạo, hãy trở về! Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ không giận ngươi đâu. Vì Ta là Đấng thành tín Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ không giận ngươi đời đời.
\s5
\v 13 Ngươi hãy nhận tội, vì ngươi đã phạm tội nghịch lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi; ngươi đã hành dâm với khách lạ dưới cây xanh! Vì ngươi không lắng nghe tiếng Ta! Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 14 Hỡi dân vô đạo, hãy trở về! Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta đã cưới ngươi! Ta sẽ lấy từ giữa ngươi mỗi thành một người và mỗi thị tộc hai người, Ta sẽ đem ngươi vào Si-ôn!
\v 15 Ta sẽ cho ngươi những người chăn đẹp lòng Ta, họ sẽ chăn dắt ngươi bằng tri thức và sự sáng suốt.
\s5
\v 16 Rồi ngươi sẽ tăng dân số và sanh bông trái tốt trong xứ vào những ngày đó Đức Giê-hô-va phán vậy. Họ sẽ không còn nói: “Hòm giao ước của Đức Giê-hô-va!” Lòng họ sẽ không còn nhớ việc này nữa, vì họ sẽ không còn nghĩ đến hoặc chú ý về nó nữa. Lời tuyên bố này sẽ không còn được thực hiện nữa.
\s5
\v 17 Khi đó, họ sẽ rao báo về Giê-ru-sa-lem: Đây là ngai của Đức Giê-hô-va, và mọi nước sẽ tập hợp tại Giê-ru-sa-lem trong danh Đức Giê-hô-va. Họ sẽ không còn bước đi trong sự cứng cỏi của lòng gian ác nữa.
\v 18 Khi ấy, nhà Giu-đa sẽ đi cùng nhà Y-sơ-ra-ên. Từ xứ ở phương bắc, họ sẽ cùng đến xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ ngươi làm sản nghiệp.
\s5
\v 19 Còn về phần Ta, Ta nói: Ta muốn ban vinh dự cho ngươi như con trai Ta và ban cho ngươi một xứ tươi tốt, một cơ nghiệp còn đẹp hơn sản nghiệp ở bất kỳ nước nào!” Ta sẽ nói: Ngươi sẽ gọi Ta là “Cha của con”. Ta hẳn sẽ nói rằng ngươi sẽ không rời bỏ Ta.
\v 20 Nhưng như một người nữ lật lọng với chồng mình, ngươi đã phản bội Ta, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên Đức Giê-hô-va phán như vầy.”
\s5
\v 21 “Có tiếng huyên náo ở nơi đồng bằng, tiếng than khóc và nài xin của dân Y-sơ-ra-ên! Vì họ đã đổi đường lối mình; họ đã quên Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ.
\v 22 Hãy trở về, hỡi dân vô đạo! Ta sẽ chữa lành sự phụ bạc của ngươi!” “Kìa! Chúng con sẽ đến với Ngài, vì Ngài là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng con!
\s5
\v 23 Chỉ những lời giả dối đến từ trên đồi núi. Chắc chắn sự cứu rỗi Y-sơ-ra-ên chỉ thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con.
\v 24 Tuy nhiên các thần tượng đáng hổ thẹn đã nuốt lấy những gì tổ phụ chúng con đã làm bầy chiên và gia súc, con trai và con gái!
\v 25 Chúng ta hãy nằm xuống chịu xấu hổ. Nguyện nỗi xấu hổ bao phủ chúng ta, vì chúng ta đã phạm tội nghịch lại Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta! Chính chúng ta và tổ phụ chúng ta, từ khi chúng ta còn trẻ đến bây giờ, đã không lắng nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta!”
\s5
\c 4
\p
\v 1 “Hỡi Y-sơ-ra-ên, nếu ngươi trở về - Đức Giê-hô-va phán như vầy thì ngươi phải trở về. Nếu ngươi từ bỏ những việc gớm ghiếc khỏi trước mặt Ta và không đi sai lạc nữa,
\v 2 và nếu ngươi thề: Đức Giê-hô-va hằng sống trong lẽ thật, công bình và chính trực, các nước sẽ xin ơn phước của ngươi, và họ sẽ ngợi khen Ta.
\v 3 Vì Đức Giê-hô-va phán điều này cho mỗi người tại Giu-đa và Giê-ru-sa-lem: Hãy cày đất của ngươi, chớ gieo giữa gai góc.
\s5
\v 4 Hãy cắt bì mình cho Đức Giê-hô-va và loại bỏ dương bì khỏi lòng ngươi, hỡi người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem, nếu không cơn giận của Ta sẽ nổi bừng như lửa, không ai có thể dập tắt. Việc này sẽ xảy đến vì cớ những việc ác của các ngươi.
\v 5 Hãy rao ra trong Giu-đa và hãy truyền cho Giê-ru-sa-lem rằng: “Hãy thổi kèn trong xứ. Hãy tập hợp lại. Chúng ta hãy đến các thành trì kiên cố.”
\v 6 Hãy giơ cờ hiệu và hướng nó về Si-ôn, hãy chạy trốn! Chớ chần chừ, vì Ta sẽ đem tai họa từ phương bắc và một đại họa khủng khiếp.
\s5
\v 7 Một con sư tử sẽ ra từ bụi cây và một kẻ hủy diệt các nước sẽ đi ra. Nó sẽ rời khỏi chỗ mình đặng đem sự kinh khiếp đến xứ ngươi, khiến các thành phố ngươi ra điêu tàn, là nơi sẽ chẳng có ai ở.
\v 8 Vì vậy, hãy mặc áo vải gai, hãy than van và than khóc. Vì ảnh hưởng từ cơn giận của Đức Giê-hô-va chưa lìa khỏi chúng ta.
\s5
\v 9 Trong ngày đó Đức Giê-hô-va phán lòng của các vua và các quan sẽ chết lặng. Các thầy tế lễ sẽ kinh hãi, các tiên tri sẽ hoảng sợ.’”
\v 10 Tôi nói: “Ôi! Lạy Chúa Giê-hô-va. Rõ ràng là Ngài đã lừa dân này và thành Giê-ru-sa-lem khi nói rằng: Các ngươi sẽ có sự bình an. Nhưng gươm đang dí vào mạng sống họ.”
\s5
\v 11 Khi đó, người ta sẽ nói về dân này và Giê-ru-sa-lem: “Một ngọn gió nóng từ những gò trọi trong hoang mạc sẽ thổi đến con gái của dân Ta. Nó sẽ không rê cũng không làm sạch chúng.
\v 12 Ta sẽ sai đến một ngọn gió mạnh hơn, Ta sẽ hình phạt chúng.
\s5
\v 13 Kìa, nó ập đến như đám mây, và xe chiến mã của nó như một cơn bão. Ngựa của nó nhanh hơn đại bàng. Khốn cho chúng ta, vì chúng ta sẽ bị tiêu diệt!
\v 14 Hãy làm sạch lòng ngươi khỏi sự gian ác, hỡi Giê-ru-sa-lem, để ngươi được cứu. Ngươi sẽ còn giữ những ý tưởng thâm hiểm nhất để phạm tội cho đến khi nào?
\v 15 Vì có tiếng đem tin tức từ Đan, và từ núi Ép-ra-im có tai họa.
\s5
\v 16 Hãy khiến các nước nghĩ đến điều này: Kìa, hãy thông báo cho Giê-ru-sa-lem rằng những kẻ bao vây sẽ đến từ một xứ xa xăm để hò hét tranh chiến các thành của Giu-đa.
\v 17 Chúng sẽ vây hãm như người giữ ruộng, vì nó đã nổi loạn nghịch lại Ta Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 18 cách cư xử và việc làm của ngươi đã khiến ngươi nhận lãnh những việc này. Đây sẽ là hình phạt dành cho ngươi. Thật khủng khiếp! Nó sẽ đánh vào lòng ngươi.
\s5
\v 19 Tôi thật đau lòng! Tôi thật đau lòng! Lòng tôi thật đau đớn. Lòng tôi thật bối rối. Tôi không thể im lặng vì tôi nghe có tiếng tù và, là tiếng báo chiến trận.
\v 20 Thảm họa chồng thêm thảm họa như đã công bố, vì cả xứ bỗng nhiên bị tàn phá. Chúng bất ngờ tàn phá nhà tạm và lều của tôi.
\s5
\v 21 Tôi sẽ còn thấy cờ hiệu cho đến khi nào? Tôi sẽ còn nghe tiếng tù và không?
\v 22 Vì dân Ta thật dại dột họ không biết Ta. Họ là một dân thờ thần tượng và không có hiểu biết. Họ khéo làm ác, nhưng không biết làm việc thiện.
\s5
\v 23 Tôi nhìn xứ này, và đã thấy! Đó là một xứ vô hình và trống không. Xứ ấy không có ánh sáng từ trời.
\v 24 Tôi xem các ngọn núi. Kìa, chúng rúng động, mọi đồi đều rúng động.
\v 25 Tôi xem. Kìa, chẳng có ai cả, mọi loài chim trời đều đã bỏ trốn.
\v 26 Tôi nhìn. Kìa, các vườn cây ăn quả đều thành đồng hoang và các thành phố đều bị tàn lụi trước mặt Đức Giê-hô-va, trước cơn thạnh nộ của Ngài.”
\s5
\v 27 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Cả xứ sẽ trở nên điêu tàn, nhưng Ta sẽ không hoàn toàn hủy diệt chúng.
\v 28 Vì vậy, xứ ấy sẽ than khóc, các tầng trời sẽ trở nên tối tăm. Vì Ta đã công bố ý định của Ta; Ta sẽ không lần lữa; Ta sẽ không đổi ý.
\v 29 Mỗi thành sẽ chạy trốn khi nghe tiếng kỵ binh và cung của xạ thủ; chúng sẽ chạy vào rừng. Thành nào thành nấy đều leo lên những hốc đá. Các thành sẽ bị bỏ hoang, vì sẽ không ai cư trú tại đó.
\s5
\v 30 Bấy giờ ngươi đã trở nên hoang vu, ngươi sẽ làm gì? Vì dù ngươi mặc quần áo màu đỏ tươi, trang điểm bằng trang sức vàng, kẻ mắt cho to đậm, nhưng những kẻ thèm muốn ngươi giờ đây từ bỏ ngươi. Trái lại, chúng sẽ cố đoạt mạng ngươi.
\v 31 Tôi nghe tiếng kêu đau đớn, kiệt sức của người sanh con đầu lòng, tiếng của con gái Si-ôn. Nó thở hổn hển. Nó đưa kêu gào: Khốn cho tôi! Tôi nản lòng bởi bọn sát nhân.’”
\s5
\c 5
\p
\v 1 ”Hãy đi khắp các đường phố Giê-ru-sa-lem; cũng hãy tìm kiếm ở các quảng trường trong thành ấy. Hãy xem và nghĩ về điều này: Nếu ngươi có thể tìm được người nào hay bất cứ ai làm việc đúng đắn và trung thực, thì Ta sẽ tha thứ Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Thậm chí nếu chúng nói: Có Đức Giê-hô-va hằng sống chứng giám, thì chúng đang thề dối.”
\v 3 Lạy Đức Giê-hô-va, chẳng phải mắt Ngài không tìm sự thành tín sao? Ngài đánh họ, nhưng họ không cảm thấy đau đớn. Ngài hoàn toàn đánh bại họ, nhưng họ vẫn không tuân thủ kỷ luật. Họ chai mặt hơn đá, vì họ không chịu ăn năn.
\s5
\v 4 Vậy tôi nói: “Chắc chắn đây chỉ là người nghèo. Họ ngu dại, vì họ không biết đường lối Đức Giê-hô-va, cũng không biết giới mạng của Đức Chúa Trời.
\v 5 Tôi sẽ đi đến những người sang trọng và công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời cho họ, vì ít nhất thì họ biết đường lối Đức Giê-hô-va, tức là giới mạng của Đức Chúa Trời họ.
\v 6 Vậy, một con sư tử từ bụi cây sẽ vồ lấy họ. Một con sói từ A-ra-ba sẽ cắn xé họ. Một con báo sẽ rình các thành của họ. Hễ ai ra khỏi thành sẽ bị xé xác. Vì sự vi phạm của họ gia tăng. Hành động thất tín của họ nhiều quá đỗi.
\s5
\v 7 Làm sao Ta tha thứ dân này được? Các con trai ngươi đã từ bỏ Ta và lấy danh những kẻ không phải là thần mà thề. Ta đã nuôi chúng mập béo, nhưng chúng phạm tội ngoại tình và chen nhau đến nhà đĩ điếm.
\v 8 Chúng như ngựa động đực. Chúng đi rong tìm kiếm bạn tình. Ai nấy đều hí theo vợ người lân cận mình.
\v 9 Vậy Ta chẳng nên trừng phạt chúng sao Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta chẳng nên báo thù một quốc gia như vậy sao?
\s5
\v 10 Hãy đi lên các dãy nho của nó và phá hủy. Nhưng chớ hoàn toàn hủy diệt chúng. Hãy chặt những cây nho của chúng, vì các cây nho đó không đến từ Đức Giê-hô-va.
\v 11 Vì nhà Y-sơ-ra-ên và Giu-đa hoàn toàn phản bội Ta Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 12 chúng đã từ bỏ Ta. Chúng nói: Ngài không có thật. Hoạn nạn sẽ không xảy đến trên chúng ta, chúng ta cũng sẽ không thấy gươm hoặc đói kém.
\v 13 Vì các tiên tri đã trở nên vô ích như gió và chẳng còn ai để rao báo sứ điệp của Đức Giê-hô-va cho chúng ta. Hãy để sự đe dọa giáng trên chúng.’”
\s5
\v 14 Vậy Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân phán như vầy: “Vì ngươi đã nói vậy, kìa, Ta sẽ đặt Lời Ta trong miệng ngươi. Lời ấy sẽ như lửa, và dân này sẽ như gỗ! Lửa sẽ thiêu đốt chúng.
\v 15 Kìa! Ta sẽ đem một nước từ phương xa đến nghịch lại nguoi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên Đức Giê-hô-va phán vậy đây là một nước trường cửu, một nước có từ đời xưa! Đó là một nước mà ngươi chẳng biết tiếng của nó, ngươi cũng chẳng hiểu chúng nói gì.
\s5
\v 16 Bao tên của nó như cửa mồ mở rộng. Chúng là lính chiến.
\v 17 Mùa gặt của ngươi sẽ bị tàn phá, con trai con gái của ngươi cũng vậy, kể cả thức ăn của ngươi. Chúng sẽ ăn bầy chiên và gia súc ngươi; chúng sẽ ăn trái nho và trái vả của ngươi. Chúng sẽ dùng gươm triệt hạ các thành trì kiên cố của ngươi mà ngươi đã nương dựa.
\s5
\v 18 Nhưng ngay cả trong những ngày ấy Đức Giê-hô-va phán như vầy Ta không có ý định diệt ngươi hoàn toàn.
\v 19 Việc đó sẽ xảy đến khi dân ngươi, Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, nói: Sao Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta giáng những việc này trên chúng ta? thì khi đó ngươi, Giê-rê-mi, sẽ nói với chúng: Vì ngươi đã lìa bỏ Đức Giê-hô-va và thờ lạy các thần của dân ngoại trong xứ mình, nên ngươi cũng sẽ hầu hạ khách lạ trong xứ chẳng phải của ngươi.
\s5
\v 20 Hãy báo tin này cho nhà Gia-cốp và loan tin trong khắp Giu-đa. Hãy nói:
\v 21 Hãy nghe, hỡi dân ngu dại! Vì thần tượng không có ý chí; chúng có mắt nhưng không thể thấy. Chúng có tai nhưng không nghe.
\v 22 Đức Giê-hô-va phán như vầy ngươi không sợ Ta hoặc run sợ trước mặt Ta sao? Ta đã lấy cát làm biên giới cho biển cả, một giới mạng đời đời không thể nào vượt qua được ngay cả khi biển cả nổi sóng tới lui cũng không ảnh hưởng. Ngay cả khi biển gầm sóng, chúng cũng không vượt qua được.
\s5
\v 23 Nhưng dân này cứng lòng. Chúng phản nghịch và lìa bỏ Ta.
\v 24 Vì chúng không tự nhủ: “Chúng ta hãy kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, là Đấng ban mưa mưa đầu mùa và mưa cuối mùa vào đúng thời điểm, Ngài dành cho chúng ta những tuần lễ cố định để thu hoạch.”
\v 25 Tội lỗi các ngươi đã ngăn những điều này. Tội các ngươi đã ngăn điều tốt lành đến trên các ngươi.
\s5
\v 26 Vì trong dân Ta có những kẻ gian ác. Chúng nằm rình như kẻ bắt chim; chúng đặt bẫy và bắt dân sự.
\v 27 Như một chiếc lồng đầy ắp chim, nhà của chúng cũng đầy ắp sự giả dối. Vậy chúng lớn mạnh và giàu sang.
\v 28 Chúng trở nên mập béo; chúng đẫy đà. Tội ác của chúng thật quá nhiều. Chúng không bênh vực duyên cớ của dân sự, hoặc duyên cớ của người mồ côi. Chúng thịnh vượng mặc dù chúng không đối xử công bằng với người thiếu thốn.
\v 29 Ta chẳng nên trừng phạt chúng vì những điều này sao Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta sẽ không báo thù một quốc gia như vậy sao?
\s5
\v 30 Sự tàn ác và kinh khiếp đã xảy ra trong xứ.
\v 31 Các tiên tri nói tiên tri giả, và thầy tế lễ cai trị bằng quyền lực của riêng họ. Dân ta yêu mến đường lối này, nhưng cuối cùng thì điều gì sẽ xảy ra?
\s5
\c 6
\p
\v 1 Hỡi dân Ben-gia-min, hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem để được an toàn. Hãy thổi kèn ở Tê-cô-a. Hãy giương cao cờ ở Bết Ha-kê-rem, vì sự ác ôn đang đến từ phương bắc; một sự tiêu diệt lớn đang đến.
\v 2 Con gái Si-ôn, một ái nữ xinh đẹp và thanh nhã, sẽ bị tiêu diệt.
\v 3 Những người chăn chiên và bầy chiên sẽ đến với chúng; họ sẽ dựng lều chung quanh nàng; mỗi người sẽ chăn bầy bằng chính tay mình.
\s5
\v 4 Các vua sẽ nói: “Hãy dâng mình cho các thần để chiến trận. Hãy trỗi dậy, chúng ta hãy đánh vào buổi trưa. Thật tệ khi chiều đã gần tới, bóng tối đang dần buông.
\v 5 Nhưng chúng ta hãy đánh vào ban đêm và hủy diệt các pháo đài của nàng.”
\s5
\v 6 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Hãy chặt cây của nó, hãy đắp chiến hào công phá Giê-ru-sa-lem. Đây đúng là thành phải bị đánh, vì nó đầy dẫy sự đàn áp.
\v 7 Như giếng luôn có nước, thành này luôn sản sinh điều ác. Người ta nghe có bạo lực và hỗn loạn ở đó. Đau khổ và tai họa thường xảy ra không ngớt trước mặt Ta.
\v 8 Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy chấp nhận kỷ luật, nếu không Ta sẽ từ bỏ ngươi và khiến ngươi hoang phế, trở thành một xứ hoang vu.’”
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Chúng chắc chắn sẽ mót những kẻ còn sót lại ở Y-sơ-ra-ên như trong vườn nho. Hãy giơ tay ra mót nho trong vườn.
\v 10 Ta nên nói và cảnh cáo ai để họ nghe? Kìa! Tai chúng chưa được cắt bì; chúng không thể chú ý! Kìa! Lời của Đức Giê-hô-va đã đến trên chúng đặng sửa trị chúng, nhưng chúng không muốn.”
\s5
\v 11 Nhưng tôi đầy cơn giận của Đức Giê-hô-va. Tôi mệt vì phải nín lặng. Ngài phán với tôi: “Hãy trút xuống trên trẻ con ngoài đường và trên những nhóm nam thanh nữ tú. Vì cả chồng và vợ đều sẽ bị bắt đem đi; kể cả những người cao tuổi cũng vậy.
\v 12 Nhà của chúng sẽ bị trao cho người khác, kể cả ruộng vườn và vợ của chúng. Vì chính tay Ta sẽ đánh cư dân trong xứ - Đức Giê-hô-va phán vậy
\s5
\v 13 từ kẻ nhỏ cho đến người lớn ai nấy đều tham lợi bất chính. Từ tiên tri đến thầy tế lễ - ai nấy đều hành động gian xảo.
\v 14 Nhưng chúng chữa lành sự tan vỡ của dân Ta thật sơ sài, chúng nói: Bình an! Bình an! khi chẳng có sự bình an.
\v 15 Chúng có xấu hổ khi phạm tội ghê tởm không? Chúng không xấu hổ đâu; chúng không kinh nghiệm lòng khiêm nhường. Vậy chúng sẽ ngã rạp cùng với những kẻ ngã rạp mà Ta đoán phạt. Chúng sẽ bị phá đổ,” Đức Giê-hô-va phán.
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy đứng ở nơi giao lộ và nhìn; hãy hỏi xem các đường mòn cũ. Đường lối tốt đẹp ở đâu? Sau đó hãy tiếp tục đi và tìm nơi nghỉ ngơi. Nhưng chúng nói: Chúng tôi không đi.
\v 17 Ta đã đặt những người canh gác để lắng nghe tiếng kèn. Nhưng chúng nói: Chúng tôi không đi.
\v 18 Vậy, hỡi các dân, hãy nghe! Kìa, hỡi những người làm chứng, chuyện gì sẽ xảy ra với chúng.
\v 19 Hỡi đất, hãy nghe! Kìa, Ta sẽ giáng tai họa trên dân này vì hậu quả của tư tưởng chúng. Chúng không chú ý đến lời hoặc luật pháp của Ta, nhưng chúng từ bỏ.”
\s5
\v 20 “Nhũ hương từ Sê-ba đem đến có ý nghĩa gì với Ta? Những của lễ thiêu có mùi thơm từ phương xa có ích gì? Ta không nhận của lễ thiêu của ngươi cũng như vật tế lễ của ngươi.
\v 21 Vậy Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ đặt một chướng ngại vật trước mặt dân này. Chúng sẽ vấp ngã cả cha và con cái. Cư dân và người lân cận của chúng cũng sẽ bị hư mất.
\v 22 Đức Giê-hô-va phán vầy: Kìa, một dân từ phương bắc đang đến. Vì một nước lớn đã được dấy lên từ một xứ xa xôi.
\s5
\v 23 Chúng sẽ nhặt cung và giáo. Chúng độc ác và không có lòng thương xót. Tiếng của chúng như biển gầm thét, chúng cưỡi ngựa theo đội hình lính chiến, hỡi con gái Si-ôn.’”
\v 24 Chúng tôi đã nghe tin về chúng. Tay chúng tôi bủn rủn. Tội lỗi bao vây chúng tôi như người nữ đau đẻ.
\s5
\v 25 Chớ ra đồng, chớ đi ngoài đường, vì gươm của kẻ thù và sự kinh khiếp ở khắp nơi.
\v 26 Hỡi con gái của dân Ta, hãy mặc áo vải gai và lăn mình trong tro bụi tang lễ như vừa mất con một. Hãy làm một đám tang cay đắng cho ngươi, vì kẻ hủy diệt sẽ thình lình đến trên ngươi.
\s5
\v 27 “Hỡi Giê-rê-mi, Ta đã dựng nên ngươi, là người thử luyện dân Ta như người thử kim loại, ngươi sẽ xem xét và thử đường lối của chúng.
\v 28 Tất cả chúng đều là dân cứng đầu nhất, chúng đi quanh quẩn giết người khác. Tất cả chúng đều như đồng và sắt, hành động đồi bại.
\v 29 Tiếng rầm vang bị lửa làm cháy sém; chì tan chảy trong lửa. Việc tôi luyện vẫn diễn ra giữa chúng, nhưng vô ích, vì cái ác không bị loại bỏ.
\v 30 Chúng sẽ được gọi là bạc bị loại, vì Đức Giê-hô-va đã loại chúng.”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy đứng nơi cổng vào nhà Đức Giê-hô-va và công bố lời này! Hãy nói: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi nhà Giu-đa, những người vào các cổng này để thờ lạy Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Hãy sửa đường lối ngươi và những việc làm của các ngươi, Ta sẽ cho các ngươi tiếp tục sống ở nơi này.
\v 4 Đừng tin những lời giả dối và nói rằng: “Đền thờ của Đức Giê-hô-va! Đền thờ của Đức Giê-hô-va! Đền thờ của Đức Giê-hô-va!”
\s5
\v 5 Vì nếu các ngươi hoàn toàn sửa chữa đường lối và việc làm của các ngươi; nếu các ngươi thực thi công lý trọn vẹn giữa người và người lân cận của người đó
\v 6 nếu các ngươi không bóc lột người cư ngụ trong xứ, người mồ côi, hoặc người góa bụa và không làm đổ huyết vô tội trong nơi này, và không bước theo các thần khác để làm hại mình
\v 7 thì Ta sẽ cho các ngươi ở trong nơi này, trong xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ các ngươi từ đời xưa và đời đời.
\s5
\v 8 Này! Các ngươi cậy những lời giả dối mà chẳng có ích gì.
\v 9 Các ngươi có trộm cắp, giết người, và phạm tội tà dâm không? Các ngươi có thề dối và dâng hương cho Ba-anh và đi theo các thần khác là những thần mà các ngươi chẳng biết không?
\v 10 Sau đó, các ngươi có đến và đứng trước mặt Ta trong nhà này, nhân danh Ta và nói rằng: “Chúng tôi được cứu,” để các ngươi có thể làm mọi việc gớm ghiếc này không?
\v 11 Có phải nhà này, là nhà mang danh Ta, bị các ngươi xem là hang trộm cướp sao? Nhưng kìa, Ta đã thấy điều đó Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 12 Vậy, hãy đến chỗ của Ta tại Si-lô, là nơi Ta để danh Ta ngự tại đó từ ban đầu, và xem việc Ta đã làm cho nó vì cớ tội ác của Y-sơ-ra-ên, dân Ta.
\v 13 Bây giờ, vì các ngươi đã làm những việc này Ta đã nói với các ngươi hết lần này đến lần khác, nhưng các ngươi chẳng nghe. Ta đã mời gọi các ngươi, nhưng các ngươi không trả lời.
\v 14 Vậy, điều Ta đã làm tại Si-lô, Ta cũng sẽ làm với nhà này, là nhà được gọi bằng danh Ta, nhà mà các ngươi tin, là nơi mà Ta đã ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi.
\v 15 Vì Ta sẽ vứt bỏ các ngươi khỏi trước mắt Ta như Ta đã vứt bỏ hết thảy anh em các ngươi, tức là tất cả con cháu Ép-ra-im.
\s5
\v 16 Còn ngươi, Giê-rê-mi, chớ cầu thay cho dân này, và chớ khóc lóc van xin hay khẩn nguyện cho chúng, chớ cầu xin Ta, vì Ta sẽ không nghe ngươi đâu.
\v 17 Ngươi không thấy việc chúng làm trong các thành ở Giu-đa và trên các đường phố ở Giê-ru-sa-lem sao?
\v 18 Trẻ con đi gom củi và cha nhóm lửa! Phụ nữ nhào bột làm bánh dâng cho nữ thần của các từng trời và đổ của lễ quán cho các thần khác để chọc giận Ta.
\s5
\v 19 Có phải chúng thật đang chọc giận Ta không? Đức Giê-hô-va phán vậy chẳng phải chúng nó tự chọc mình, để chuốc lấy sự hổ thẹn sao?
\v 20 Vậy, Chúa Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, cơn giận và cơn thạnh nộ của Ta sẽ đổ xuống trên nơi này, trên cả loài người và thú vật, trên cây cối ở ruộng vườn và bông trái trên đất. Nó sẽ đốt cháy và chẳng bao giờ bị dập tắt.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán vầy: Hãy thêm của lễ thiêu của các ngươi vào các lễ vật khác và ăn thịt đi.
\v 22 Vì khi Ta đem tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai cập, Ta không đòi hỏi thứ gì ở chúng cả. Ta không truyền lệnh cho chúng về của lễ thiêu và của tế lễ.
\v 23 Ta chỉ truyền cho chúng lệnh này: “Hãy lắng nghe tiếng Ta, rồi Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi và các ngươi sẽ là dân Ta. Vậy hãy bước đi trong mọi đường lối mà Ta truyền cho các ngươi, để các ngươi được phước.”
\s5
\v 24 Nhưng chúng không nghe và cũng không chú tâm. Chúng sống theo những mưu toan cứng cỏi từ lòng gian ác của chúng, chúng đi thụt lùi chứ không tiến về trước.
\v 25 Kể từ ngày tổ phụ các ngươi ra khỏi xứ Ai Cập cho đến ngày nay, Ta đã sai mọi tôi tớ, tiên tri của Ta, đến cùng các ngươi. Ta vẫn sai họ ra đi.
\v 26 Nhưng chúng không nghe Ta. Chúng không chú tâm. Trái lại, chúng cứng cổ. Chúng gian ác hơn tổ phụ chúng.
\s5
\v 27 Vậy hãy tuyên bố những lời này cho chúng, nhưng chúng sẽ không nghe ngươi. Hãy tuyên bố những lời này cho chúng, nhưng chúng sẽ không trả lời ngươi.
\v 28 Hãy nói với chúng: “Đây là một dân không nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng và không nhận lấy kỷ luật. Lẽ thật bị triệt phá và bị dứt khỏi miệng chúng.
\s5
\v 29 Hãy cắt tóc và cạo đầu ngươi, hãy vứt tóc ngươi đi. Hãy hát một bài ca tang chế trên các nơi trơ trọi. Vì Đức Giê-hô-va đã loại bỏ và từ bỏ dòng dõi này trong cơn giận Ngài.
\v 30 Vì con cái Giu-đa đã làm điều ác trước mặt Ta Đức Giê-hô-va phán vậy Chúng đặt những thứ gớm ghiếc trong nhà, là nơi danh Ta được rao truyền, và làm ô uế nó.
\s5
\v 31 Chúng xây điện thờ Tô-phết ở thung lũng Ben Hin-nôm. Chúng thiêu con trai và con gái mình qua lửa đây là việc mà Ta không truyền cho chúng. Ta không bao giờ nghĩ đến việc đó.
\v 32 Vậy hãy xem, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy khi nó sẽ không còn được gọi là Tô-phết hay thung lũng Ben Hin-nôm nữa. Nó sẽ là thung lũng Tàn sát; chúng sẽ chôn thây ở Tô-phết cho đến khi không còn chỗ.
\s5
\v 33 Thi hài của dân này sẽ là thức ăn cho chin trời và các loài thú trên đất, sẽ chẳng có ai xua đuổi chúng.
\v 34 Ta sẽ đặt dấu chấm hết cho các thành ở Giu-đa và các đường phố ở Giê-ru-sa-lem, những tiếng tung hô và reo mừng, tiếng của chàng rể và nàng dâu; vì xứ ấy sẽ trở nên hoang vu.”
\s5
\c 8
\p
\v 1 “Khi đó Đức Giê-hô-va phán như vầy người ta sẽ đào bới nơi mồ những hài cốt của các vua Giu-đa và các quan, hài cốt của các thầy tế lễ và tiên tri, và hài cốt của cư dân Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Họ sẽ phơi chúng dưới mặt trời, mặt trăng và hết thảy những ngôi sao trên trời; là những vật mà họ đã đi theo và tìm kiếm đặng thờ lạy. Các hài cốt ấy sẽ không được gom lại hoặc chôn cất nữa. Chúng sẽ như phân trên mặt đất.
\v 3 Ở những nơi còn lại mà Ta đã đuổi chúng, chúng sẽ chọn chết hơn là sống, tức là những kẻ còn sót lại của quốc gia xấu xa này Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
\s5
\v 4 Hãy nói với chúng: Đức Giê-hô-va phán vầy: Có ai vấp ngã mà không đứng dậy không? Có ai lạc lối mà không cố tìm đường về không?
\v 5 Sao dân Giê-ru-sa-lem này quay lưng bỏ đi miệt mài trong sự bất trung vậy? Chúng cứ bội bạc và không chịu ăn năn.
\s5
\v 6 Ta đã chú ý và lắng nghe, nhưng chúng không nói thật; không ai buồn lòng về sự gian ác của mình, không ai nói rằng: “Tôi đã làm gì?” Tất cả chúng nó đi theo đường riêng của mình, như ngựa đực xông ra trận mạc.
\v 7 Ngay cả con cò trên trời cũng biết đúng mùa; con bồ câu, chim én, và chim nhạn cũng vậy. Chúng di cư vào đúng thời điểm, nhưng dân Ta không biết giới mạng của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 8 Sao các ngươi nói: “Chúng tôi khôn ngoan! Luật pháp của Đức Giê-hô-va ở cùng chúng ta”? Thật vậy, hãy xem! Ngòi bút giả dối của các thầy thông giáo đã tạo nên sự lừa dối.
\v 9 Những kẻ khôn ngoan này sẽ hổ thẹn. Chúng mất hết can đảm và bị sập bẫy. Kìa! Chúng chối bỏ lời của Đức Giê-hô-va, vậy sự khôn ngoan của chúng có ích gì?
\v 10 Vì vậy, Ta sẽ trao vợ của chúng cho người khác, và ruộng vườn của chúng cho những kẻ sẽ sở hữu, vì từ kẻ nhỏ nhất cho đến người già nhất, tất cả đều cực kỳ tham lam! Từ tiên tri đến thầy tế lễ, tất cả đều gian dối.
\s5
\v 11 Chúng đã điều trị vết thương cho con gái dân Ta như thể đó là một vế thương tầm thường. Chúng nói: “Bình an, Bình an,” nhưng chẳng có bình an.
\v 12 Chúng có hổ thẹn khi chúng phạm những việc gớm ghiếc không? Chúng không hổ thẹn. Chúng không khiêm nhường. Vậy, chúng sẽ vấp ngã trong thời điểm đoán phạt, chung với những kẻ đã vấp ngã rồi. Chúng sẽ bị lật đổ, Đức Giê-hô-va phán.
\v 13 Ta sẽ loại bỏ chúng hoàn toàn Đức Giê-hô-va phán vậy cây nho sẽ chẳng có trái, cây vả cũng sẽ không có trái. Lá sẽ tàn héo, và những gì Ta đã ban cho chúng đều sẽ phôi phai.
\s5
\v 14 Sao chúng ta đứng đây? Hãy đến; chúng ta hãy đến các thành kiên cố, chúng ta sẽ im lặng và chết tại đó. Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta sẽ bắt chúng ta phải im. Ngài sẽ khiến chúng ta uống thuốc độc, vì chúng ta đã phạm tội nghịch với Ngài.
\v 15 Chúng ta hy vọng có bình an, nhưng sẽ không có điều gì tốt lành. Chúng ta mong chờ thời điểm chữa lành, nhưng kìa, sẽ có sự kinh khiếp.
\s5
\v 16 Người ta nghe tiếng hí của ngựa đực từ Đan. Khắp đất rúng động khi nghe tiếng hí của chiến mã. Chúng sẽ đến, thiêu nuốt xứ và sự giàu sang của nó, thành phố và cư dân trong đó.
\v 17 Vì kìa, Ta sẽ sai rắn đến giữa các ngươi, rắn cực độc mà các ngươi không thể dụ được. Chúng sẽ cắn các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy.’”
\s5
\v 18 Nỗi sầu khổ của tôi không dứt, lòng tôi mệt mỏi.
\v 19 Kìa! Có tiếng kêu la của con gái dân Ta từ một nơi rất xa! Chẳng phải Đức Giê-hô-va ngự tại Si-ôn sao? Hoặc chẳng phải Ngài là vua của họ sao? Sao chúng xúc phạm Ta bằng tượng chạm và các thần ngoại bang vô dụng của chúng?
\s5
\v 20 Mùa gặt đã qua, mùa hè đã hết. Nhưng chúng ta chưa được cứu.
\v 21 Còn tôi thì đau đớn vì sự xúc phạm của con gái dân tôi. Tôi xót xa vì những việc kinh khủng đã xảy đến trên họ; tôi mất tinh thần.
\v 22 Ở Ghi-lê-át không còn thuốc sao? Ở đó không có bác sĩ sao? Sao con gái dân tôi không được chữa lành?
\s5
\c 9
\p
\v 1 Ước gì đầu tôi có thể tuôn nước, và mắt tôi là nguồn lụy! Vì tôi muốn than khóc cả ngày và đêm cho những người ở giữa con gái dân tôi đã bị giết.
\v 2 Ước gì có người cho tôi một chỗ trọ dành cho lữ khách trong hoang mạc, là nơi tôi có thể đi để từ bỏ dân tôi. Ước gì tôi có thể từ bỏ họ, vì họ đều là những người ngoại tình, là phường phản bội!
\v 3 Đức Giê-hô-va phán: “Chúng nói những điều giả dối bằng lưỡi, là cung giả dối của chúng, chúng ở trong xứ là mạnh lớn nhưng chẳng trung thành. Chúng liên tục làm điều ác. Chúng không biết Ta.”
\s5
\v 4 Ai nấy phải đề phòng người lân cận mình và đừng tin vào anh em nào cả. Vì mỗi người anh em là kẻ lừa dối và mỗi người lân cận đều đi dạo nói lời vu khống.
\v 5 Ai nấy đều giễu cợt người lân cận mình và không nói lời chân thật. Lưỡi chúng dạy những điều dối trá. Chúng kiệt sức khi phạm tội.
\v 6 Ngươi sống giữa sự dối trá; bởi sự dối trá đó mà chúng không nhìn biết Ta Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ thử chúng. Ta sẽ xem xét chúng. Nếu không thì Ta nên xử con gái dân Ta thế nào?
\v 8 Lưỡi chúng là mũi tên sắc nhọn; chúng nói sai sự thật. Lưỡi chúng nói sự bình an cho người lân cận, nhưng trong lòng chúng thì lập mưu gài bẫy.
\v 9 Ta chẳng nên phạt chúng vì cớ những việc này sao Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta chẳng nên báo trả một dân như vậy sao?
\s5
\v 10 Ta sẽ hát một bài ca buồn và than khóc về núi đồi, và một bài ca tang chế về những đồng cỏ. Vì chúng bị thiêu đốt đến nỗi không ai đi qua đó nữa. Chúng sẽ không còn nghe tiếng của bầy gia súc. Chin trời và thú vật thay thảy đều bỏ chạy.
\v 11 Vậy, Ta sẽ biến Giê-ru-sa-lem thành đống hoang tàn, là nơi chó rừng đến ẩn náu. Ta sẽ khiến các thành của Giu-đa thành những nơi hoang phế chẳng có cư dân.”
\v 12 Ai là người khôn ngoan để hiểu điều này? Miệng Đức Giê-hô-va phán cùng ai để người thuật lại điều ấy? Tại sao xứ trở nên tàn lụi? Nó bị phá hủy như hoang mạc, là nơi chẳng có ai đi ngang qua.
\s5
\v 13 Đức Giê-hô-va phán: “Bởi vì chúng đã từ bỏ luật pháp Ta đặt trước mặt chúng, vì chúng không nghe tiếng Ta hoặc bước theo tiếng ấy.
\v 14 Vì chúng đi theo lòng cứng cỏi của chúng và thờ lạy Ba-anh như tổ phụ chúng đã dạy chúng.
\s5
\v 15 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Kìa, Ta sẽ khiến dân này ăn ngải cứu và uống nước độc.
\v 16 Ta sẽ rải chúng ra giữa các nước mà chúng không biết, tổ phụ chúng cũng không biết. Ta sẽ sai gươm đuổi theo chúng cho đến khi Ta hoàn toàn tiêu diệt chúng.’”
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Hãy nghĩ về điều này: Hãy mời những người khóc mướn đến. Hãy gọi những đàn bà khéo than khóc đến.
\v 18 Hãy để chúng nhanh chóng tới và hát một bài ai oán cho chúng ta, để chúng ta rơi lệ và tuôn tràn nước mắt.
\s5
\v 19 Vì có tiếng khóc than tại Si-ôn: Chúng ta bị phá hủy dường nào. Chúng ta rất xấu hổ, vì chúng ta đã bỏ xứ do họ đã phá hủy nhà chúng ta.
\v 20 Vậy, hỡi những người đàn bà, hãy nghe lời Đức Giê-hô-va; hãy chú ý đến những sứ điệp do miệng Ngài phán. Hãy dạy con gái của các bà hát bài ca ai oán, và dạy cho những người nữ láng giềng một bài ca tang chế.
\s5
\v 21 Vì sự chết đã vào nhà chúng ta qua cửa sổ; nó vào trong cung điện của chúng ta. Nó hủy diệt con trẻ từ bên ngoài, và thanh niên trong các quảng trường thành phố.
\v 22 Hãy tuyên bố như vầy: Đây là lời phán của Đức Giê-hô-va thi thể của người ta sẽ ngã rạp như phân ngoài đồng, và như lúa đã cắt rồi mà còn bỏ tại đó, sẽ không ai đến gom chúng.’”
\s5
\v 23 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Người khôn ngoan chớ tự hào về sự khôn ngoan mình, chiến sĩ chớ tự hào về sức mạnh mình. Người giàu chớ tự hào về sự giàu có mình.
\v 24 Vì nếu ai tự hào về bất cứ điều gì, hãy tự hào rằng người đó có sự hiểu biết sâu sắc và biết Ta. Vì Ta là Đức Giê-hô-va, Đấng thể hiện sự trung kiên, công lý và công bình trên đất. Vì Ta yêu thích những việc ấy Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 25 “Kìa, ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán như vầy là lúc Ta trừng phạt những kẻ được cắt bì chỉ trên thân thể.
\v 26 Ta sẽ phạt Ai Cập và Giu-đa, Ê-đôm, dân Am-môn, Mô-áp, và tất cả những dân cạo tóc, là dân sống trong hoang mạc. Vì tất cả những dân này là dân không được cắt bì, và hết thảy nhà Y-sơ-ra-ên có một tấm lòng không được cắt bì.”
\s5
\c 10
\p
\v 1 “Hãy nghe lời Đức Giê-hô-va phán cùng ngươi, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ học theo các thói của các dân, và chớ sợ các dấu trên trời, vì các dân sợ những dấu này.
\s5
\v 3 Vì phong tục của các dân đều vô dụng. Người ta chặt cây trong rừng; thợ thủ công dùng búa mà đẽo.
\v 4 Sau đó chúng trang trí bằng bạc và vàng. Chúng lấy búa và đinh đóng vào để nó không ngã nhào.
\v 5 Các thần tượng này giống như bù nhìn giữa ruộng dưa chuột, vì chúng không nói được. Chúng phải được khiêng, vì chúng không thể đi. Chớ sợ chúng, vì chúng không thể giáng điều dữ, chúng cũng không thể làm phước.’”
\s5
\v 6 Lạy Đức Giê-hô-va, chẳng ai giống như Ngài. Ngài là lớn, danh Ngài có sức mạnh lớn lắm.
\v 7 Ai không sợ Ngài, lạy Vua của các nước? Vì Ngài đáng được như vậy, vì chẳng có ai như Ngài giữa người khôn ngoan của các nước hoặc giữa các vương quốc.
\s5
\v 8 Tất cả chúng đều như nhau, chúng ngu đần và ngu xuẩn, họ là môn đệ của các thần tượng chẳng là gì ngoại trừ làm bằng gỗ.
\v 9 Chúng đem bạc được dát từ Tạc-sơ, và vàng từ U-pha do thợ thủ công làm và được tinh chế. Y phục của chúng làm bằng vải xanh dương và đỏ tía. Tất cả những thứ này là sản phẩm của thợ khéo.
\v 10 Nhưng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời chân thật. Ngài là Đức Chúa Trời hằng sống và vua đời đời. Đất rúng động khi Ngài giận, và các nước không thể chịu đựng cơn giận của Ngài.
\s5
\v 11 Ngươi hãy nói với chúng như vầy: “Các thần không dựng nên trời và đất sẽ bị diệt khỏi đất và khỏi các từng trời.”
\v 12 Đấng dựng nên đất bằng quyền năng Ngài đã tạo lập thế gian bằng sự khôn ngoan Ngài và giương các từng trời bằng sự hiểu biết của Ngài.
\v 13 Tiếng của Ngài phát ra tiếng ầm ầm của nước trong các từng trời, Ngài ban sương giáng khắp đất. Ngài làm cho chớp theo mưa phát ra và sai gió ra từ kho Ngài.
\s5
\v 14 Ai nấy đều dốt nát và thiết hiểu biết. Thợ kim loại xấu hổ vì thần tượng của họ. Vì các hình tượng được đúc đều giả dối; chúng chẳng có sự sống.
\v 15 Chúng vô dụng, chúng là sản phẩm của những kẻ chế giễu; chúng sẽ bị phá hủy khi chúng bị trừng phạt.
\v 16 Nhưng Đức Chúa Trời, sản nghiệp của Gia-cốp, chẳng giống như vầy, vì Ngài là Đấng nắn lên tất cả. Y-sơ-ra-ên là chi phái của cơ nghiệp Ngài; danh Ngài là Đức Giê-hô-va vạn quân.
\s5
\v 17 Hãy gom gói đồ của ngươi và rời khỏi xứ này, hỡi dân đang bị bao vây.
\v 18 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, lần này Ta sẽ quăng xa các dân trong xứ. Ta sẽ khiến chúng đau buồn, và chúng sẽ tỉnh biết.”
\s5
\v 19 Khốn cho tôi! Vì cớ xương tôi bị gãy, vết thương tôi bị nhiễm trùng. Vậy tôi nói: “Đây chắc chắn là nỗi thống khổ, nhưng tôi phải mang nó.”
\v 20 Lều tôi bị hủy, dây lều của tôi bị đứt. Chúng đã bắt con tôi khỏi tôi, chúng nó không còn nữa. Không còn ai giương lều tôi hoặc căng màn tôi.
\s5
\v 21 Những người chăn chiên trở nên ngu dại. Họ không tìm kiếm Đức Giê-hô-va, vì vậy họ không thành công; các bầy chiên của họ bị tản lạc.
\v 22 Có tin đồn rằng: “Kìa! Sự ấy đang đến! Một cơn động đất lớn đang đến từ phương bắc đặng khiến các thành của Giu-đa trở nên hoang tàn, là nơi ở của chó rừng.”
\s5
\v 23 Lạy Đức Giê-hô-va, con biết rằng đường lối con người chẳng phải đến từ họ. Không ai có thể sắp đặt các bước chân mình.
\v 24 Lạy Đức Giê-hô-va, xin kỷ luật con bằng công lý chứ không bởi cơn giận của Ngài, kẻo Ngài sẽ diệt con.
\v 25 Xin Chúa đổ cơn giận Ngài trên các dân không biết Ngài và trên các gia đình không kêu cầu danh Ngài. Vì chúng đã cắn xé Gia-cốp và nuốt ông ấy để phá hủy hoàn toàn và đánh đổ chỗ ở của ông ấy.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy nghe lời giao ước này, và hãy rao cho dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Hãy nói với chúng rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ai không nghe những lời của giao ước này thật đáng bị rủa sả.
\v 4 Đây là giao ước mà Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi ghi nhớ ngày Ta đem họ ra khỏi xứ Ai Cập, khỏi lò luyện sắt tan chảy. Ta đã phán: “Hãy nghe tiếng Ta và làm mọi điều như Ta đã truyền cho các ngươi, vì các ngươi sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của các ngươi.”
\v 5 Hãy vâng phục Ta hầu cho Ta giữ lời thề mà Ta đã thề cùng tổ phụ các ngươi, rằng Ta sẽ ban cho họ xứ đượm sữa và mật, là xứ mà các ngươi ngày nay đang cư ngụ.” Sau đó, tôi, Giê-rê-mi, trả lời Ngài: “Vâng, thưa Đức Giê-hô-va!”
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy công bố mọi điều này trong các thành ở Giu-đa và trên các đường phố Giê-ru-sa-lem. Hãy nói: Khá nghe những lời của giao ước này và thực hiện những lời ấy.
\v 7 Vì Ta đã truyền lệnh cho tổ phụ các ngươi từ ngày Ta đem họ ra khỏi xứ Ai Cập cho đến tận bây giờ, Ta vẫn luôn răn bảo chúng rằng: “Hãy nghe tiếng Ta.”
\v 8 Nhưng chúng không nghe cũng không chú ý. Ai nấy đều bước theo sự cứng cỏi của lòng dạ gian ác mình. Vậy Ta đã giáng trên họ mọi lời rủa sả trong giao ước mà Ta đã truyền. Nhưng chúng vẫn không vâng phục.”
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va lại phán cùng tôi: “Có một âm mưu giữa dân Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem.
\v 10 Chúng đã hướng về những tội lỗi của tổ phụ chúng, là những kẻ từ chối nghe lời Ta nhưng bước theo các thần khác đặng thờ lạy chúng. Nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa đã phá vỡ giao ước mà Ta đã lập với tổ phụ chúng.
\s5
\v 11 Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Xem này, Ta sẽ giáng tai họa trên chúng, chúng sẽ không thể thoát khỏi tai họa ấy.
\v 12 Các thành Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem sẽ đi kêu cầu các thần mà chúng đã dâng của lễ, nhưng những thần ấy chắc chắn sẽ không cứu chúng khi chúng gặp tai họa.
\v 13 Vì số các thần của ngươi bằng với số các thành của ngươi, hỡi Giu-đa. Ngươi đã tăng số các bàn thờ đáng xấu hổ của ngươi ở Giê-ru-sa-lem, là những bàn thờ dâng hương cho Ba-anh, bằng với số các đường phố của ngươi.
\s5
\v 14 Vậy hỡi Giê-rê-mi, ngươi chớ cầu thay cho dân này. Ngươi chớ than khóc hay cầu thay cho chúng. Vì Ta sẽ không nghe khi chúng kêu cầu Ta trong cơn tai họa mình.
\v 15 Tại sao dân yêu dấu của Ta, là dân có quá nhiều ý định xấu, lại ở trong nhà Ta? Vì thịt dành cho các của tế lễ của ngươi không thể cứu ngươi vì ngươi đã vui mừng khi làm điều ác.
\v 16 Khi xưa, Đức Giê-hô-va gọi các ngươi là cây ô-liu sum suê, đẹp đẽ và sai trái tốt. Nhưng Ngài đã đốt lửa nơi cây ấy như tiếng ầm ầm của cơn bão; các nhánh nó sẽ gãy.
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đấng đã trồng ngươi, đã tuyên phán giáng phạt tai họa trên ngươi vì những việc ác mà nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa đã phạm chúng đã chọc giận Ta bằng việc cúng cho Ba-anh.’”
\s5
\v 18 Đức Giê-hô-va bày tỏ cho tôi những điều này, vì vậy tôi biết chúng. Lạy Đức Giê-hô-va, Ngài đã cho tôi thấy những việc làm của họ.
\v 19 Tôi như con chiên hiền lành bị dẫn đến hàng làm thịt. Tôi không biết chúng đã lập mưu hại tôi: “Chúng ta hãy diệt cây ấy cùng với trái của nó! Chúng ta hãy đốn nó khỏi đất của người sống để danh Ngài sẽ không còn được nhớ nữa.”
\v 20 Đức Giê-hô-va vạn quân là quan xét công bình, Ngài xem xét tấm lòng và tâm trí. Tôi sẽ thấy sự báo thù của Ngài trên chúng, vì tôi đã trình bày duyên cớ tôi trước mặt Ngài.
\s5
\v 21 Vậy, Đức Giê-hô-va phán về dân A-na-tốt, là dân tìm kiếm mạng sống ngươi: “Chúng nói: Ngươi chớ nhân danh Đức Giê-hô-va mà nói tiên tri, nếu không chúng ta sẽ giết ngươi.
\v 22 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phạt chúng. Những kẻ trai trẻ cường tráng sẽ chết bởi gươm. Con trai và con gái chúng sẽ chết bởi đói kém.
\v 23 Sẽ chẳng còn ai được sống, vì Ta sẽ giáng tai họa trên dân A-na-tốt, vào năm chúng bị trừng phạt.’”
\s5
\c 12
\p
\v 1 Lạy Đức Giê-hô-va, bất cứ khi nào con tranh luận cùng Ngài, Ngài cũng đúng. Chắc chắn con phải nói cho Ngài biết lý do con kêu nài: Sao đường lối của kẻ ác được thành công? Tất cả những kẻ vô đạo đều thành công.
\v 2 Ngài vun trồng chúng và chúng đâm rễ. Chúng cứ sản sinh bông trái. Miệng chúng nó thì gần Ngài, nhưng lòng chúng nó thì xa cách Ngài.
\s5
\v 3 Nhưng chính Ngài biết con, lạy Đức Giê-hô-va. Ngài nhìn thấy con và xem xét lòng con. Xin Chúa dẫn chúng đi như chiên bị dẫn đến lò mổ. Xin Chúa để riêng chúng cho ngày bị mổ thịt.
\v 4 Đất sẽ than khóc bao lâu nữa, cỏ ngoài đồng sẽ khô héo đến bao giờ vì cớ lòng gian ác của cư dân nó? Các loài thú và chim đều bị cất đi. Thật vậy, chúng nói: “Đức Chúa Trời không biết việc gì sẽ xảy đến với chúng ta.”
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va phán: “Hỡi Giê-rê-mi, nếu ngươi chạy đua với người chạy bộ mà ngươi còn đuối sức, thì làm sao ngươi có thể chạy đua với ngựa? Nếu ngươi vấp ngã trong xứ đang yên ổn, yên bình, làm sao ngươi đối phó được ở những bụi cây dọc sông Giô-đanh?
\v 6 Ngay cả anh em và gia đình cha ngươi phản bội ngươi và kịch liệt tố cáo ngươi. Chớ tin cậy chúng, thậm chí nếu chúng nói lời tử tế với ngươi.
\s5
\v 7 Ta đã bỏ nhà Ta; Ta đã bỏ cơ nghiệp Ta. Ta đã phó dân yêu dấu của Ta vào tay kẻ thù nghịch nó.
\v 8 Cơ nghiệp Ta như sư tử ẩn mình trong bụi cây; nó gầm thét nghịch lại Ta, cho nên Ta ghét nó.
\v 9 Cơ nghiệp của Ta như con linh cẩu, và chim săn mồi vây quanh trên đầu nó. Hãy đi, tập hợp tất cả các loài thú đồng, cho chúng cắn nuốt đi.
\s5
\v 10 Nhiều người chăn chiên đã hủy phá vườn nho Ta. Chúng giẫm đạp sản nghiệp xứ của Ta; chúng biến chỗ đất vui thích của Ta thành nơi hoang mạc, một nơi tan hoang.
\v 11 Chúng khiến nó trở nên một nơi tan hoang. Ta than khóc vì nó; nó bị tan hoang. Khắp xứ đều trở nên hoang tàn, vì không ai còn nhớ nó nữa.
\s5
\v 12 Những kẻ hủy diệt đến trên các nơi trơ trọi trong hoang mạc, vì gươm của Đức Giê-hô-va tàn phá từ đầu này đến đầu kia trong xứ. Chẳng có loài xác thịt nào được an toàn trong xứ.
\v 13 Chúng gieo lúa mì nhưng gặt bụi gai. Chúng nhọc công nhưng chẳng đạt được gì. Vậy hãy xấu hổ về của kiếm được của các ngươi vì cớ cơn giận của Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 14 Đức Giê-hô-va phán vậy với những người lân cận tôi, là những kẻ gian ác đánh sản nghiệp mà tôi đã ban cho họ: “Kìa, Ta là Đấng sẽ nhổ chúng khỏi đất, Ta sẽ bứng nhà Giu-đa khỏi chúng.
\v 15 Sau khi Ta đã bứng các nước ấy, Ta sẽ thương xót chúng và đem chúng trở về; Ta sẽ đem chúng về lại sản nghiệp và xứ của chúng.
\s5
\v 16 Nếu các nước ấy cẩn thận học hỏi đường lối của dân Ta, nhân danh Ta mà thề rằng Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống! y như chúng đã dạy dân Ta nhân danh Ba-anh của chúng mà thề, thì chúng sẽ được vững lập giữa dân Ta.
\v 17 Nhưng nếu chẳng ai lắng nghe, Ta sẽ bứng nước ấy. Nó chắc chắn sẽ bị nhổ và bị diệt Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\c 13
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy đi mua một đai lưng bằng vải gai mịn và đeo nó quanh thắt lưng, nhưng chớ dầm trong nước.”
\v 2 Vậy, tôi mua một đai lưng như Đức Giê-hô-va đã truyền, rồi tôi quấn quanh hông tôi.
\v 3 Sau đó, Đức Giê-hô-va phán với tôi lần thứ nhì,
\v 4 “Hãy lấy đai lưng mà ngươi đã mua hiện đang ở trên hông ngươi, rồi đến Ơ-phơ-rát. Hãy giấu trong một kẽ đá.”
\s5
\v 5 Vậy, tôi đi giấu nó ở Ơ-phơ-rát như Đức Giê-hô-va đã truyền.
\v 6 Sau nhiều ngày, Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hãy trở lại Ơ-phơ-rát, lấy đai lưng mà Ta đã bảo ngươi đem giấu.”
\v 7 Vậy, tôi trở lại Ơ-phơ-rát và đào cái lưng mà tôi đã giấu. Nhưng kìa! Đai lưng bị mục; nó chẳng còn nguyên vẹn nữa.
\s5
\v 8 Sau đó, có lời Đức Giê-hô-va lại phán với tôi rằng:
\v 9 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Cũng vậy, Ta sẽ đánh đổ sự ngạo mạn của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\v 10 Dân gian ác này không chịu nghe lời Ta, sống theo lòng cứng cỏi, thờ lạy và quỳ lạy trước các thần khác chúng sẽ như chiếc đai lưng vô dụng này.
\v 11 Vì như đai lưng đeo quanh hông, Ta đã buộc cả nhà Y-sơ-ra-ên và cả nhà Giu-đa quanh hông Ta Đức Giê-hô-va phán vậy để chúng làm dân Ta, đem lại cho Ta danh tiếng, sự ngợi khen, và tôn kính. Nhưng chúng chẳng lắng nghe Ta.
\s5
\v 12 Do đó, ngươi hãy bảo chúng: Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Bình sẽ đầy rượu. Chúng sẽ hỏi ngươi: Bộ chúng tôi không biết là bình sẽ đầy rượu sao?
\v 13 Hãy đáp rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ khiến các cư dân trong xứ này, các vua ngồi trên ngai Đa-vít, các thầy tế lễ, tiên tri, và mọi cư dân Giê-ru-sa-lem say be bét.
\v 14 Sau đó, Ta sẽ khiến chúng đánh nhau tơi bời, cha đánh con cái Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ không tiếc chúng cũng chẳng thương xót chúng, Ta sẽ không ngăn chúng khỏi sự hủy diệt.’”
\s5
\v 15 Hãy nghe và chú ý. Chớ kiêu ngạo, vì Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 16 Hãy dâng sự tôn kính cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của quý vị trước khi Ngài giáng sự tối tăm, và trước khi Ngài khiến quý vị vấp chân trên núi lúc chạng vạng. Vì quý vị mong chờ ánh sáng, nhưng Ngài sẽ khiến nơi ấy trở nên tối tăm, như mây đen dày đặc.
\v 17 Vậy nếu quý vị không nghe, tôi sẽ khóc vì cớ sự kiêu ngạo của quý vị. Tôi sẽ khóc dầm dề, vì bầy chiên của Đức Giê-hô-va đã bị bắt làm phu tù.
\s5
\v 18 “Hãy nói với vua và hoàng hậu: Hãy hạ mình và ngồi xuống, vì mão triều trên đầu ngươi, niềm kiêu hãnh và vinh quang ngươi, đã rơi xuống rồi.
\v 19 Các thành ở Nê-ghép sẽ bị phong tỏa, không ai mở ra. Giu-đa sẽ bị bắt làm phu tù, cư dân nó sẽ bị bắt đi lưu đày.
\s5
\v 20 Hãy ngước mắt lên và xem những kẻ đến từ phương bắc. Bầy chiên đẹp đẽ đã được ban cho ngươi đâu?
\v 21 Ngươi sẽ nói gì khi Đức Chúa Trời lập trên ngươi những kẻ mà ngươi đã dạy dỗ làm bạn ngươi? Những điều này chẳng phải là sự khởi đầu của những cơn đau đớn quặn thắt bủa vây ngươi như người nữ sinh con sao?
\s5
\v 22 Ngươi tự nhủ rằng: Sao những việc này xảy đến với tôi? Đó là vì tội ác ngươi nhiều đến nỗi vạt áo ngươi bị tốc lên và ngươi bị hãm hiếp.
\v 23 Người Cút có thể đổi màu da không, con báo có thể đổi đốm của nó không? Nếu vậy thì chính các ngươi cũng có thể làm điều thiện dù các ngươi quen làm điều ác.
\v 24 Do đó, Ta sẽ rải chúng như trấu bay trong hoang mạc.
\s5
\v 25 Đây phần Ta đã ban cho ngươi, là phần Ta đã chia cho ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy vì ngươi đã quên Ta và tin cậy sự giả dối.
\v 26 Ta cũng sẽ lột váy ngươi, thiên hạ sẽ thấy sự trần truồng của ngươi.
\v 27 Tội tà dâm và tiếng hí của ngươi, sự xấu hổ về hành vi dâm dục của ngươi trên đồi và ngoài đồng! Ta sẽ khiến những sự gớm ghiếc ấy bị phơi bày! Hỡi Giê-ru-sa-lem, khốn cho ngươi! Ngươi ô uế. Việc này sẽ còn kéo dài bao lâu nữa?”
\s5
\c 14
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi về cơn hạn hán,
\v 2 “Hãy để Giu-đa than khóc; hãy để các cổng thành tiêu điều. Chúng than khóc vì xứ; tiếng kêu cầu của chúng về Giê-ru-sa-lem thấu đến trời cao.
\v 3 Những kẻ quyền quý sai đầy tớ đi tìm nước. Khi tới mương không tìm thấy nước, họ thất vọng và quay về; họ trùm đầu, xấu hổ và thẹn thùng.
\s5
\v 4 Bởi đó, đất nứt nẻ, vì trong xứ không có mưa. Thợ cày xấu hổ và trùm đầu.
\v 5 Ngay cả hươu cái cũng đẻ con nó ngoài đồng và bỏ chạy, vì không có cỏ.
\v 6 Lừa hoang đứng trên gò trọi, thở hổn hển trong gió như chó rừng. Mắt chúng đờ đẫn, vì không có cây cỏ.”
\s5
\v 7 Lạy Đức Giê-hô-va, dù tội ác chúng con làm chứng nghịch lại chúng con, xin Ngài hành động vì cớ danh Ngài. Vì hành động bội bạc của chúng con gia tăng; chúng con đã phạm tội với Ngài.
\v 8 Lạy Chúa, là niềm Hy vọng của Y-sơ-ra-ên, là Đấng cứu dân ấy khi túng quẫn, sao Ngài trở nên như khách lạ trong xứ, như khách bộ hành căng lều ngủ qua đêm?
\v 9 Sao Ngài như người lúng túng, như chiến sĩ không thể giải cứu được ai? Vì Ngài ở giữa chúng con, lạy Đức Giê-hô-va! Danh Ngài được rao truyền giữa chúng con. Xin đừng lìa bỏ chúng con.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán với dân này: “Vì chúng thích đi lang thang, chúng không kiềm chế chân mình.” Đức Giê-hô-va không hài lòng. Bây giờ Ngài nhớ lại tội ác chúng và trừng phạt tội lỗi chúng.
\v 11 Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Chớ cầu thay cho dân này.
\v 12 Vì nếu chúng kiêng ăn, Ta sẽ không nghe tiếng khóc than của chúng, và nếu chúng dâng của lễ thiêu và của lễ chay, Ta sẽ không nhậm. Vì Ta sẽ tiêu diệt chúng bằng gươm, đói kém, và dịch lệ.”
\s5
\v 13 Tôi nói: “Ôi, lạy Chúa Giê-hô-va! Kìa! Các tiên tri nói với họ: Các ngươi sẽ không thấy gươm; cũng chẳng gặp đói kém, vì Ta sẽ cho các ngươi thật yên ninh trong xứ này.’”
\v 14 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Các tiên tri nhân danh Ta mà nói tiên tri giả. Ta không sai chúng, Ta cũng không truyền cho chúng bất cứ mệnh lệnh nào hoặc phán với chúng bất cứ điều chi. Chúng nói tiên tri cùng các ngươi theo những sự hiện thấy giả dối, sự bói toán, sự vô ích từ lòng chúng.”
\s5
\v 15 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Về phần các tiên tri nhân danh Ta mà nói tiên tri nhưng chẳng phải là những kẻ mà Ta đã sai đi những kẻ nói rằng sẽ không có gươm dao hay đói kém trong xứ này: các tiên tri ấy sẽ chết bởi gươm và nạn đói.
\v 16 Và những người mà chúng nói tiên tri sẽ bị ném ra ngoài đường phố Giê-ru-sa-lem vì cớ đói kém và gươm dao, sẽ không ai chôn chúng, vợ chúng, con trai và con gái chúng vì Ta sẽ đổ sự gian ác của chúng lại trên chúng.
\s5
\v 17 Hãy phán lời này với chúng: Hãy để tôi khóc cả ngày và đêm chẳng thôi, vì con gái đồng trinh của dân tôi sẽ bị đánh một đòn khủng khiếp bị thương và không chữa được.
\v 18 Nếu tôi ra ngoài đồng, và kìa! Có kẻ bị giết bằng gươm. Và nếu tôi vào trong thành, kìa! Có kẻ chết vì đói kém. Ngay cả tiên tri và thầy tế lễ cũng đi lang thang khắp xứ mà chẳng hiểu biết gì.’”
\s5
\v 19 Ngài đã hoàn toàn từ bỏ Giu-đa sao? Ngài ghét Si-ôn sao? Sao Ngài khiến chúng con khổ sở khi chúng con không được chữa lành? Chúng con trông chờ sự bình an, nhưng chẳng có điều gì tốt lành chúng con mong được được chữa lành, nhưng kìa, chỉ có sự kinh khiếp.
\v 20 Lạy Đức Giê-hô-va, chúng con xin nhận tội của tổ phụ chúng tôi, vì chúng con đã phạm tội nghịch lại Ngài.
\s5
\v 21 Xin đừng từ bỏ chúng con! Vì cớ danh Ngài, xin đừng làm nhục ngôi vinh quang của Ngài. Xin Chúa nhớ và đừng phá vỡ giao ước của Ngài với chúng con.
\v 22 Giữa các thần của các nước, ai có thể ban mưa rào? Lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng con, Ngài chẳng phải là Đấng làm việc này sao? Chúng con trông mong nơi Ngài, vì chính Ngài làm mọi điều ấy.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Thậm chí nếu Môi-se hoặc Sa-mu-ên đứng trước mặt Ta, Ta vẫn sẽ không chiếu cố dân này. Hãy đuổi chúng khuất mắt Ta, để chúng đi đâu thì đi.
\v 2 Chúng sẽ hỏi ngươi: Chúng tôi nên đi đâu? Ngươi phải trả lời chúng rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ai bị định cho chết sẽ chết; ai bị định cho gươm sẽ chết bởi gươm. Ai bị định cho đói kém sẽ bị đói kém; và ai bị định cho sự phu tù sẽ bị bắt làm phu tù.
\s5
\v 3 Vì Ta sẽ phó chúng vào bốn loại tai họa Đức Giê-hô-va phán vậy gươm để giết, chó để tha đi, chim trời và thú rừng sẽ cắn nuốt và diệt đi.
\v 4 Ta sẽ khiến chúng trở thành một mối kinh hoàng cho mọi vương quốc trên đất, vì những việc Ma-na-se con Ê-xê-chia, vua Giu-đa, đã làm tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 5 Vì ai sẽ thương xót ngươi, hỡi Giê-ru-sa-lem? Ai sẽ than khóc ngươi? Ai sẽ quay lại hỏi thăm ngươi?
\v 6 Ngươi đã từ bỏ Ta Đức Giê-hô-va phán vậy. Ngươi đã thối lui. Vậy Ta sẽ giơ tay ra đánh ngươi và diệt ngươi. Ta đã chán phải thương xót ngươi.
\v 7 Ta sẽ cầm nia sàng lọc chúng ở các cổng thành trong xứ này. Ta sẽ diệt sạch chúng. Ta sẽ hủy diệt dân Ta vì chúng không từ bỏ đường lối mình.
\s5
\v 8 Ta sẽ khiến số góa phụ của chúng nhiều hơn cát trên bờ biển. Giữa trưa Ta sẽ sai kẻ hủy diệt đến hại các bà mẹ của những gã trai trẻ. Ta sẽ khiến sự khích động và kinh hãi thình lình giáng trên chúng.
\v 9 Người mẹ đã sinh bảy con sẽ mòn mỏi. Nàng thở thoi thóp. Mặt trời của nàng sẽ lặn đang khi còn ban ngày. Nàng sẽ xấu hổ và bối rối, vì Ta sẽ phó những kẻ còn sót lại cho gươm trước mặt kẻ thù nghịch chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 10 Mẹ ơi, con thật là khốn khổ! Vì mẹ đã sinh ra con làm người mà cả xứ đều tranh cãi và tranh luận. Con không cho vay ai mượn, cũng chẳng mượn ai, nhưng mọi người đều rủa sả con.
\v 11 Đức Giê-hô-va phán: “Chẳng lẽ Ta sẽ không giải cứu ngươi mãi mãi sao? Chắc chắn Ta sẽ khiến kẻ thù ngươi van xin giúp đỡ trong kỳ hoạn nạn và đau buồn.
\v 12 Ai có thể đập vỡ sắt? Đặc biệt là sắt từ phương bắc trộn với đồng?
\s5
\v 13 Ta sẽ phó sự giàu sang và kho báu của các ngươi cho quân thù như một của cướp. Ta sẽ làm như vậy vì tội lỗi các ngươi đã phạm trong địa phận mình.
\v 14 Ta sẽ khiến quân thù giải các ngươi đến xứ mà ngươi không biết, vì lửa sẽ cháy, cơn thạnh nộ Ta sẽ nổi phừng vì các ngươi.”
\s5
\v 15 Lạy Đức Giê-hô-va, chính Ngài biết! Xin Chúa nhớ lại và giúp đỡ con. Xin Chúa báo thù những kẻ theo đuổi con. Xin Ngài nhẫn nại đừng cất con đi. Xin Chúa biết rằng con chịu sỉ nhục vì Ngài.
\v 16 Con tìm được lời Ngài và ăn nuốt lời ấy. Lời Ngài là niềm vui với con, khiến lòng con vui mừng, vì con được gọi bằng danh Ngài, lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời vạn quân.
\s5
\v 17 Con không ngồi trong hội những kẻ chế giễu hoặc hoan hỉ. Con ngồi một mình vì cớ tay mạnh mẽ của Ngài, vì Ngài khiến con căm phẫn.
\v 18 Sao con cứ đau đớn triền miên và vết thương con không thể được chữa lành? Ngài sẽ như một dòng nước giả dối, dòng nước khô cạn chăng?
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Giê-rê-mi, nếu ngươi ăn năn, Ta sẽ phục hồi ngươi, ngươi sẽ đứng trước mặt Ta và phục vụ Ta. Vì nếu ngươi làm cho những điều ngu xuẩn lìa khỏi những sự quý báu, ngươi sẽ như miệng Ta. Chúng sẽ trở về với ngươi, nhưng ngươi không được trở về cùng chúng.
\v 20 Ta sẽ khiến ngươi như bức tường đồng bất khả xâm phạm đối với dân này, chúng sẽ gây chiến với ngươi. Nhưng chúng sẽ không thắng ngươi, vì Ta ở cùng ngươi đặng giải cứu ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 21 vì Ta sẽ cứu ngươi khỏi tay kẻ ác và chuộc ngươi khỏi tay kẻ bạo tàn.”
\s5
\c 16
\p
\v 1 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi,
\v 2 “Ngươi chớ cưới vợ, và chớ sanh con trai hay con gái trong xứ này.
\v 3 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy về các con trai và con gái được sinh trong xứ này, về những người mẹ sinh ra chúng, và về những người cha sinh ra chúng trong xứ này,
\v 4 Chúng sẽ chết vì bệnh tật. Sẽ không ai than khóc hay chôn cất chúng. Chúng sẽ như phân trên đất. Chúng sẽ chết bởi gươm và nạn đói, xác chúng sẽ trở thành đồ ăn cho chim trời và các loài thú trên đất.
\s5
\v 5 Vì Đức Giê-hô-va phán rằng: Chớ vào nhà có tang. Chớ than khóc, và chớ cảm thông cho những người này. Vì Ta đã cất đi sự bình an, sự thành tín theo giao ước, và lòng thương xót của Ta khỏi dân này! Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 6 như vậy, kẻ lớn và kẻ nhỏ sẽ chết trong xứ này. Chúng sẽ không được chôn cất, cũng chẳng ai than khóc chúng. Không ai tự cắt thịt hoặc cạo đầu vì chúng.
\s5
\v 7 Không ai chia sẻ thức ăn khi than khóc để an ủi những người có tang, và không ai trao chén chia buồn cho cha hoặc mẹ của chúng để an ủi chúng.
\v 8 Ngươi chớ đến nhà có yến tiệc đặng ngồi ăn uống chung với chúng.
\v 9 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, trước mặt ngươi, trong đời ngươi và trong xứ này, Ta sẽ chấm dứt tiếng vui mừng và hoan hỉ, tiếng của chàng rể và nàng dâu.
\s5
\v 10 Khi ngươi thuật những lời này cho dân, chúng sẽ hỏi ngươi: Sao Đức Giê-hô-va rao tai họa này cho chúng tôi? Chúng tôi đã phạm tội gì đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi?
\v 11 Vậy hãy bảo chúng: Bởi vì tổ phụ các ngươi từ bỏ Ta Đức Giê-hô-va phán vậy chúng theo các thần khác, thờ lạy và quỳ lại trước các thần đó. Chúng từ bỏ Ta và không giữ luật pháp Ta.
\s5
\v 12 Nhưng chính các ngươi còn phạm điều ác nhiều hơn tổ phụ các ngươi, vì kìa, ai nấy đều theo sự cứng cỏi trong lòng gian ác mình; không ai lắng nghe Ta.
\v 13 Vậy, Ta sẽ ném các ngươi ra khỏi xứ này đến một xứ mà các ngươi và tổ phụ các ngươi không biết, các ngươi sẽ thờ lạy các thần khác cả ngày và đêm, vì Ta sẽ không ban ơn cho các ngươi.
\s5
\v 14 Vậy hãy xem! Những ngày ấy gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy khi chẳng còn ai nói: Thật Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập.
\v 15 Vì thật Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ phương bắc và ra khỏi những xứ mà Ngài đã khiến họ tản lạc, Ta sẽ đem chúng trở về xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ chúng.
\s5
\v 16 Kìa! Ta sẽ sai đến nhiều ngươi dân Đức Giê-hô-va phán vậy để họ bắt chúng. Sau đó, Ta sẽ sai đến nhiều thợ săn để họ săn bắt chúng giữa núi đồi, và giữa những khe đá.
\v 17 Vì mắt Ta dõi xem đường lối chúng; chúng không thể giấu trước mặt Ta. Chúng không thể che đậy tội lỗi trước mặt Ta.
\v 18 Trước nhất, Ta sẽ báo trả tội ác và tội lỗi chúng gấp đôi vì chúng làm ô uế xứ của Ta bằng những hình tượng gớm ghiếc, và làm đầy dẫy cơ nghiệp Ta bằng những thần tượng kinh tởm.”
\s5
\v 19 Lạy Giê-hô-va, Ngài là đồn lũy và nơi nương náu của con, Ngài là nơi an toàn của con trong ngày khốn cùng. Các nước từ khắp những nơi đầu cùng đất sẽ đến với Ngài và nói: “Chắc chắn tổ phụ chúng tôi đã hưởng những sự giả dối. Chúng rỗng tuếch; chẳng đem đến ích lợi gì.
\v 20 Người ta tạo ra các thần cho riêng họ phải không? Nhưng chúng không phải là thần.
\v 21 Vậy hãy xem! Lần này Ta sẽ khiến chúng biết, Ta sẽ khiến chúng biết tay Ta và quyền năng Ta, để chúng biết rằng danh Ta là Giê-hô-va.”
\s5
\c 17
\p
\v 1 “Tội lỗi của Giu-đa được viết bằng bút sắt có đầu kim cương. Tội ấy được khắc trên bảng lòng của chúng và trên sừng các bàn thờ của các ngươi.
\v 2 Con cái chúng nhớ các bàn thờ và trụ thờ thần A-sê-ra của chúng ở dưới gốc cây xum xuê trên đồi cao.
\s5
\v 3 Chúng nhớ những bàn thờ của chúng trên núi ở vùng thôn quê. Ta sẽ biến sự giàu có và của cải ngươi thành của cướp. Vì tội lỗi ở khắp mọi nơi trong bờ cõi ngươi.
\v 4 Ngươi sẽ mất cơ nghiệp mà Ta ban cho ngươi. Ta sẽ khiến kẻ thù ngươi bắt ngươi làm nô lệ trong xứ mà ngươi chẳng biết, vì ngươi đã nhen lửa trong cơn thạnh nộ của Ta, cơn giận ấy sẽ cháy mãi không tắt.”
\s5
\v 5 Đức Giê-hô-va phán: “Đáng rủa thay là kẻ tin cậy loài người; nó lấy xác thịt làm sức mạnh nhưng xoay lòng mình khỏi Đức Giê-hô-va.
\v 6 Nó sẽ như thạch thảo ở A-ra-ba và sẽ không thấy điều gì tốt đẹp xảy đến. Nó sẽ ở trong những nơi đầy sỏi đá trong hoang mạc, một xứ cằn cỗi không có người ở.
\s5
\v 7 Nhưng ai tin cậy Đức Giê-hô-va thật đáng chúc phước thay, vì Đức Giê-hô-va là lý do người tin tưởng.
\v 8 Người sẽ như cây trồng gần dòng suối; rễ người sẽ lan tỏa. Dù trời nóng cũng không hề hấn, người vẫn sẽ ra lá xum xuê. Trong năm hạn hán, người sẽ không lo lắng, cũng chẳng ngưng ra trái.
\s5
\v 9 Lòng con người dối trá hơn bất kỳ điều gì khác. Nó xấu xa; ai có thể hiểu được?
\v 10 Ta là Giê-hô-va, Đấng dò xét tâm trí, kiểm tra lòng người. Ta báo cho mỗi người tùy điều họ đáng nhận, phạt họ tùy kết quả việc làm của họ.
\v 11 Gà gô ấp trứng chẳng phải do nó đẻ. Ai đó có thể trở nên giàu có một cách bất chính. Nhưng trong lúc thanh xuân của nó, sự giàu có sẽ từ bỏ nó và cuối cùng nó sẽ thành kẻ ngốc.”
\s5
\v 12 “Nơi đền thờ của chúng ta là ngôi vinh hiển, được lập nên từ ban đầu.
\v 13 Đức Giê-hô-va là niềm hy vọng của Y-sơ-ra-ên. Những kẻ từ bỏ Ngài sẽ nhục nhã. Những kẻ trong xứ xoay bỏ khỏi Ngài sẽ bị diệt. Vì chúng từ bỏ Đức Giê-hô-va, Ngài là nguồn nước sống.
\v 14 Lạy Đức Giê-hô-va, xin chữa lành con, rồi con sẽ được chữa lành! Xin giải cứu con, rồi con sẽ được cứu. Vì Ngài là bài ca ngợi khen của con.
\s5
\v 15 Kìa, họ hỏi con: Lời của Đức Giê-hô-va đâu? Hãy làm cho nó ứng nghiệm!”
\v 16 Về phần con, con không từ bỏ bổn phận làm người chăn chiên đi theo Ngài. Con không mong ngày gặp tai họa. Ngài biết những lời mà môi con công bố. Chúng ở trước mặt Ngài.
\s5
\v 17 Xin Chúa đừng làm con khiếp sợ. Ngài là nơi nương náu của con trong ngày hoạn nạn.
\v 18 Xin Chúa khiến những kẻ đeo đuổi con bị hổ thẹn, nhưng đừng để con xấu hổ. Nguyện chúng bị kinh hoàng, nhưng đừng để con bị kinh hoàng. Xin Chúa giáng ngày tai họa trên chúng và đập vỡ chúng bằng sự hủy diệt gấp đôi.”
\s5
\v 19 Đức Giê-hô-va phán với tôi như vầy: “Hãy đi và đứng nơi cổng của dân, nơi mà các vua Giu-đa vào và ra, sau đó hãy đứng ở tất cả các cổng khác ở Giê-ru-sa-lem.
\v 20 Hãy bảo chúng: Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi các vua Giu-đa và dân Giu-đa, và toàn thể cư dân Giê-ru-sa-lem là những người ra vào các cổng này.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy cẩn thận bảo vệ mạng sống mình, chớ mang gánh trong ngày Sa-bát qua các cổng thành Giê-ru-sa-lem.
\v 22 Chớ đem vật gánh nào ra khỏi nhà ngươi trong ngày Sa-bát. Chớ làm bất cứ việc gì, nhưng hãy biệt riêng ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va, như Ta đã truyền cho tổ phụ các ngươi thực hiện.”’
\v 23 Chúng không nghe cũng chẳng để ý, chúng cứng cổ đến nỗi chẳng nghe Ta hoặc chấp nhận kỷ luật.
\s5
\v 24 Nếu các ngươi thật sự nghe Ta Đức Giê-hô-va phán vậy và không mang vật gánh qua các cổng thành trong ngày Sa-bát nhưng biệt riêng ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va và không làm việc chi trong ngày đó
\v 25 thì các vua, các vương tử, và những người ngồi trên ngai Đa-vít sẽ đến các cổng của thành này bằng xe chiến mã và ngựa, bao gồm các quan trưởng, người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem. Và thành này sẽ còn lại đời đời.
\s5
\v 26 Họ sẽ đến từ các thành ở Giu-đa và quanh Giê-ru-sa-lem, từ xứ Ben-gia-min và những vùng đất thấp, từ miền núi và từ Nê-ghép, họ đem theo của lễ thiêu, của tế lễ, của lễ chay và nhũ hương. Họ sẽ đem của lễ tạ ơn đến nhà Ta.
\v 27 Nhưng nếu các ngươi không nghe Ta để biệt riêng ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va nếu các ngươi đem vật gánh vào các cổng thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát, Ta sẽ nhen lửa trong các cổng thành, lửa ấy sẽ thiêu đốt mọi đồn lũy Giê-ru-sas-lem, nó sẽ cháy mãi không thôi.”
\s5
\c 18
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy đứng dậy và đi đến nhà thợ gốm, vì Ta sẽ cho ngươi nghe lời Ta tại đó.”
\v 3 Vậy, tôi đi đến nhà thợ gốm, và kìa! Người thợ gốm đang làm việc nơi bàn quay.
\v 4 Nhưng vật bằng đất sét mà ông đang nắn bị hư trong tay ông, do đó ông đổi ý và làm một vật khác mà theo ý ông cho là tốt.
\s5
\v 5 Kế đó, có lời Đức Giê-hô-va phán với tôi,
\v 6 “Chẳng lẽ Ta không thể làm cho ngươi như người thợ gốm này sao, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên? Đức Giê-hô-va phán như vầy. Kìa! Như đất sét trong tay người thợ gốm thể nào thì các ngươi trong tay Ta cũng sẽ thể ấy, hỡi nhà Y-sơ-ra-ên.
\v 7 Khi Ta tuyên bố điều gì về một nước hay một vương quốc, rằng Ta sẽ đuổi chúng đi, hủy đi, hoặc diệt đi.
\v 8 Nhưng nếu nước mà Ta đã tuyên bố quyết định từ bỏ điều ác, Ta sẽ động lòng thương xót chúng mà không giáng tai họa ấy.
\s5
\v 9 Có khi Ta tuyên bố về một nước hay một vương quốc rằng Ta sẽ dựng nó hoặc trồng nó.
\v 10 Nhưng nếu nó làm điều ác trước mặt Ta, không lắng nghe tiếng Ta, thì Ta sẽ ngưng xuống phước mà Ta đã định cho nó.
\s5
\v 11 Vậy bây giờ, hãy nói với dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ giáng họa trên ngươi. Ta sẽ lập kế hoạch hại ngươi. Hãy ăn năn, ai nấy hãy từ bỏ đường gian ác của mình, để đường lối và việc làm ngươi đem đến điều tốt cho ngươi.
\v 12 Nhưng chúng sẽ nói: Thật vô ích. Chúng tôi sẽ theo kế hoạch của chúng tôi. Ai nấy trong chúng tôi sẽ chiều lòng xấu xa và cứng cỏi mình.
\s5
\v 13 Vậy Đức Giê-hô-va phán: Hãy hỏi các nước, ai từng nghe đến điều này bao giờ? Trinh nữ Y-sơ-ra-ên phạm một việc kinh tởm.
\v 14 Tuyết ở Li-băng có bao giờ tan chảy khỏi các sườn núi đá ở đồng bằng không? Những con suối từ trên núi xa chảy đến có cạn nước không?
\s5
\v 15 Nhưng dân Ta đã quên Ta. Chúng dâng của lễ cho các thần tượng vô dụng và vấp ngã trên đường mình; chúng rời những con đường xưa đặng đi trong những con đường sai lệch.
\v 16 Xứ của chúng sẽ trở nên kinh khiếp, thành một thứ bị người ta bàn tán mãi mãi. Ai đi ngang qua nó đều sẽ rùng mình và lắc đầu.
\v 17 Ta sẽ rải chúng trước mặt kẻ thù nghịch như cơn gió đông. Ta sẽ quay lưng đi, chúng sẽ không thấy mặt Ta, trong ngày hoạn nạn.’”
\s5
\v 18 Vậy, dân chúng nói: “Nào, chúng ta hãy lập mưu nghịch Giê-rê-mi, vì thầy tế lễ luôn có luật pháp, người khôn ngoan luôn có lời khuyên, và tiên tri luôn có lời phán. Nào, chúng ta hãy dùng lời nói của chúng ta mà đánh nó và không để ý đến lời nó rao báo nữa.”
\v 19 Lạy Đức Giê-hô-va, xin đoái đến con! Xin nghe tiếng huyên náo của kẻ thù nghịch con.
\v 20 Tai họa của chúng sẽ thật sự được báo đáp cho con vì con đối xử tốt với chúng sao? Chúng đã đào hố trước mặt con. Xin Chúa nhớ là con đã đứng trước mặt Ngài và cầu xin Ngài ban phước cho chúng, khiến Ngài xây cơn giận khỏi chúng.
\s5
\v 21 Vì vậy, xin Chúa phó con cái chúng cho nạn đói, và phó chúng cho sức mạnh của gươm giáo. Xin Chúa cất vợ của chúng và khiến chúng góa bụa, người của chúng sẽ bị giết, những trai trẻ sẽ bị giết bằng gươm nơi chiến trận.
\v 22 Xin Chúa cho người ta nghe tiếng kêu la đau buồn từ trong nhà chúng, như Ngài bất ngờ giáng kẻ cướp trên chúng. Vì chúng đã đào hố đặng bắt con và đặt bẫy dưới chân con.
\v 23 Nhưng Ngài, lạy Đức Giê-hô-va, Ngài biết hết mọi kế hoạch của chúng lập nên để giết con. Xin Chúa đừng tha tội ác và tội lỗi chúng. Xin Chúa đừng xóa tội lỗi chúng khỏi trước mặt Ngài. Trái lại, xin Chúa ném chúng trước mặt Ngài. Xin Chúa hành động khi Ngài nổi cơn thạnh nộ.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy đi mua một bình đất sét của thợ gốm cùng với các trưởng lão trong dân và thầy tế lễ.
\v 2 Sau đó, hãy đến thung lũng Ben Hin-nôm ở lối vào của Cửa Sành, tại đó hãy công bố những lời mà Ta sẽ bảo ngươi.
\v 3 Hãy nói: Khá nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi các vua Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem! Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ giáng tai họa trên nơi này, và tai của những kẻ nghe về điều đó sẽ lùng bùng.
\s5
\v 4 Ta sẽ giáng họa vì chúng đã từ bỏ Ta và làm ô uế nơi này. Trong xứ này, chúng dâng của lễ cho các thần mà chúng chẳng biết. Chúng, tổ phụ của chúng, và các vua Giu-đa cũng đã làm xứ này ngập huyết vô tội.
\v 5 Chúng xây các điện thờ cho Ba-anh để dâng con trai chúng qua lửa làm của lễ thiêu cho thần đó đây là việc Ta chẳng truyền. Ta không bảo chúng làm việc đó, lòng Ta cũng chẳng hề nghĩ đến.
\s5
\v 6 Vậy, kìa, các ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy là khi nơi này sẽ không còn được gọi là Tô-phết, thung lũng Ben Hin-nôm, nó sẽ được gọi là thung lũng Tàn sát.
\v 7 Tại nơi này, Ta sẽ khiến các kế hoạch của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem trở nên vô dụng. Ta sẽ khiến chúng ngã xuống bởi gươm trước mặt kẻ thù nghịch chúng và bởi tay của những kẻ tìm mạng sống chúng. Sau đó, Ta sẽ phó thi thể chúng làm đồ ăn cho chim trời và các loài thú trên đất.
\v 8 Ta sẽ khiến thành này ra hoang vu và trở nên một thứ bị chê cười, vì ai đi ngang qua nó đều cũng sẽ rùng mình và chê cười vì cớ những tai họa của nó.
\v 9 Ta sẽ khiến chúng ăn thịt con trai và con gái chúng; ai nấy đều sẽ ăn thịt người lân cận mình khi bị bao vây và thống khổ bởi quân thù và những kẻ tìm hại mạng sống chúng.’”
\s5
\v 10 Sau đó, ngươi hãy đập vỡ cái bình gốm trước mặt những người đi với ngươi.
\v 11 Hãy bảo chúng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Ta sẽ làm điều tương tự với dân này và thành này Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy như Giê-rê-mi đã đập vỡ cái bình gốm đến nỗi không thể nào hàn gắn được. Người ta sẽ chôn người chết ở Tô-phết cho đến khi không còn chỗ chôn nữa.
\s5
\v 12 Đây là việc Ta sẽ làm trên nơi này và trên cư dân của nó, khi Ta biến thành này trở nên như Tô-phết Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 13 vậy, các nhà ở Giê-ru-sa-lem và của các vua Giu-đa sẽ trở nên như Tô-phết tức là những nhà mà trên sân thượng, những kẻ ô uế thờ lạy các vì tinh tú trên trời và đổ của lễ quán cho các thần khác.’”
\s5
\v 14 Vậy Giê-rê-mi rời Tô-phết, là nơi Đức Giê-hô-va đã sai đến để nói tiên tri. Ông đứng ở sân nhà Đức Giê-hô-va và nói với toàn thể dân sự,
\v 15 “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, Ta sẽ khiến thành này và những thành của nó lãnh tai họa mà Ta đã báo trước, vì chúng cứng cổ và không nghe lời Ta.’”
\s5
\c 20
\p
\v 1 Pa-su-rơ, con trai thầy tế lễ Y-mê ông làm quản đốc nghe lời Giê-rê-mi nói tiên tri trước nhà Đức Giê-hô-va.
\v 2 Pa-su-rơ đánh tiên tri Giê-rê-mi rồi cùm ông lại ở Thượng Cổng Ben-gia-min trong nhà Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Hôm sau, Pa-su-rơ thả Giê-rê-mi ra khỏi cùm. Giê-rê-mi bảo ông: “Đức Giê-hô-va không gọi ông là Pa-su-rơ, nhưng gọi ông là Ma-go Mi-sa-bíp.
\v 4 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ khiến ngươi trở nên vật ghê rợn ngươi và tất cả những người thân yêu của ngươi vì chúng sẽ ngã bởi gươm của quân thù mình và mắt ngươi sẽ thấy điều đó. Ta sẽ phó cả dân Giu-đa vào tay vua Ba-by-lôn. Hắn sẽ bắt chúng làm phu tù tại Ba-by-lôn hoặc dùng gươm đánh chúng.
\s5
\v 5 Ta sẽ phó cho hắn mọi của cải trong thành này và sự giàu có của nó, tất cả những châu báu và kho tàng của các vua Giu-đa. Chúng sẽ lấy và đem qua Ba-by-lôn.
\v 6 Nhưng ngươi, Pa-su-rơ, và hết thảy những kẻ trong nhà ngươi sẽ bị bắt làm phu tù. Ngươi sẽ đến Ba-by-lôn rồi chết tại đó. Ngươi và tất cả những người thân thiết của ngươi, là những kẻ mà ngươi đã nói tiên tri dối, sẽ được chôn ở đó.’”
\s5
\v 7 “Lạy Đức Giê-hô-va, Ngài đã thuyết phục con. Con thật sự bị thuyết phục. Ngài bủa vây con và đánh bại con. Con trở thành trò cười. Thiên hạ ngày nào cũng nhạo báng con.
\v 8 Vì hễ khi nào con nói, con đều kêu to và công bố rằng: Bạo lực và hủy diệt. Lời của Đức Giê-hô-va khiến con bị sỉ nhục và nhạo báng hàng ngày.
\v 9 Nếu con nói: Con sẽ không nghĩ về Đức Giê-hô-va nữa. Con sẽ không công bố danh Ngài nữa. Thì trong lòng con giống như có lửa cháy, thiêu đốt tận trong xương cốt con. Vậy, con gắng sức kiềm chế nhưng không thể.
\s5
\v 10 Con nghe nhiều người xung quanh đồn đoán về nỗi khiếp sợ. Hãy báo cáo! Chúng ta phải báo cáo! Những người ở gần con trông cho con vấp ngã. Có lẽ ông ấy có thể bị chơi khăm. Nếu vậy, chúng ta có thể chế ngự ông ấy và trả thù ông ấy.
\v 11 Nhưng Đức Giê-hô-va ở cạnh con như một chiến sĩ hùng mạnh, những kẻ theo đuổi con sẽ dao động. Chúng sẽ không đánh thắng con. Chúng sẽ xấu hổ lắm, vì chúng sẽ không thành công. Chúng sẽ xấu hổ không thôi, cả đời sẽ không bao giờ quên.
\s5
\v 12 Nhưng Ngài, lạy Đức Giê-hô-va vạn quân, Ngài là Đấng dò xét người công bình và xem xét tâm trí và lòng người. Xin cho con thấy sự báo thù của Ngài trên chúng vì con đã trình duyên cớ của con cho Ngài.
\v 13 Hãy hát cho Đức Giê-hô-va! Hãy ngợi khen Đức Giê-hô-va! Vì Ngài đã giải cứu mạng sống của những người bị áp bức khỏi tay kẻ bất lương.
\s5
\v 14 Ước gì ngày con sinh ra bị rủa sả. Xin chớ để ngày mẹ con sinh con ra được phước.
\v 15 Ước gì người báo tin cho ba con bị rủa sả, đó là người nói rằng: Ông vừa có một đứa con trai, khiến ba con vui mừng.
\s5
\v 16 Ước gì người đó như các thành mà Đức Giê-hô-va đã ném khi Ngài không thương xót. Nguyền cho người đó nghe tiếng kêu cầu giúp đỡ vào lúc bình minh và tiếng kêu xung trận vào ban trưa.
\v 17 Nguyền điều này xảy ra, vì Đức Giê-hô-va không giết con từ trong lòng mẹ hoặc để lòng mẹ là mồ chôn con mãi mãi.
\v 18 Tại sao con lọt lòng mẹ để gặp khó khăn và khổ cực, đến nỗi các ngày của con đầy tủi nhục?”
\s5
\c 21
\p
\v 1 Đây là lời đến từ Đức Chúa Trời phán với Giê-rê-mi khi Vua Sê-đê-kia sai Pa-su-rơ, con trai Manh-ki-gia, và Sô-phô-ni, con trai thầy tế lễ Ma-a-sê-gia đến gặp ông. Họ bảo ông,
\v 2 “Xin thay mặt chúng tôi cầu vấn Đức Giê-hô-va, vì Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn sẽ đánh chúng tôi. Có thể Đức Giê-hô-va sẽ làm phép lạ cho chúng tôi, như khi trước, và Ngài sẽ khiến vua ấy rút quân khỏi chúng tôi.”
\s5
\v 3 Giê-rê-mi trả lời họ: “Các ông phải nói với Sê-đê-kia như vầy,
\v 4 Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: Kìa, Ta sẽ khiến các binh khí trong tay ngươi mà ngươi sẽ dùng để đánh vua Ba-by-lôn và người Canh-đê đang bao vây ngươi ngoài thành xoay về phía ngươi! Vì Ta sẽ tập hợp chúng vào giữa thành.
\v 5 Sau đó, chính Ta sẽ giơ tay và cánh tay mạnh mẽ mà đánh ngươi trong cơn thạnh nộ, giận dữ, và uất khí.
\s5
\v 6 Ta sẽ đánh cư dân thành này, cả con người và thú vật. Chúng sẽ chết bởi một cơn tai họa kinh khiếp.
\v 7 Sau đó Đức Giê-hô-va phán như vầy Sê-đê-kia vua Giu-đa, các quần thần, dân chúng, và bất cứ ai còn sót lại trong thành này sau tai họa, gươm giáo, và nạn đói Ta sẽ phó chúng vào tay Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, kẻ thù của chúng, và là những kẻ tìm hại mạng sống chúng. Hắn sẽ giết chúng bằng lưỡi gươm. Hắn sẽ không thương hại chúng, tha cho chúng, hoặc thương xót chúng.
\s5
\v 8 Kế đến, ngươi hãy nói với dân này: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ đặt trước mặt ngươi một con đường sống và con đường chết.
\v 9 Hễ ai ở trong thành này sẽ chết bởi gươm, đói kém, và bệnh dịch; nhưng hễ ai ra ngoài và quỳ gối trước mặt dân Canh-đê là những kẻ bao vây ngươi sẽ sống. Người đó sẽ giữ được mạng mình.
\v 10 Vì Ta đã xoay mặt nghịch với thành này đặng giáng tai họa, chứ không đem đến điều lành Đức Giê-hô-va phán vậy. Thành ấy đã bị phó vào tay vua Ba-by-lôn, hắn sẽ phóng hỏa nó.
\s5
\v 11 Về nhà vua Giu-đa, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va.
\v 12 Hỡi nhà Đa-vít, Đức Giê-hô-va phán: Mỗi sáng hãy thực thi công lý. Hãy cứu người bị cướp bóc khỏi tay kẻ đàn áp, nếu không cơn thịnh nộ của Ta sẽ nổi phừng. Vì không ai có thể dập tắt được cơn thạnh nộ ấy bởi vì việc ác của các ngươi.
\s5
\v 13 Kìa, hỡi dân trong thung lũng! Ta nghịch lại ngươi, hỡi đá nơi đồng bằng Đức Giê-hô-va phán vậy Ta nghịch lại những kẻ nào nói rằng: “Ai sẽ ngự xuống đặng đánh chúng ta?” hoặc “Ai sẽ vào nhà chúng ta?”
\v 14 Ta đã ấn định các ngươi sẽ bị phạt vì cớ kết quả việc làm của các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta sẽ châm lửa nơi bụi cây, nó sẽ thiêu đốt mọi thứ xung quanh.’”
\s5
\c 22
\p
\v 1 Này là lời Đức Giê-hô-va phán: “Hãy đi xuống nhà của vua Giu-đa và công bố lời này tại đó.
\v 2 Hãy nói rằng: Hỡi Vua Giu-đa, là người ngồi trên ngai Đa-vít, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Và hãy nghe, hỡi các quần thần của ngươi, ngươi, dân ngươi, là những người vào ra các cổng này.
\v 3 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hãy thực thi công lý và sự công bình, hãy cứu người bị cướp bóc khỏi tay kẻ đàn áp. Chớ ngược đãi khách ngoại quốc này trong xứ ngươi, hoặc người mồ côi hoặc góa bụa. Chớ bạo lực hoặc làm đổ máu vô tội ở nơi này.
\s5
\v 4 Vì nếu ngươi thật sự làm những việc này, các vua ngồi trên ngai Đa-vít sẽ cưỡi xe chiến mã và cưỡi ngựa vào các cổng của nhà này, cùng với các quần thần và dân chúng!
\v 5 Nhưng nếu ngươi không nghe những lời mà Ta đã truyền Đức Giê-hô-va phán vậy thì cung điện này sẽ trở nên hoang phế.’”
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán về cung điện của vua Giu-đa: Ngươi giống như Ghi-lê-át, hoặc giống với đỉnh núi Li-băng. Nhưng Ta sẽ biến ngươi thành hoang mạc, thành những thành phố không có người ở.
\v 7 Vì Ta đã sai những kẻ hủy diệt đến với ngươi! Những kẻ cầm vũ khí sẽ chặt những cây tuyết tùng tốt nhất của ngươi và quăng vào lửa.
\s5
\v 8 Kế đó, nhiều dân sẽ đi ngang qua thành này. Ai nấy sẽ bảo nhau rằng: “Sao Đức Giê-hô-va khiến thành lớn này trở nên như thế?”
\v 9 Người kia sẽ trả lời: “Vì chúng đã từ bỏ giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng và quỳ lạy trước các thần khác và tôn thờ những thần ấy.”
\s5
\v 10 Chớ than khóc cho người chết. Chớ than khóc vì người ấy. Nhưng ngươi hãy than khóc cho những ai bị bắt làm phu tù, vì người đó sẽ không bao giờ trở về và thấy xứ mình đã chôn nhau cắt rốn nữa.
\s5
\v 11 Đức Giê-hô-va phán như vầy về Giê-hô-a-ha con trai Giô-si-a, vua Giu-đa, là người kế vị của Giô-si-a, cha ông ấy: Hắn đã đi khỏi xứ này và sẽ không quay về.
\v 12 Hắn sẽ chết tại nơi chúng bắt hắn đi lưu đày, hắn sẽ không bao giờ thấy lại xứ này.
\s5
\v 13 Khốn cho những ai xây nhà mình bằng sự bất chính và xây phòng cao mình bằng sự bất công; khốn cho những ai thuê làm công nhưng không trả tiền.
\v 14 Khốn cho những ai nói rằng: Ta sẽ xây nhà cao tầng và phòng cao thoáng đãng, ta sẽ xây nhiều cửa sổ lớn, và cán ô bằng gỗ tuyết tùng, sơn màu đỏ.
\s5
\v 15 Có phải đây là thứ biến ngươi thành một vị vua tốt đến nỗi ngươi muốn có tấm ván bằng gỗ tuyết tùng không? Chẳng phải cha ngươi cũng không ăn uống, nhưng thực thi công lý và điều công chính? Cho nên người được thịnh vượng.
\v 16 Người xét xử công minh cho người nghèo và người thiếu thốn. Vì vậy người được mọi điều tốt đẹp. Chẳng phải như vậy có nghĩa là biết Ta sao? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 17 Nhưng trong mắt ngươi và lòng ngươi chẳng có gì cả ngoại trừ sự lo lắng của ngươi về lợi lộc bất chính và làm đổ huyết vô tội, đàn áp và giày đạp người khác.
\v 18 Vì vậy, Đức Giê-hô-va phán về Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, như vầy: Chúng sẽ không than khóc nó mà nói rằng Than ôi, anh tôi! hoặc Than ôi, chị tôi! Chúng sẽ không than khóc nó mà nói rằng Than ôi, thầy tôi! hoặc Than ôi, bệ hạ tôi!
\v 19 Nó sẽ bị chôn như con lừa, bị kéo đi và quăng khỏi cửa thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 20 Hãy lên những ngọn núi Li-băng và kêu la. Hãy cất tiếng kêu lên ở Ba-san. Hãy kêu la từ các ngọn núi A-ba-rim, vì tất cả bạn hữu ngươi sẽ bị hủy diệt.
\v 21 Ta đã phán với ngươi khi ngươi được an toàn, nhưng ngươi nói: Tôi sẽ không nghe. Đây là tục lệ của ngươi từ khi ngươi còn trẻ, vì ngươi không nghe tiếng Ta.
\s5
\v 22 Gió sẽ lùa đi mọi người chăn chiên của ngươi, và bạn bè ngươi sẽ bị bắt làm phu tù. Sau đó, chắc chắn ngươi sẽ xấu hổ và bẽ mặt vì tất cả những việc ác của ngươi.
\v 23 Hỡi vua, ngươi là người sống trong Nhà ở Rừng Li-băng, ngươi làm tổ giữa những cây tuyết tùng, ngươi sẽ bị thương hại biết bao khi cơn đau quằn quại ập đến ngươi như lúc sinh đẻ.”
\s5
\v 24 “Thật như Ta hằng sống Đức Giê-hô-va phán vậy thậm chí nếu ngươi, Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, là ấn trong tay hữu Ta, Ta sẽ gỡ ngươi ra.
\v 25 Vì Ta đã phó ngươi vào tay những kẻ tìm mạng sống ngươi và những kẻ mà ngươi sợ hãi, ấy là tay của Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn và người Canh-đê.
\v 26 Ta sẽ ném ngươi và mẹ ngươi, là người đã sinh ra ngươi, vào xứ mà ngươi chẳng từng được sinh ra. Ngươi sẽ chết tại đó.
\s5
\v 27 Còn về xứ này là xứ chúng muốn trở về, chúng sẽ không trở về nữa.
\v 28 Có phải đây là bình bị coi khinh và đổ vỡ không? Có phải Giê-hô-gia-kin là chiếc bình mà chẳng ai vừa lòng không? Sao họ ném người và con cháu người ra, và đổ chúng vào xứ mà chúng chẳng biết?
\s5
\v 29 Hỡi đất, đất, đất! Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va!
\v 30 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy viết về Giê-hô-gia-kin như vầy: Nó sẽ không có con. Nó sẽ không thịnh vượng trong đời của nó, và không ai trong vòng con cháu nó thành công hoặc ngồi trên ngai Đa-vít và cai trị Giu-đa.’”
\s5
\c 23
\p
\v 1 “Khốn thay cho những kẻ chăn hủy diệt và làm tản lạc bầy chiên của đồng cỏ Ta Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\v 2 Vì thế, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán về những kẻ chăn đang chăn dắt dân Ngài như vầy: “Các ngươi làm tản lạc bầy chiên Ta và đuổi chúng đi. Các ngươi không chăm sóc chúng. Khá biết điều này! Ta sẽ báo trả ngươi vì việc ác của ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 3 Chính Ta sẽ nhóm chiên còn sót lại của bầy Ta từ mọi nơi mà Ta đã đuổi chúng đến, Ta sẽ đưa chúng trở về nơi đồng cỏ, tại đó chúng sẽ sinh sản và tăng thêm nhiều.
\v 4 Sau đó, Ta sẽ dấy lên những người chăn chiên, họ sẽ chăn dắt chúng, chúng sẽ không còn sợ hãi hay tản lạc nữa. Sẽ không thiếu một con nào Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 5 Kìa, ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là ngày mà Ta sẽ dấy lên cho Đa-vít một nhánh công bình. Người sẽ làm vua cai trị; người sẽ đem đến sự thịnh vượng, thực thi công lý và sự công bình trong xứ.
\v 6 Trong đời của người, Giu-đa sẽ được giải cứu, và Y-sơ-ra-ên sẽ sống yên ổn. Người sẽ được gọi bằng danh này: Đức Giê-hô-va là Sự Công bình của chúng ta.
\s5
\v 7 Vậy, kìa, các ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy là ngày mà chúng sẽ không còn nói: Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai Cập.
\v 8 Trái lại, chúng sẽ nói: Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng đã đem lên và dẫn con cháu nhà Y-sơ-ra-ên từ phương bắc và mọi xứ mà chúng đã bị đuổi được trở về. Chúng sẽ sống trong xứ mình.”
\s5
\v 9 Về các tiên tri, lòng tôi tan nát trong tôi, xương cốt tôi run rẩy. Tôi trở nên như người say, như người loạng choạng vì rượu, vì cớ Đức Giê-hô-va và lời thánh của Ngài.
\v 10 Vì đất đầy dẫy kẻ tà dâm. Vì những điều này mà đất than khóc. Đồng cỏ trong hoang mạc thì khô cằn. Đường lối của các tiên tri ấy là xấu xa; sức mạnh của chúng bị sử dụng sai.
\s5
\v 11 “Vì cả tiên tri và thầy tế lễ đều sa đọa. Thậm chí Ta đã tìm thấy sự gian ác của chúng trong nhà Ta! Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 12 vậy, đường lối chúng sẽ như nơi trơn trợt trong bóng tối. Chúng sẽ bị đẩy xuống. Chúng sẽ té. Vì Ta sẽ giáng tai họa trên chúng vào năm đoán phạt của chúng Đức Giê-hô-va phán vậy
\s5
\v 13 vì Ta đã thấy sự gớm ghiếc giữa các tiên tri tại Sa-ma-ri. Chúng nhân danh Ba-anh mà nói tiên tri và dẫn dân Y-sơ-ra-ên của Ta ra khỏi con đường chính đáng.
\v 14 Và giữa các tiên tri ở Giê-ru-sa-lem, Ta đã thấy những điều kinh khủng: Chúng phạm tội tà dâm và bước theo sự lừa dối. Chúng làm mạnh tay của những kẻ bất lương; không ai từ bỏ việc ác mình. Tất cả chúng đều trở nên như Sô-đôm và cư dân của nó như Gô-mô-rơ!’”
\v 15 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán về các tiên tri như vầy: “Kìa, Ta sẽ khiến chúng ăn ngải cứu và uống mật đắng, vì sự sa đọa của chúng ra từ các tiên tri ở Giê-ru-sa-lem đến trong cả xứ.”
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va vạn quân phán vầy: “Chớ nghe lời của các tiên tri nói tiên tri với ngươi. Chúng lừa ngươi! Chúng loan báo về những sự hiện thấy do chính chúng nghĩ ra, chứ không phải bởi miệng Đức Giê-hô-va phán.
\v 17 Chúng luôn nói với những kẻ bất kính Ta rằng: Đức Giê-hô-va phán rằng anh sẽ có sự bình an. Ai nấy đều bước theo sự cứng cỏi trong lòng mình rằng: Tai họa sẽ không đến trên anh đâu.
\v 18 Nhưng ai đứng được trong cuộc họp hội đồng của Đức Giê-hô-va? Ai thấy và nghe lời Ngài? Ai chú ý đến lời Ngài và nghe?
\s5
\v 19 Kìa, từ Đức Giê-hô-va ra một cơn bão! Cơn giận của Ngài đang toát ra, giông tố đang nổi lên. Gió lốc quanh đầu những kẻ ác.
\v 20 Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va sẽ không nguôi cho đến khi nó đã thực thi và đem vào lòng những dự định của tấm lòng mình. Trong những ngày sau rốt, ngươi sẽ hiểu điều đó.
\s5
\v 21 Ta không sai các tiên tri này ra đi. Chúng chỉ xuất hiện. Ta không truyền cho chúng bất cứ điều gì, nhưng chúng vẫn nói tiên tri.
\v 22 Vì nếu chúng đứng nơi họp hội đồng của Ta, chúng sẽ khiến dân Ta nghe lời Ta; chúng sẽ khiến dân Ta từ bỏ những lời gian ác và đường dữ việc xấu.
\s5
\v 23 Ta chỉ là một Đức Chúa Trời ở gần hay sao Đức Giê-hô-va phán vậy chứ không phải là Đức Chúa Trời ở xa?
\v 24 Ai có thể ẩn mình nơi kín đáo để Ta không thấy? Đức Giê-hô-va phán vậy Ta không lấp đầy các từng trời và đất sao? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 25 Ta đã nghe điều các tiên tri đó nói, những kẻ nhân danh Ta mà tiên tri dối. Chúng nói: Tôi có một giấc mơ! Tôi có một giấc mơ!
\v 26 Các tiên tri nói tiên tri dối theo trí mình và theo lòng mình đến khi nào?
\v 27 Chúng lập mưu khiến dân Ta quên danh Ta bằng những giấc chiêm bao chúng kể lại với mỗi người, như tổ phụ chúng đã quên danh Ta mà chỉ nhớ đến danh Ba-anh.
\s5
\v 28 Tiên tri nào có chiêm bao, hãy để nó kể lại chiêm bao đó. Nhưng người nào được Ta phán truyền, hãy để người công bố lời Ta một cách chân thật. Rơm có liên quan gì với lúa? Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 29 lời của Ta không giống như lửa sao? Đức Giê-hô-va phán vậy và như búa đập vỡ đá?
\v 30 Vậy, kìa, Ta nghịch lại các tiên tri này Đức Giê-hô-va phán vậy là kẻ nào cướp lời của người khác và nói rằng lời đó đến từ Ta.
\s5
\v 31 Kìa, Ta nghịch lại các tiên tri này Đức Giê-hô-va phán vậy tức là những kẻ dùng lưỡi mình nói tiên tri.
\v 32 Kìa, Ta nghịch lại những tiên tri mơ mộng giả dối Đức Giê-hô-va phán vậy chúng công bố những giấc chiêm bao ấy và khiến dân Ta lầm đường lạc lối bằng sự giả dối và khoe khoang của chúng. Ta nghịch lại chúng, vì Ta không sai chúng đi cũng chẳng truyền lệnh cho chúng. Chúng chắc chắn sẽ không giúp dân này Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 33 Khi dân này hoặc một tiên tri hoặc một thầy tế lễ hỏi ngươi: Đức Giê-hô-va phán gì? thì ngươi phải nói rằng: Lời phán nào chứ? Vì Ta đã bỏ các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 34 Còn các tiên tri, thầy tế lễ, và những ai nói rằng: Này là lời Đức Giê-hô-va phán, Ta sẽ phạt người đó và nhà nó.
\s5
\v 35 Mỗi người hãy hỏi người lân cận và anh em mình rằng: Đức Giê-hô-va trả lời thế nào?Đức Giê-hô-va phán gì?
\v 36 Nhưng quý vị không được nói về sự tuyên bố của Đức Giê-hô-va nữa, vì lời tuyên bố từ mỗi người đã trở thành sứ điệp của riêng nó, quý vị đã xuyên tạc lời của Đức Chúa Trời hằng sống, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của chúng ta.
\s5
\v 37 Đây là lời quý vị hỏi tiên tri: Đức Giê-hô-va đã trả lời ông thế nào? Đức Giê-hô-va phán gì?
\v 38 Quý vị thuật lại lời phán của Đức Giê-hô-va, nhưng Đức Giê-hô-va phán như vầy: Các ngươi nói: “Này là lời Đức Giê-hô-va phán,” thậm chí Ta đã ra lệnh cho ngươi và nói rằng: “Chớ nói: Này là lời phán của Đức Giê-hô-va.”
\v 39 Vì vậy, kìa, Ta sẽ nhặt ngươi lên và quăng ngươi khỏi Ta, cùng với thành mà Ta đã ban cho ngươi và tổ phụ ngươi.
\v 40 Ta sẽ khiến ngươi bị xấu hổ và sỉ nhục đời đời không bao giờ quên.’”
\s5
\c 24
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va cho tôi thấy một vật. Kìa, hai giỏ trái vả được đặt trước đền thờ Đức Giê-hô-va. (Sự hiện thấy này xảy ra khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, bắt Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, các quan chức Giu-đa, thợ thủ công và thợ kim khí ra khỏi Giê-ru-sa-lem và đem lưu đày tại Ba-by-lôn.)
\v 2 Một trong các giỏ trái vả rất tốt, như trái vả đầu mùa, nhưng giỏ trái vả còn lại rất xấu đến nỗi không thể ăn được.
\v 3 Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Giê-rê-mi, ngươi thấy gì?” Tôi trả lời: “Thưa Chúa, con thấy trái vả. Có trái vả ngon và trái vả tệ đến nỗi không thể ăn được.”
\s5
\v 4 Lời của Đức Giê-hô-va đến cùng tôi rằng,
\v 5 “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Ta sẽ xem xét những phu tù của Giu-đa vì lợi ích của chúng, như những trái vả tốt này, những phu tù mà Ta đã bắt ra khỏi xứ này và đem vào xứ Canh-đê.
\v 6 Mắt Ta sẽ trông nom chúng mãi mãi và đem chúng về xứ này. Ta sẽ xây chúng, và không đánh đổ chúng. Ta sẽ trồng chúng và không nhổ chúng.
\v 7 Ta sẽ ban cho chúng một tấm lòng để nhận biết Ta, vì Ta là Đức Giê-hô-va. Chúng sẽ là dân Ta và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng, chúng sẽ trở về bên Ta với trọn tấm lòng.
\s5
\v 8 Nhưng như những trái vả xấu đến nỗi không thể ăn được Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ làm y như vậy với Sê-đê-kia, vua Giu-đa, cùng với các quan chức của nó, và dân Giê-ru-sa-lem còn sót lại trong xứ này hoặc ở trong xứ Ai Cập.
\v 9 Ta sẽ biến chúng thành một thứ đáng sợ, một tai họa, trước mặt các vương quốc trên đất, một nỗi hổ thẹn và là một đề tài tục ngữ, lời chế nhạo, và lời nguyền rủa ở mọi nơi mà Ta đuổi chúng đến.
\v 10 Ta sẽ giáng gươm dao, đói kém, và dịch lệ trên chúng, chúng sẽ bị diệt khỏi xứ mà Ta đã ban cho chúng và tổ phụ chúng.”
\s5
\c 25
\p
\v 1 Có lời phán cùng Giê-rê-mi về dân Giu-đa vào năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa. Ấy là năm thứ nhất của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn.
\v 2 Tiên tri Giê-rê-mi công bố lời này cho toàn dân Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Ông nói: “Trong hai mươi ba năm, từ năm thứ mười ba của Giô-si-a, con A-môn, vua Giu-đa, cho đến ngày hôm nay, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi. Tôi đã rao báo cho quý vị. Tôi đã thiết tha rao báo lời ấy, nhưng quý vị chẳng lắng nghe.
\v 4 Đức Giê-hô-va đã sai hết thảy tôi tớ Ngài là các tiên tri đến cùng quý vị. Họ hăm hở ra đi, nhưng quý vị không nghe cũng không chú ý.
\s5
\v 5 Các tiên tri ấy nói rằng: Ai nấy hãy từ bỏ đường lối gian ác mình và sự sai lạc trong việc làm và trở về xứ mà Đức Giê-hô-va đã ban cho ngươi và tổ phụ ngươi trong thời xưa, như một món quà đời đời.
\v 6 Vậy, chớ bước theo các thần khác đặng thờ chúng hoặc quỳ lạy chúng, và chớ khiêu khích Ngài bằng công việc của tay mình kẻo Ngài làm hại ngươi.
\s5
\v 7 Nhưng ngươi chẳng nghe Ta Đức Giê-hô-va phán vậy ngươi đã khiêu khích Ta bằng công việc của tay ngươi, khiến Ta làm hại ngươi.
\v 8 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Vì ngươi không nghe lời Ta,
\v 9 kìa, Ta sẽ ra lệnh nhóm lại mọi dân từ phương bắc Đức Giê-hô-va phán vậy với tôi tớ Ta là Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và đem chúng đến nghịch cùng xứ này và cư dân nó, và nghịch cùng mọi nước xung quanh ngươi. Vì Ta sẽ để riêng chúng cho sự hủy diệt. Ta sẽ biến chúng thành một điều kinh khủng, một đối tượng bị huýt sáo cười chê, và một sự tan hoang không hề dứt.
\s5
\v 10 Tiếng của sự vui mừng và vui vẻ - tiếng của chàng rể và nàng dâu, tiếng của cối xay và ánh đèn Ta sẽ khiến hết thảy những điều này biến mất khỏi các nước ấy.
\v 11 Sau đó, cả xứ này sẽ trở nên hoang vu và sự kinh khiếp, và các nước này sẽ phục vụ vua Ba-by-lôn trong bảy mươi năm.
\s5
\v 12 Sau khi đã mãn bảy mươi năm, Ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và nước đó, là xứ của dân Canh-đê Đức Giê-hô-va phán vậy vì tội ác của chúng và khiến nó thành một nơi hoang vu đời đời.
\v 13 Ta sẽ thực thi mọi lời mà Ta đã phán nghịch cùng xứ đó, và mọi thứ được viết trong quyển sách này, là sách Giê-rê-mi đã nói tiên tri về tất cả các nước.
\v 14 Các nước khác và vua lớn khác sẽ bắt các nước này làm tôi mọi. Ta sẽ báo trả chúng vì việc làm và việc của tay chúng.’”
\s5
\v 15 Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán với tôi như vầy: “Hãy lấy chén rượu thạnh nộ này từ tay Ta và cho các dân mà Ta sai ngươi đến uống nó.
\v 16 Chúng sẽ uống và vấp ngã và nói huênh hoang một cách điên rồ trước gươm mà Ta sẽ sai đến giữa chúng.”
\s5
\v 17 Vậy, tôi lấy chén từ tay Đức Giê-hô-va, và tôi cho tất cả các nước mà Đức Giê-hô-va sai tôi đến uống nó
\v 18 Giê-ru-sa-lem, các thành của Giu-đa cùng các vua và quan chức của nó biến chúng thành những nơi điêu tàn và một điều kinh hãi, một đối tượng bị huýt sáo chê cười và rủa sả, như đến ngày hôm nay.
\s5
\v 19 Các dân khác cũng phải uống nó: Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, và các quần thần của ông ấy; các quan chức và dân chúng của ông ấy;
\v 20 tất cả các dân hỗn tạp và các vua xứ U-xơ; tất cả các vua ở xứ Phi-li-tin Ách-kê-lôn, Ga-xa, Éc-rôn, và những người còn lại của Ách-đốt;
\v 21 Ê-đôm và Mô-áp cùng dân Am-môn;
\s5
\v 22 các vua Ty-rơ và Si-đôn; các vua vùng duyên hải ở phía bên kia biển;
\v 23 Đê-đan, Tê-ma, và Bu-xơ cùng với những người cắt tóc ở hai bên đầu.
\s5
\v 24 Những người này cũng phải uống chén ấy; tất cả các vua A-ra-bi và vua của dân hỗn tạp sống trong hoang mạc;
\v 25 tất cả các vua Xim-ri, các vua Ê-lam, và mọi vua ở Mê-đi;
\v 26 tất cả các vua phương bắc, những vua ở gần và ở xa mỗi người cùng với anh em mình và tất cả các vương quốc trên thế giới. Cuối cùng, vua Ba-by-lôn sẽ uống sau chúng.
\s5
\v 27 Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Bây giờ ngươi phải nói với chúng: Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Hãy uống và say, mửa, ngã xuống, và đừng đứng dậy trước gươm mà Ta sẽ sai đến giữa ngươi.
\v 28 Sau đó nếu chúng từ chối uống chén từ tay ngươi, hãy nói với chúng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Ngươi chắc chắn phải uống chén ấy.
\v 29 Vì kìa, Ta sẽ giáng tai họa trên thành này là thành được xưng bằng danh Ta, chính các ngươi sẽ được thoát khỏi sự trừng phạt sao? Các ngươi sẽ không thoát đâu, vì Ta sẽ gọi gươm đến nghịch cùng mọi dân cư trên đất! Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.
\s5
\v 30 Vậy, Giê-rê-mi, ngươi phải nói tiên tri với chúng về những lời này. Ngươi phải nói rằng: Đức Giê-hô-va gầm thét từ trên cao và cất tiếng Ngài từ nơi ngự thánh của Ngài. Ngài gầm nghịch lại nơi ngự của Ngài; Ngài la nghịch lại mọi dân cư trên đất, như người ta hát khi đạp trái nho.
\v 31 Có tiếng vang ra đến tận cùng đất, vì sự tranh cạnh từ Đức Giê-hô-va sẽ tố các dân. Ngài sẽ thực thi công lý đối với mọi loài xác thịt. Ngài sẽ phó kẻ ác cho gươm Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 32 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Kìa, tai vạ sẽ đi từ dân này qua dân kia, một cơn bão lớn sẽ nổi lên từ những nơi xa nhất trên đất.
\v 33 Trong ngày đó, những kẻ bị Đức Giê-hô-va giết sẽ đầy từ góc này đến góc kia trên đất; chúng sẽ không được than khóc, thu gom, hoặc chôn. Chúng sẽ như phân trên đất.
\s5
\v 34 Hãy than khóc, hỡi những kẻ chăn chiên, hãy kêu cầu giúp đỡ! Hãy nằm lăn trên đất, hỡi những người đè đầu cưỡi cổ đàn chiên. Vì ngày ngươi bị giết và tản lạc đã đến. Ngươi sẽ ngã như chiên đực được chọn.
\v 35 Nơi ẩn náu dành cho kẻ chăn không còn nữa. Không có chỗ thoát cho những kẻ oai vệ trong bầy.
\v 36 Có những tiếng kêu đau buồn của những kẻ chăn bầy và tiếng than khóc của những kẻ oai vệ trong bầy chiên, vì Đức Giê-hô-va sẽ phá hoang đồng cỏ của họ.
\s5
\v 37 Các đồng cỏ yên bình sẽ bị phá hoang vì cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va.
\v 38 Như sư tử con, nó rời khỏi chuồng, vì xứ của nó sẽ trở thành điều kinh khiếp bởi cơn giận đè nén và cơn thạnh nộ của nó.’”
\s5
\c 26
\p
\v 1 Vào đầu triều đại của Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán,
\v 2 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy đứng ở sân nơi nhà Ta và nói về hết thảy dân chúng từ các thành của Giu-đa là những người đến tôn thờ Ta trong nhà Ta. Hãy công bố mọi lời Ta đã truyền ngươi nói với chúng. Chớ bỏ một từ nào!
\v 3 Có lẽ chúng sẽ nghe, ai nấy sẽ từ bỏ đường lối gian ác mình, Ta sẽ bớt nghiêm khắc về tai họa mà Ta định sẽ giáng xuống vì cớ những việc ác của chúng.
\s5
\v 4 Vậy, ngươi phải nói với chúng rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nếu các ngươi không nghe Ta đặng bước đi trong luật pháp mà Ta đã đặt trước mặt các ngươi
\v 5 nếu các ngươi không nghe lời của tôi tớ Ta là các tiên tri do Ta liên tục sai đến nhưng các ngươi không nghe!
\v 6 Ta sẽ khiến nhà này trở nên như Si-lô; Ta sẽ biến thành này thành vật đáng nguyền rủa trước mặt mọi dân trên đất.’”
\s5
\v 7 Các thầy tế lễ, tiên tri, và toàn thể dân sự nghe Giê-rê-mi loan báo những lời này trong nhà Đức Giê-hô-va.
\v 8 Sau khi Giê-rê-mi đã loan báo xong mọi lời Đức Giê-hô-va truyền cho người phải nói với dân sự, các thầy tế lễ, tiên tri, và hết thảy dân chúng đều bao vây ông và nói: “Ông chắc sẽ chết!
\v 9 Sao ông nhân danh Đức Giê-hô-va mà nói tiên tri và nói rằng nhà này sẽ trở nên như Si-lô và thành này sẽ trở nên hoang vu, không có người ở?” Tất cả dân sự đều vây quanh Giê-rê-mi trong nhà Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 10 Khi đó, các quan chức Giu-đa nghe những lời này và rời khỏi cung vua để đến nhà Đức Giê-hô-va. Họ ngồi ở cổng nơi Cổng Mới của nhà Đức Giê-hô-va.
\v 11 Các thầy tế lễ và tiên tri nói với các quan chức và toàn thể dân sự. Họ nói: “Tên này thật đáng chết, vì hắn đã nói tiên tri nghịch lại thành này, như chính tai các ông đã nghe!”
\v 12 Vậy, Giê-rê-mi nói với tất cả quan chức và dân sự rằng: “Đức Giê-hô-va đã sai tôi đi ra nói tiên tri nghịch lại nhà này và thành này, nói mọi lời mà quý vị đã nghe.
\s5
\v 13 Vậy bây giờ, hãy cải thiện đường lối và việc làm của quý vị, và hãy lắng nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị, hầu cho Ngài sẽ bớt nghiêm khắc về tai họa mà Ngài đã công bố nghịch lại quý vị.
\v 14 Còn chính tôi này tôi đang ở trong tay quý vị. Quý vị muốn làm gì với tôi thì làm miễn là quý vị vừa lòng.
\v 15 Nhưng quý vị phải biết chắc rằng nếu quý vị giết tôi, quý vị sẽ khiến huyết vô tội đổ lại trên đầu quý vị, trên thành này và dân cư nó, vì Đức Giê-hô-va thật đã sai tôi đến công bố mọi lời này bên tai quý vị.”
\s5
\v 16 Sau đó, các quan chức và toàn thể dân sự nói với các thầy tế lễ và tiên tri: “Tên này không đáng chết, vì hắn nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta mà công bố những lời ấy về chúng ta.”
\v 17 Vậy, các trưởng lão trong xứ đứng lên và nói cùng toàn thể hội chúng.
\s5
\v 18 Họ nói: “Mi-chê người Mô-rê-sết đã nói tiên tri trong đời Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Người nói với toàn thể dân Giu-đa rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Si-ôn sẽ bị cày xới như đồng ruộng, Giê-ru-sa-lem sẽ trở thành đống gạch vụn, và ngọn núi có đền thờ này sẽ biến thành đồi đầy bụi cây.
\v 19 Có phải Ê-xê-chia vua Giu-đa và tất cả người Giu-đa xử tử ông ấy không? Ông ấy không kính sợ Đức Giê-hô-va và cầu xin Đức Giê-hô-va thương xót để Ngài bớt nghiêm khắc về tai họa mà Ngài định giáng trên họ sao? Vậy chúng ta sẽ làm điều ác nhiều hơn trong đời mình sao?”
\s5
\v 20 Trong lúc đó, có một người khác nhân danh Đức Giê-hô-va nói tiên tri U-ri-a con Sê-ma-gia đến từ Ki-ri-át Giê-a-rim ông cũng nói tiên tri nghịch lại thành này và xứ này, y theo những lời của Giê-rê-mi.
\v 21 Nhưng khi Vua Giê-hô-gia-kim và quân lính cùng các quan chức nghe lời của ông, vua cố giết ông, nhưng U-ri-a biết tin và sợ hãi, ông chạy trốn qua xứ Ai Cập.
\s5
\v 22 Tuy nhiên, Vua Giê-hô-gia-kim sai người đến Ai Cập gồm Ên-na-than, con Ách-bô, và những người khác đi cùng ông đến Ai Cập.
\v 23 Họ bắt U-ri-a ở ai Cập và dẫn về cho Vua Giê-hô-gia-kim. Sau đó, Giê-hô-gia-kim lấy gươm giết ông và ném thi hài của ông trên mộ của thường dân.
\v 24 Nhưng A-hi-cam con trai Sa-phan ra tay bênh vực Giê-rê-mi, vì vậy ông không bị phó vào tay dân sự đặng tử hình ông.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Vào đầu triều đại của Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi.
\v 2 Này là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tôi: “Hãy làm cùm và ách cho chính ngươi. Hãy đặt lên cổ ngươi.
\v 3 Sau đó, gửi chúng cho vua Ê-đôm, vua Mô-áp, vua dân Am-môn, vua Ty-rơ, và vua Si-đôn. Hãy gửi qua tay các sứ thần của các vua ấy là những người đến Giê-ru-sa-lem để chầu Sê-đê-kia, vua Giu-đa.
\v 4 Hãy dặn họ tâu với chủ họ rằng: Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Này là lời các ngươi phải nói cùng chủ mình,
\s5
\v 5 “Chính Ta đã dựng nên đất này bằng sức mạnh và cánh tay giang ra của Ta. Ta cũng dựng nên loài người và muông thú trên đất, và Ta ban nó cho ai tùy ý Ta.
\v 6 Vậy bây giờ, chính Ta sẽ phó những xứ này vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tôi tớ Ta. Ngoài ra, Ta cũng phó những vật sống ngoài đồng vào tay nó để phục vụ nó.
\v 7 Vì mọi dân sẽ phục vụ nó, con trai nó, và các cháu trai nó cho đến thời điểm của nước nó. Sau đó, mọi nước và vua lớn sẽ phục nó.
\s5
\v 8 Vậy, dân nào và vương quốc nào không phục vụ Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và không đeo ách của vua Ba-by-lôn vào cổ mình Ta sẽ phạt dân đó bằng gươm, đói kém, và dịch lệ - Đức Giê-hô-va phán vậy cho đến khi Ta dùng tay nó hủy diệt chúng.
\s5
\v 9 Còn ngươi! Chớ nghe các tiên tri, những kẻ bói toán, kẻ bàn mộng, thầy bói, và phù thủy là những kẻ nói cùng ngươi rằng: Đừng phục vụ vua Ba-by-lôn.
\v 10 Vì chúng nói tiên tri dối cùng ngươi để ngươi rời xa khỏi xứ mình, vì Ta sẽ đuổi ngươi đi, rồi ngươi sẽ chết.
\v 11 Nhưng dân nào đặt cổ mình dưới ách vua Ba-by-lôn và phục vụ nó, Ta sẽ cho dân đó yên nghỉ trong xứ ấy Đức Giê-hô-va phán vậy chúng sẽ vun trồng và xây nhà ở đó.”’”
\s5
\v 12 Vậy, tôi tâu với Sê-đê-kia vua Giu-đa và rao sứ điệp này: “Xin hãy đặt cổ bệ hạ dưới ách vua Ba-by-lôn và phục vụ người cùng dân của người, bệ hạ sẽ sống.
\v 13 Sao bệ hạ và dân của bệ hạ chết bởi gươm, đói kém, và dịch lệ, như tôi đã công bố về dân từ chối phục vụ vua Ba-by-lôn?
\s5
\v 14 Xin chớ nghe lời của những tiên tri nói với bệ hạ rằng: Xin đừng phục vụ vua Ba-by-lôn, vì họ nói tiên tri dối cùng bệ hạ.
\v 15 Vì Ta đã chẳng sai chúng Đức Giê-hô-va phán vậy chúng nhân danh Ta mà nói tiên tri dối để Ta đuổi ngươi đi và ngươi sẽ chết, nghĩa là ngươi và các tiên tri đang nói tiên tri cùng ngươi.’”
\s5
\v 16 Tôi công bố với các thầy tế lễ và toàn dân sự rằng: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ nghe lời của những tiên tri nói tiên tri cùng các ngươi rằng: Kìa! Các vật trong nhà Đức Giê-hô-va sẽ sẽ được trả về từ Ba-by-lôn! Chúng nói tiên tri dối cùng các ngươi.
\v 17 Chớ nghe chúng. Ngươi nên phục vụ vua Ba-by-lôn và sẽ được sống. Sao thành này trở thành nơi đổ nát?
\v 18 Nếu chúng là tiên tri, và nếu lời của Đức Giê-hô-va thật sự đến với chúng, hãy để chúng nài xin Đức Giê-hô-va vạn quân đừng phó vào Ba-by-lôn những vật còn lại trong nhà Ngài, trong cung vua Giu-đa, và Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 19 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân sẽ công bố về các trụ, biển, đế tảng, và những vật còn lại trong thành này
\v 20 là những vật mà Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, không đem đi khi nó bắt Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, ra khỏi Giê-ru-sa-lem để làm phu tù ở Ba-by-lôn cùng với tất cả các quý tộc của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 21 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy về những vật còn lại trong nhà Đức Giê-hô-va, cung vua Giu-đa, và Giê-ru-sa-lem,
\v 22 Chúng sẽ bị đem qua Ba-by-lôn, và chúng sẽ được để lại đó cho đến ngày Ta để ý đến chúng Đức Giê-hô-va phán vậy sau đó Ta sẽ đem chúng trở về và đặt lại trong nơi này.’”
\s5
\c 28
\p
\v 1 Trong năm đó, vào đầu triều đại của Sê-đê-kia, vua Giu-đa, nhằm năm thứ tư và tháng thứ năm, Ha-na-nia, con của tiên tri A-xua ở Ghi-bê-ôn, nói với tôi trong nhà Đức Giê-hô-va trước mặt các thầy tế lễ và toàn thể dân sự. Ông ấy nói,
\v 2 “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã bẻ ách do vua Ba-by-lôn đặt.
\s5
\v 3 Trong vòng hai năm, Ta sẽ đem về nơi này mọi vật dụng của nhà Đức Giê-hô-va mà Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã lấy khỏi nơi đây và đem đến Ba-by-lôn.
\v 4 Sau đó, Ta sẽ đem Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa, và tất cả phu tù Giu-đa đã bị bắt qua Ba-by-lôn về đây Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta sẽ bẻ ách của vua Ba-by-lôn.”
\s5
\v 5 Vậy, tiên tri Giê-rê-mi nói với tiên tri Ha-na-nia trước mặt các thầy tế lễ và toàn thể dân sự đang đứng nơi nhà Đức Giê-hô-va.
\v 6 Tiên tri Giê-rê-mi nói: “Nguyện Đức Giê-hô-va làm điều này! Nguyện Đức Giê-hô-va chứng thực lời mà ông đã nói tiên tri và đem về nơi này những vật dụng của nhà Đức Giê-hô-va, cùng tất cả các phu tù từ Ba-by-lôn.
\v 7 Tuy nhiên, ông và tất cả mọi người ở đây hãy nghe lời mà tôi sẽ công bố.
\s5
\v 8 Các tiên tri sống trước tôi và ông từ thời xưa cũng đã nói tiên tri về nhiều dân và nghịch lại các nước lớn, về chiến tranh, đói kém, và dịch lệ.
\v 9 Vậy, tiên tri này nói tiên tri rằng sẽ có hòa bình nếu lời của người là thật, thì hãy biết rằng đó thật là tiên tri do Đức Giê-hô-va sai đến.”
\s5
\v 10 Nhưng tiên tri Ha-na-nia cất cái ách khỏi cổ tiên tri Giê-rê-mi và bẻ nó.
\v 11 Sau đó, Ha-na-ni nói trước mặt toàn thể dân sự: “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Cũng vậy, trong vòng hai năm, Ta sẽ bẻ ách của Nê-bu-ca-nết-sa, vua Ba-by-lôn, khỏi cổ từng dân.” Tiên tri Giê-rê-mi bỏ đi.
\s5
\v 12 Sau khi tiên tri Ha-na-ni đã bẻ ách khỏi cổ tiên tri Giê-rê-mi, Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi rằng,
\v 13 “Hãy đi đến nói với Ha-na-nia rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ngươi đã bẻ ách bằng gỗ, nhưng Ta sẽ làm một ách bằng sát.
\v 14 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Ta đã đặt một ách bằng sắt trên cổ tất cả các dân này để chúng phục vụ Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và chúng sẽ phục vụ nó. Ta cũng đã phó cho nó những thú hoang ngoài đồng đặng cai trị.
\s5
\v 15 Kế đó, tiên tri Giê-rê-mi nói với tiên tri Ha-na-nia: “Hỡi Ha-na-nia, hãy nghe! Đức Giê-hô-va không sai ông đi, nhưng chính ông đã khiến dân này tin vào những lời nói dối.
\v 16 Vậy Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi mặt đất. Năm nay ngươi sẽ chết, vì ngươi tuyên bố chống nghịch Đức Giê-hô-va.”
\v 17 Và tiên tri Ha-na-nia chết vào tháng bảy trong cùng năm đó.
\s5
\c 29
\p
\v 1 Đây là lời trong cuộn giấy mà tiên tri Giê-rê-mi từ Giê-ru-sa-lem gửi cho các trưởng lão còn sót lại giữa những phu tù và cho các thầy tế lễ, tiên tri, và hết thảy những người mà Nê-bu-cát-nết-sa đã lưu đày từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn.
\v 2 Sứ điệp này được ban ra sau khi vua Giê-hô-gia-kin, mẫu hậu, và các quan chức cấp cao, các lãnh đạo Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, và những thợ thủ công đã rời khỏi Giê-ru-sa-lem.
\v 3 Ông gửi cuộn giấy này qua tay Ê-la-sa, con Sa-phan, và Ghê-ma-ri con Hinh-kia, là người mà Sê-đê-kia, vua Giu-đa, đã sai đến chầu Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn.
\s5
\v 4 Cuộn giấy có nội dung như sau: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán với tất cả các phu tù mà Ta đã khiến bị lưu đày từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn như vầy,
\v 5 Hãy xây nhà và sống tại đó. Hãy lập nên những khu vườn và ăn trái của chúng.
\s5
\v 6 Hãy cưới vợ và sinh con trai con gái. Sau đó hãy dựng vợ gả chồng cho con trai con gái các ngươi. Hãy cho chúng sinh con trai con gái và gia tăng dân số để các ngươi ngày càng đông hơn.
\v 7 Hãy tìm kiếm sự bình an của thành mà Ta đã khiến các ngươi bị lưu đày, và hãy vì nó mà cầu khẩn Ta vì các ngươi sẽ có sự bình an nếu thành ấy yên ổn.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Chớ để các tiên tri giữa vòng các ngươi và thầy bói lừa gạt các ngươi, chớ nghe theo những giấc mộng mà các ngươi thấy.
\v 9 Vì chúng nhân danh Ta nói tiên tri dối cùng các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng đi Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Khi Ba-by-lôn đã cai trị các ngươi được bảy mươi năm, Ta sẽ giúp các ngươi và thực hiện lời tốt lành của Ta dành cho các ngươi đặng đem các ngươi về nơi này.
\v 11 Vì chính Ta biết kế hoạch Ta dành cho các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy là những kế hoạch làm cho các ngươi được bình an chứ không phải tai họa, và đem đến cho các ngươi một tương lai và niềm hy vọng.
\s5
\v 12 Sau đó, các ngươi sẽ kêu cầu Ta, và đến cầu nguyện với Ta, Ta sẽ nghe các ngươi.
\v 13 Các ngươi sẽ tìm kiếm Ta và gặp được Ta, vì các ngươi hết lòng tìm kiếm Ta.
\v 14 Các ngươi sẽ tìm được Ta Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ phục hồi sự thịnh vượng của các ngươi; Ta sẽ nhóm các ngươi lại từ mọi nước và mọi nơi mà Ta đã khiến các ngươi bị lưu đày.
\s5
\v 15 Vì ngươi nói rằng Đức Giê-hô-va đã dấy lên các tiên tri cho chúng ta tại Ba-by-lôn,
\v 16 Đức Giê-hô-va phán như vầy cho vua ngồi trên ngai Đa-vít và cho toàn thể dân chúng trong thành đó, là những anh em của các ngươi, tức những người chưa bị bắt làm phu tù với các ngươi
\v 17 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Kìa, Ta sẽ sai gươm, nạn đói, và bệnh dịch đến trên chúng. Ta sẽ khiến chúng như trái vả thối rữa đến nỗi chẳng ăn được.
\s5
\v 18 Ta sẽ đuổi theo chúng bằng gươm, nạn đói, dịch lệ và biến chúng thành một chứng tích kinh hoàng cho mọi vương quốc trên đất một sự kinh khiếp, một đối tượng bị rủa sả và huýt sáo gièm chê, và một thứ ô nhục giữa các nước mà Ta đuổi đến.
\v 19 Ấy là bởi vì chúng không nghe lời Ta Đức Giê-hô-va phán vậy là lời mà Ta đã phán qua các tôi tớ Ta là những tiên tri. Ta đã liên tiếp sai họ đến, nhưng các ngươi không nghe Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 20 Vậy, xin quý vị hãy lắng nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi những người bị lưu đày từ Giê-ru-sa-lem đến Ba-by-lôn,
\v 21 Ta, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy về A-háp con Cô-la-gia, và Sê-đê-kia, con Ma-a-sê-gia, là kẻ nhân danh Ta mà nói tiên tri dối cùng các ngươi: Kìa, Ta sẽ phó chúng vào tay Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Nó sẽ giết chúng trước mặt các ngươi.
\s5
\v 22 Các phu tù Giu-đa ở Ba-by-lôn sẽ rủa sả những kẻ này. Họ sẽ rủa rằng: Nguyện Đức Giê-hô-va khiến ngươi như Sê-đê-kia và A-háp, là người mà vua Ba-by-lôn đem quay trên lửa.
\v 23 Việc này sẽ xảy đến vì cớ những việc đáng xấu hổ mà chúng đã làm tại Y-sơ-ra-ên khi chúng phạm tội tà dâm với vợ của kẻ lân cận mình và nhân danh Ta nói những lời giả dối, là những lời mà Ta chẳng bao giờ truyền cho chúng nói. Vì Ta là Đấng biết rõ; Ta là Đấng chứng kiến Đức Giê-hô-va phán vậy.’”
\s5
\v 24 “Còn về Sê-ma-gia người Nê-hê-lam, hãy nói như vầy,
\v 25 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Vì ngươi đã dùng danh mình mà gửi thư cho toàn thể dân chúng tại Giê-ru-sa-lem, cho Sô-phô-ni con thầy tế lễ Ma-a-sê-gia, và cho tất cả các thầy tế lễ, rằng:
\v 26 “Đức Giê-hô-va đã lập ông làm thầy tế lễ thay cho thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa, để coi sóc nhà Đức Giê-hô-va. Ông sẽ kiểm soát những ai điên dại tự xưng mình là tiên tri. Ông phải lấy xiềng xích cùm họ lại.
\s5
\v 27 Vậy bây giờ, sao ngươi không quở trách Giê-rê-mi người A-na-tốt, là người đã tự xưng là tiên tri nghịch lại cùng ngươi?
\v 28 Vì người đã gửi thư cho chúng ta tại Ba-by-lôn và nói rằng: Sẽ lâu lắm đây. Hãy xây nhà và ở đó, hãy trồng cây trong vườn và ăn trái của chúng.”’”
\v 29 Thầy tế lễ Sô-phô-ni đọc thư này trước mặt tiên tri Giê-rê-mi.
\s5
\v 30 Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi rằng,
\v 31 “Hãy rao tin cho tất cả những người lưu đày và nói rằng: Đức Giê-hô-va phán về Sê-ma-gia người Nê-hê-lam như vầy: Vì Sê-ma-gia đã nói tiên tri cùng các ngươi khi Ta chẳng sai nó đến; vì nó dẫn dụ các ngươi tin những lời giả dối,
\v 32 do đó, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phạt Sê-ma-gia người Nê-hê-lam cùng con cháu nó. Sẽ chẳng có ai trong dòng dõi nó được ở trong dân này. Nó sẽ chẳng thấy điều tốt lành mà Ta sẽ làm cho dân Ta Đức Giê-hô-va phán vậy vì nó công bố điều xảo trá nghịch lại Ta, Đức Giê-hô-va.’”
\s5
\c 30
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy viết lên một cuộn giấy mọi lời mà Ta đã truyền cho ngươi.
\v 3 Vì kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy là những ngày mà Ta sẽ phục hồi sự thịnh vượng của dân Ta, là Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Ta, Đức Giê-hô-va, đã phán như vậy. Ta sẽ đem chúng trở về xứ mà Ta đã ban cho tổ phụ chúng, chúng sẽ ở trong xứ ấy.’”
\s5
\v 4 Đây là những lời Đức Giê-hô-va phán về Y-sơ-ra-ên và Giu-đa,
\v 5 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chúng ta có nghe tiếng run rẩy của sự khiếp sợ chứ chẳng phải sự bình an.
\s5
\v 6 Hãy hỏi và xem thử người đàn ông có sinh đẻ không. Tại sao Ta thấy đàn ông trai tráng lấy tay ôm thắt lưng họ? Giống như đàn bà sinh đẻ, sao mặt họ tái nhợt?
\v 7 Thật khốn thay! Vì ngày đó sẽ lớn lắm, đến nỗi chẳng có ngày nào giống như vậy. Ấy sẽ là khoảng thời gian khoắc khoải của Gia-cốp, nhưng nó sẽ được cứu khỏi sự ấy.
\s5
\v 8 Trong ngày đó Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy Ta sẽ bẻ ách khỏi cổ ngươi, Ta sẽ đập vỡ xiềng xích ngươi, người ngoại quốc sẽ không còn bắt ngươi làm nô lệ nữa.
\v 9 Nhưng chúng sẽ tôn thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời và phục vụ Đa-vít, vua của chúng, là người mà Ta sẽ lập làm vua cai trị chúng.
\s5
\v 10 Vậy ngươi, hỡi Gia-cốp tôi tớ Ta, chớ sợ hãi Đức Giê-hô-va phán vậy và chớ mất can đảm, hỡi Y-sơ-ra-ên. Vì kìa, Ta sẽ đem ngươi từ nơi phương xa trở về, và con cháu ngươi từ xứ phu tù. Gia-cốp sẽ trở về và sống bình an; nó sẽ được yên ninh và sẽ không còn khiếp sợ nữa.
\v 11 Vì Ta ở với ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy đặng giải cứu ngươi. Sau đó, Ta sẽ tiêu diệt hoàn toàn những nước mà Ta đã đuổi ngươi đến. Nhưng chắc chắn Ta sẽ không diệt ngươi, dù Ta kỷ luật ngươi công minh và Ta chắc chắn sẽ không để ngươi khỏi bị hình phạt.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Vết thương của ngươi không thể chữa được; thương tích của ngươi bị nhiễm độc.
\v 13 Không ai bênh vực cho hoàn cảnh của ngươi; không thuốc nào để nào chữa lành vết thương ngươi.
\s5
\v 14 Tất cả người tình của ngươi đều đã quên ngươi. Chúng sẽ không tìm kiếm ngươi, vì Ta đã khiến ngươi bị thương bằng thương tích của kẻ thù và sự kỷ luật của kẻ hung ác bởi cớ những điều trái với đạo lý và vô số tội lỗi của ngươi.
\v 15 Sao ngươi kêu cầu giúp đỡ vì vết thương ngươi? Sự đau đớn ngươi vô phương cứu chữa. Vì cớ những điều trái đạo lý và vô số tội lỗi của ngươi, Ta đã giáng những việc này trên ngươi.
\s5
\v 16 Vậy, ai thiêu nuốt ngươi sẽ bị thiêu nuốt, hết thảy kẻ thù của ngươi sẽ bị bắt làm phu tù. Kẻ nào cướp bóc ngươi sẽ bị cướp bóc, và Ta sẽ khiến mọi kẻ cướp đoạt ngươi trở nên của cướp.
\v 17 Ta sẽ chữa lành ngươi; Ta sẽ chữa lành thương tích ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ làm như vậy vì chúng gọi ngươi là Kẻ bị ruồng bỏ. Không ai ngó ngàng đến Si-ôn.’”
\s5
\v 18 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ phục hồi sự thịnh vượng của các lều Gia-cốp và thương xót nhà của nó. Một thành phố sẽ được xây trên đống hoang tàn, một đồn lũy sẽ lại tồn tại ở nơi nó từng tồn tại.
\v 19 Chúng sẽ hát bài ca ngợi khen và cất tiếng vui vẻ, vì Ta sẽ khiến chúng gia tăng dân số chứ không giảm trừ nữa; Ta sẽ cho chúng được tôn trọng, chúng sẽ không bị hạ thấp.
\s5
\v 20 Dân của chúng sẽ giống như trước, và hội chúng của chúng sẽ được lập trước mặt Ta khi Ta trừng phạt những kẻ hiện giờ đang hành khổ chúng.
\v 21 Người lãnh đạo của chúng sẽ ra từ giữa chúng. Người sẽ hiện ra từ giữa chúng khi Ta kéo người đến gần và khi người đến gần Ta. Nếu Ta không làm vậy, ai dám đến gần Ta? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 22 Ngươi sẽ là dân Ta, và Ta sẽ là Đức Chúa Trời của ngươi.
\s5
\v 23 Kìa, giông tố của Đức Giê-hô-va, cơn thịnh nộ của Ngài, đã nổi lên. Đấy là cơn giông tố triền miên. Nó xoáy trên đầu của kẻ ác.
\v 24 Cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va sẽ không nguôi cho đến khi Ngài đã thực thi và hoàn thành điều lòng Ngài đã định. Trong những ngày sau rốt, ngươi sẽ hiểu điều ấy.”
\s5
\c 31
\p
\v 1 “Khi ấy Đức Giê-hô-va phán như vầy Ta sẽ là Đức Chúa Trời của tất cả các thị tộc Y-sơ-ra-ên, chúng sẽ là dân Ta.”
\v 2 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Dân đã thoát khỏi sự tàn sát của lưỡi gươm, tức là Y-sơ-ra-ên, đã tìm được ân huệ trong hoang mạc này.”
\v 3 Đức Giê-hô-va đã hiện ra với tôi trong thuở xưa và phán: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, Ta đã yêu ngươi bằng một tình yêu đời đời. Ta đã kéo ngươi đến với Ta bằng sự thành tín theo giao ước.
\s5
\v 4 Ta sẽ lại dựng ngươi lên, ngươi sẽ được dựng lên, hỡi trinh nữ Y-sơ-ra-ên. Ngươi sẽ lại cầm trống cơm và đi ra nhảy múa vui mừng.
\v 5 Ngươi sẽ lại trồng vườn nho trên các núi ở Sa-ma-ri; các nông dân sẽ trồng trọt và ăn trái tốt.
\v 6 Sẽ có ngày khi những kẻ canh gác trên những ngọn núi ở Ép-ra-im tuyên bố: Hãy trỗi dậy, chúng ta hãy đến Si-ôn ra mắt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta.’”
\s5
\v 7 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Hỡi Gia-cốp, hãy lớn tiếng vui mừng! Hãy lớn tiếng reo vui cho lãnh tụ của các nước! Hãy ngợi khen. Hãy nói rằng: Đức Giê-hô-va đã giải cứu dân Ngài, là những người còn sót lại của Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 8 Kìa, Ta sẽ đem chúng về từ những xứ phương bắc. Ta sẽ nhóm chúng lại từ những nơi xa nhất trên thế gian. Người mù và người què sẽ ở giữa chúng; thai phụ và những ai sắp sinh đẻ sẽ ở với chúng. Một hội lớn sẽ trở về đây.
\v 9 Chúng sẽ đến khóc lóc; Ta sẽ dẫn chúng đi khi chúng nài xin. Ta sẽ cho chúng đi theo những dòng nước và con đường thẳng. Chúng sẽ không vấp ngã, vì Ta sẽ là Cha của Y-sơ-ra-ên, Ép-ra-im sẽ là con đầu lòng của Ta.”
\s5
\v 10 “Hỡi các nước, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va. Hãy rao dọc theo những vùng duyên hải nơi xa. Hãy nói với các nước: “Đấng làm tản lạc Y-sơ-ra-ên sẽ nhóm họ về và giữ gìn họ như người chăn giữ bầy chiên mình.”
\v 11 Vì Đức Giê-hô-va đã chuộc Gia-cốp và cứu nguy người khỏi tay những kẻ quá mạnh đối với người.
\s5
\v 12 Chúng sẽ đến và reo mừng trên các nơi cao ở Si-ôn. Chúng sẽ vui mừng về sự tốt lành của Đức Giê-hô-va, về ngũ cốc, rượu mới, dầu và con nhỏ của bầy chiên và bò. Cuộc đời chúng sẽ trở nên như vườn được tưới, chúng sẽ không bao giờ cảm thấy buồn rầu nữa.
\s5
\v 13 Những trinh nữ sẽ vui mừng nhảy múa, thanh niên và người già sẽ hớn hở với nhau. Ta sẽ biến sự than khóc của chúng thành sự vui mừng. Ta sẽ thương xót chúng, và chúng sẽ vui mừng thay vì buồn rầu.
\v 14 Ta sẽ khiến các thầy tế lễ được no nê trong đời mình. Dân Ta sẽ no đủ bằng sự tốt lành của Ta Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 15 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Có tiếng kêu ở Ra-ma, là tiếng than khóc và khóc lóc cay đắng. Đó chính là Ra-chên đang khóc than con mình. Nàng từ chối được an ủi về các con nàng, vì chúng không còn sống nữa.”
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán: “Đừng cất tiếng than khóc và khóc lóc nữa; vì có một sự thưởng phạt đối với sự đau khổ của ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy con cái ngươi sẽ từ xứ của quân thù mình trở về.
\v 17 Có hy vọng cho tương lai của bạn Đức Giê-hô-va phán như vầy con cháu ngươi sẽ trở về trong ranh giới của chúng.”
\s5
\v 18 “Thật Ta đã nghe Ép-ra-im than khóc: “Ngài sửa phạt con, và con đã bị sửa phạt. Xin Chúa đem con trở lại như một con bê chưa được rèn, và con sẽ được trở về, vì Ngài là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của con.
\v 19 Sau khi con trở về bên Ngài, con đã ăn năn; sau khi con được rèn luyện, con đã vỗ đùi mình trong sự đau buồn. Con xấu hổ và bẽ mặt, vì con mang lấy tội lỗi của tuổi thanh xuân con.
\v 20 Ép-ra-im không phải là con yêu dấu của Ta sao? Nó không phải là con trai yêu quý và vui vẻ của Ta sao? Bất cứ khi nào Ta nói nghịch về nó, thật Ta vẫn thương nhớ nó. Lòng Ta mong mỏi nó. Thật Ta sẽ thương xót nó Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 21 Chính ngươi hãy đặt các bảng chỉ đường. Hãy dựng các cột chỉ dẫn. Hãy đặt tâm trí ngươi trên đường ngay thẳng, là đường ngươi phải đi. Hãy trở lại, hỡi trinh nữ Y-sơ-ra-ên! Hãy trở về các thành của ngươi.
\v 22 Ngươi sẽ còn lưỡng lự cho đến khi nào nữa, hỡi con gái lật lọng? Vì Đức Giê-hô-va đã làm nên một việc mới trên đất: phụ nữ bao quanh trai tráng để bảo vệ họ.
\s5
\v 23 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Khi Ta đem dân này trở về xứ, chúng sẽ nói rằng đây là xứ của Giu-đa và các thành của nó: Nguyện Đức Giê-hô-va ban phước cho ngươi, hỡi nơi ở của sự công bình, hỡi núi thánh.
\v 24 Giu-đa và các thành của nó sẽ chung sống với nhau trên đó. Nông dân và người chăn chiên cùng bầy chiên mình sẽ ở đó.
\v 25 Ta sẽ cho người mệt nhọc được uống nước, Ta sẽ thỏa cơn khát của mọi người.”
\v 26 Sau việc này, tôi thức dậy, tôi nhận thấy rằng giấc ngủ của tôi thật khoan khoái.
\s5
\v 27 “Kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta gieo nhà của Y-sơ-ra-ên và Giu-đa những con cái của loài người và thú vật.
\v 28 Trước kia, Ta giám sát chúng đặng nhổ chúng và đánh đổ chúng, lật đổ, tiêu diệt, và gây tổn thất trên chúng. Nhưng trong những ngày tới, Ta sẽ trông chừng chúng, để dựng chúng lên và vun trồng chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 29 Trong những ngày đó, sẽ không ai nói rằng: Cha ăn nho chua, nhưng răng con cái bị cùn.
\v 30 Ai nấy sẽ chết vì tội mình; ai ăn nho chua thì răng người đó sẽ cùn.
\s5
\v 31 Kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta thiết lập một giao ước mới với nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa.
\v 32 Giao ước ấy sẽ không giống như giao ước mà Ta đã lập với cha ông chúng trong những ngày tay Ta đem chúng ra khỏi xứ Ai Cập. Ấy là những ngày mà chúng vi phạm giao ước Ta, dù Ta là chồng của chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 33 Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày này Đức Giê-hô-va phán vậy: Ta sẽ đặt luật pháp Ta trong chúng và viết luật pháp ấy trong lòng chúng, vì Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng, còn chúng sẽ là dân Ta.
\v 34 Rồi sẽ không ai dạy người lân cận mình, hoặc dạy anh em mình rằng: Hãy biết Đức Giê-hô-va! Vì tất cả chúng, từ người nhỏ nhất đến người lớn nhất, sẽ biết Ta Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta sẽ tha thứ những điều tội lỗi của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội của chúng nữa.”
\s5
\v 35 Đức Giê-hô-va phán như vầy Đức Giê-hô-va, Đấng khiến mặt trời chiếu sáng ban ngày và sắp đặt mặt trăng và ngôi sao chiếu sáng ban đêm. Ngài là Đấng khiến biển chuyển động và sóng gầm thét. Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài. Ngài phán như vầy,
\v 36 “Nếu như những thứ thường trực này biến mất khỏi trước mặt Ta Đức Giê-hô-va phán vậy thì con cháu Y-sơ-ra-ên sẽ không còn là một nước trước mặt Ta nữa.”
\s5
\v 37 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Nếu như các từng trời cao nhất có thể được đo lường, và nếu như nền móng trái đất có thể được khám phá, Ta sẽ từ bỏ tất cả con cháu Y-sơ-ra-ên vì mọi điều chúng đã làm Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 38 ”Kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi thành sẽ được tái xây dựng cho Ta, từ Tháp Ha-na-nên đến Cổng Góc.
\v 39 Dây đo sẽ kéo ra xa hơn, đến đồi Ga-rép và xung quanh Gô-a.
\v 40 Cả thung lũng đầy hài cốt và tro, và tất cả những cánh đồng đến Thung lũng Kít-rôn và đến góc Cổng Ngựa ở phía đông, sẽ được dành riêng cho Ta, là Đức Giê-hô-va. Nó sẽ không bao giờ bị nhổ lên hoặc đạp đổ nữa.”
\s5
\c 32
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi vào năm thứ mười trong đời Sê-đê-kia, vua Giu-đa, nhằm năm thứ mười tám của Nê-bu-cát-nết-sa.
\v 2 Khi đó, đội quân của vua Ba-by-lôn đang bao vây Giê-ru-sa-lem, còn tiên tri Giê-rê-mi thì đang bị giam ở sân của quân thị vệ trong cung vua Giu-đa.
\s5
\v 3 Sê-đê-kia, vua Giu-đa, đã bỏ tù ông và nói rằng: “Sao ngươi nói tiên tri rằng: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sắp phó thành này vào tay vua Ba-by-lôn, nó sẽ chiếm thành ấy.
\v 4 Sê-đê-kia, vua Giu-đa, sẽ không thoát khỏi tay người Canh-đê, vì nó thật đã bị phó vào tay vua Ba-by-lôn. Nó sẽ nói cùng vua miệng đối miệng, và nhìn vua mặt đối mặt.
\v 5 Vì Sê-đê-kia sẽ đến Ba-by-lôn và ở tại đó cho đến khi Ta hành động trên nó Đức Giê-hô-va phán vậy vì ngươi đã chiến đấu đánh lại dân Canh-đê. Ngươi sẽ không thắng đâu.’”
\s5
\v 6 Giê-rê-mi đáp: “Lời của Đức Giê-hô-va đến với tôi như vầy,
\v 7 Kìa, Ha-na-mên con Sanh-lum, chú của ngươi, sẽ đến gặp ngươi và nói rằng: “Hãy mua cánh đồng của em tại A-na-tốt, vì quyền mua cánh đồng ấy thuộc về anh.”’
\s5
\v 8 Vậy, như Đức Giê-hô-va đã phán, Ha-na-mên, con trai của chú tôi, đến gặp tôi ở sân của quân thị vệ và nói rằng: Hãy mua cánh đồng của em tại A-na-tốt trong xứ Ben-gia-min, vì quyền thừa hưởng ấy là của anh, và anh có quyền mua cánh đồng đó. Anh hãy mua. Do đó, tôi biết rằng đây là lời của Đức Giê-hô-va.
\v 9 Vì vậy, tôi mua cánh đồng tại A-na-tốt của Ha-na-mên, con trai chú tôi, và tôi cân cho người mười bảy siếc-lơ bạc.
\s5
\v 10 Sau đó, tôi viết trong một cuộn sách và niêm phong, có sự chứng kiến của người làm chứng. Tôi cân bạc trong một cái cân.
\v 11 Kế đến, tôi lấy chứng thư mua bán được niêm phong, tuân theo quy định và quy chế, tôi cũng lấy một chứng thư chưa niêm phong.
\v 12 Tôi trao cuộn sách được niêm phong cho Ba-rúc, con Nê-ri-a, cháu Ma-sê-gia, trước mặt Ha-na-mên, con trai chú tôi, và nhân chứng là người đã viết vào cuộn sách được niêm phong, và trước mặt tất cả những người Giu-đa ngồi ở sân của quân thị vệ.
\s5
\v 13 Tôi ra lệnh cho Ba-rúc trước mặt họ. Tôi nói:
\v 14 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy lấy những cuộn sách này và biên lai mua hàng được niêm phong và cuộn sách chưa được niêm phong. Hãy đặt chúng trong một bình mới để bảo quản chúng về lâu dài.
\v 15 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nhà cửa, ruộng, và vườn nho sẽ lại được mua trong xứ này.
\s5
\v 16 Sau khi tôi đưa hóa đơn mua hàng cho Ba-rúc con Nê-ri-a, tôi cầu nguyện với Đức Giê-hô-va rằng,
\v 17 Thật khốn khổ thay, lạy Đức Giê-hô-va! Kìa! Chính Ngài đã dựng nên trời và đất bằng sức mạnh lớn lao và cánh tay giơ cao của Ngài. Những điều Ngài phán không có gì là quá khó đến nỗi Ngài không làm được.
\v 18 Ngài tỏ sự thành tín theo giao ước cho hàng ngàn người và báo trả tội lỗi của tổ phụ trên đầu con cháu họ về sau. Ngài là Đức Chúa Trời vĩ đại và quyền năng; Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.
\s5
\v 19 Sự khôn ngoan của Ngài là lớn lao và công việc của Ngài thật vĩ đại, vì mắt Ngài đoái xem đường lối của loài người, đặng báo trả cho mỗi người tùy theo tư cách và việc làm của họ.
\v 20 Ngài đã làm những dấu kỳ và phép lạ trong xứ Ai cập. Ngài đã khiến danh Ngài được vang ra cho đến tận ngày nay ở Y-sơ-ra-ên và giữa loài người.
\v 21 Vì Ngài đã đem Y-sơ-ra-ên, dân Ngài, ra khỏi xứ Ai Cập bằng những dấu kỳ và phép lạ, bằng tay mạnh mẽ, cánh tay giơ cao, và bằng sự kinh khiếp lớn.
\s5
\v 22 Sau đó Ngài ban xứ này cho họ - là xứ mà Ngài đã thề cùng tổ phụ họ là sẽ ban cho họ - một xứ đượm sữa và mật.
\v 23 Họ tiến vào xứ ấy và sở hữu nó. Nhưng họ không vâng theo tiếng Ngài, cũng chẳng sống vâng phục luật pháp Ngài. Họ chẳng làm theo những gì Ngài đã truyền họ phải làm, vì vậy Ngài giáng mọi tai họa này trên họ.
\s5
\v 24 Kìa! Những ụ bao vây đã đến thành để chiếm lấy. Bởi gươm dao, đói kém, và tai họa, thành ấy đã bị phó vào tay người Canh-đê là những kẻ đang đánh chiếm nó. Vì lời Ngài phán sẽ xảy ra đã thành hiện thực, và kìa, Ngài đang theo dõi.
\v 25 Chính Ngài phán với con rằng: “Hãy lấy bạc mua một cánh động và cho nhân chứng chứng kiến việc đó, dù thành này bị phó vào tay người Canh-đê.”’”
\s5
\v 26 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 27 “Kìa! Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của nhân loại. Có việc gì quá khó đến nỗi Ta không làm được chăng?
\v 28 Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa! Ta sắp phó thành này vào tay người Canh-đê và Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn. Nó sẽ chiếm thành ấy.
\s5
\v 29 Người Canh-đê là những kẻ đang đánh thành này sẽ đến và phóng hỏa thiêu rụi nó, cùng với nhà cửa trên mái mà người ta thờ Ba-anh và đổ của lễ quán cho các thần khác đặng khiêu khích Ta.
\v 30 Vì dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa chắc chắn là những kẻ làm điều ác trước mặt Ta từ khi chúng còn trẻ. Dân Y-sơ-ra-ên chắc chắn đã xúc phạm Ta bằng những việc làm của tay chúng Đức Giê-hô-va phán vậy
\s5
\v 31 vì thành này là một điều khiêu khích Ta thạnh nộ và nổi giận kể từ ngày chúng xây nó. Nó đã khiêu khích Ta từ đó cho đến nay. Vì vậy, Ta sẽ loại bỏ nó khỏi trước mặt Ta
\v 32 vì cớ mọi điều gian ác của dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, là những việc chúng đã làm đặng khiêu khích Ta chúng, các vua của chúng, các vương tử, các thầy tế lễ, những tiên tri, và tất cả những người Giu-đa và cư dân Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 33 Chúng xây lưng về phía Ta thay vì hướng mặt về Ta, dù Ta đã thiết tha dạy dỗ chúng. Ta đã cố gắng dạy chúng, nhưng không ai lắng nghe đặng được sửa trị.
\v 34 Sau đó, chúng đặt những vật gớm ghiếc trong nhà đặng làm ô uế nó, là nhà được gọi bằng danh Ta.
\v 35 Kế đó, chúng xây các điện thờ cho Ba-anh ở thung lũng Ben Hin-nôm đặng tế con trai và con gái chúng cho Mô-lết, ấy là việc mà Ta chẳng truyền cho chúng làm, một việc mà lòng Ta chẳng nghĩ tới chúng làm việc gớm ghiếc này đặng khiến Giu-đa phạm tội.
\s5
\v 36 Vậy bây giờ, Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán về thành này, là thành mà các ngươi nói rằng: Nó bị phó vào tay vua Ba-by-lôn bởi gươm dao, đói kém, và tai họa.
\v 37 Kìa, Ta sẽ gom chúng về từ mọi xứ mà Ta đã đuổi chúng đến trong lúc Ta nổi giận, nổi cơn thịnh nộ và giận dữ. Ta sẽ đem chúng về nơi này và cho chúng sống yên ninh.
\s5
\v 38 Sau đó, chúng sẽ là dân Ta, còn Ta sẽ là Đức Chúa Trời của chúng.
\v 39 Ta sẽ ban cho chúng một tấm lòng và một đường lối để tôn kính Ta hàng ngày, hầu cho chúng và con cháu chúng được phước.
\v 40 Ta sẽ lập một giao ước đời đời với chúng, Ta sẽ không xây khỏi chúng. Ta sẽ làm việc này để đem điều tốt lành đến cho chúng và đặt sự tôn kính của chúng dành cho Ta trong lòng chúng. Chúng sẽ không còn từ bỏ Ta nữa.
\s5
\v 41 Ta sẽ vui mừng mà ban phước cho chúng. Ta sẽ luôn trồng chúng trong xứ này bằng cả tấm lòng và sự sống của Ta.
\v 42 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: Như Ta đã giáng họa lớn trên dân này, Ta cũng sẽ ban cho chúng những điều tốt lành mà Ta đã nói là sẽ làm cho chúng.
\s5
\v 43 Ruộng sẽ được mua trong xứ này, là xứ mà ngươi nói rằng: “Đây là một xứ đổ nát, chẳng có người hoặc thú cư ngụ. Nó đã bị phó vào tay người Canh-đê.”
\v 44 Chúng sẽ dùng bạc mà mua ruộng và viết trong cuộn sách được niêm phong. Chúng sẽ mời người làm chứng trong xứ Ben-gian-min, quanh Giê-ru-sa-lem và các thành của Giu-đa, những thành ở vùng cao nguyên và đồng bằng, và những thành ở Nê-ghép. Vì Ta sẽ phục hồi vận mệnh chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.’”
\s5
\c 33
\p
\v 1 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi lần thứ nhì, trong khi ông vẫn còn bị giam trong sân của quân thị vệ, Ngài phán:
\v 2 “Giê-hô-va, Đấng sáng tạo, phán như vầy Đức Giê-hô-va, Đấng tạo lập sự này danh Ngài là Giê-hô-va,
\v 3 Hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ trả lời ngươi. Ta sẽ bày tỏ cho ngươi những việc lớn, là những điều mầu nhiệm mà ngươi không hiểu.
\s5
\v 4 Vì Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán về nhà cửa trong thành này và những cung điện của các vua Giu-đa bị phá hủy vì cớ những dốc bao vây và gươm dao,
\v 5 “Dân Canh-đê sẽ đến đánh và chất đầy nhà cửa bằng những thây người mà Ta sẽ giết bởi cơn thạnh nộ và cơn giận của Ta, ấy là khi Ta ẩn mặt khỏi thành này vì sự gian ác của chúng.
\s5
\v 6 Nhưng kìa, Ta sẽ đem đến sự chữa lành và phương thuốc, vì Ta sẽ chữa chúng và đem đến cho chúng sự dư dật, bình an và thành tín.
\v 7 Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Giu-đa và Y-sơ-ra-ên; Ta sẽ dựng chúng lên như thuở ban đầu.
\v 8 Sau đó, Ta sẽ thanh tẩy chúng khỏi mọi tội lỗi mà chúng đã phạm đối với Ta. Ta sẽ tha thứ mọi tội lỗi mà chúng đã gây ra với Ta, và những đường lối mà chúng đã phản nghịch Ta.
\v 9 Vì thành này sẽ trở nên một cớ vui mừng, một bài ca ngợi khen và một niềm vinh dự đối với mọi dân trên đất là những kẻ sẽ nghe đến những việc tốt lành và bình an mà Ta sẽ ban cho nó.
\s5
\v 10 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Trong nơi mà ngươi hiện đang nói rằng: “Nó thật hoang vắng. Trong các thành của Giu-đa không có người và cũng không có thú vật, đường phố Giê-ru-sa-lem vắng hoe, chẳng có người và cũng chẳng có thú vật.”
\v 11 Người ta sẽ lại nghe tiếng vui mừng và hớn hở tại nơi đây, tiếng của chàng rể và nàng dâu, tiếng của người dân nói rằng: “Hãy dâng sự cảm tạ cho Đức Giê-hô-va vạn quân, vì Ngài là tốt lành, sự thành tín theo giao ước Ngài còn đời đời.” Hãy đem của lễ cảm tạ đến nhà Ta, vì Ta sẽ phục hồi vận mệnh của xứ này như thuở ban đầu, Đức Giê-hô-va phán.
\s5
\v 12 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Trong nơi hoang vắng này, là nơi chẳng có người và cũng chẳng có thú vật, nơi ấy sẽ lại có một nơi chăn thả súc vật cho những kẻ chăn bầy nằm nghỉ trong các thành của nó.
\v 13 Ở các thành trên cao nguyên, nơi đồng bằng, và ở Nê-ghép trong xứ Ben-gia-min và quanh Giê-ru-sa-lem, và trong các thành của Giu-đa những bầy chiên sẽ lại băng qua đó dưới tay của những người chăn giữ chúng, Đức Giê-hô-va phán.
\s5
\v 14 Kìa! Những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán - ấy là khi Ta thực hiện điều Ta đã hứa với nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa.
\v 15 Trong những ngày đó và khi đó, Ta sẽ khiến nẩy lên một nhánh công bình cho Đa-vít, Ngài sẽ thực thi công lý và sự công bình trong xứ.
\v 16 Trong những ngày đó, Giu-đa sẽ được cứu, còn Giê-ru-sa-lem sẽ sống yên ổn, vì nó sẽ được xưng là: “Đức Giê-hô-va là Đấng công bình của chúng tôi.’”
\s5
\v 17 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: Dòng dõi Đa-vít sẽ không bao giờ thiếu người ngồi trên ngai trong nhà Y-sơ-ra-ên,
\v 18 cũng sẽ chẳng thiếu thầy tế lễ Lê-vi nào đặng dâng của lễ thiêu, sinh tế và của lễ chay hàng ngày trước mặt Ta.’”
\s5
\v 19 Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 20 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Nếu ngươi có thể phá vỡ giao ước của Ta với ngày và đêm để không còn ngày và đêm vào đúng kỳ của nó nữa,
\v 21 thì ngươi cũng sẽ có thể phá vỡ giao ước của Ta với Đa-vít, tôi tớ Ta, để người sẽ không còn con cháu ngồi trên ngai mình nữa, và phá giao ước của Ta với các thầy tế lễ người Lê-vi, là những tôi tớ của Ta.
\v 22 Như người ta không thể đếm được các thiên thể, và chẳng thể đo lường được cát trên bờ biển, Ta cũng sẽ gia tăng con cháu của Đa-vít, tôi tớ Ta, và người Lê-vi là những người phục vụ Ta.’”
\s5
\v 23 Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 24 ”Ngươi chưa xem xét điều dân này đã tuyên bố khi chúng nói rằng: Hai thị tộc mà Đức Giê-hô-va đã chọn, giờ đây Ngài đã từ bỏ họ sao? Như vậy, chúng khinh dân Ta, nói rằng dân này không còn là một nước nữa.
\s5
\v 25 Ta, Đức Giê-hô-va, phán như vầy: Nếu không còn giao ước của Ta về ngày và đêm nữa, hoặc Ta không duy trì sự sắp đặt của trời và đất,
\v 26 thì Ta sẽ từ bỏ con cháu Gia-cốp và Đa-vít, tôi tớ Ta, Ta sẽ không dấy lên giữa chúng một người cai trị con cháu Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp. Vì Ta sẽ phục hồi vận mệnh của chúng và thương xót chúng.’”
\s5
\c 34
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi. Lời ấy đến với ông khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, và cả đội quân của vua, cùng với tất cả các vương quốc trên đất, những lãnh địa ở dưới quyền của vua, và mọi dân đang giao tranh chống lại Giê-ru-sa-lem và các thành phố của nó. Ngài phán,
\v 2 Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy đi tâu với Sê-đê-kia, vua Giu-đa, và nói rằng: “Đức Giê-hô-va phán: Kìa, Ta sẽ phó thành này vào tay vua Ba-by-lôn. Nó sẽ phóng hỏa thành ấy.
\v 3 Ngươi sẽ không thoát khỏi tay nó, vì chắc chắn ngươi sẽ bị bao vây và bị phó vào tay nó. Ngươi sẽ mặt đối mặt với vua Ba-by-lôn; nó sẽ nói trực tiếp với ngươi khi ngươi qua Ba-by-lôn.
\s5
\v 4 Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi Sê-đê-kia vua Giu-đa! Đức Giê-hô-va phán về vua như vầy: Ngươi sẽ không chết bởi gươm.
\v 5 Ngươi sẽ chết bình an. Như trong buổi hỏa táng các tổ phụ ngươi, là những vua trước đời ngươi, họ cũng sẽ hỏa táng ngươi. Họ sẽ nói: “Khốn thay, chủ ơi!” Họ sẽ than khóc ngươi. Bấy giờ Ta đã phán Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 6 Vì thế, tiên tri Giê-rê-mi công bố cho Sê-đê-kia vua Giu-đa mọi lời này tại Giê-ru-sa-lem.
\v 7 Quân của vua Ba-by-lôn gây chiến với Giê-ru-sa-lem và tất cả các thành còn lại của Giu-đa là La-kích và A-xê-ca. Đây là những thành trì vững chắc còn lại trong số các thành của Giu-đa.
\s5
\v 8 Này là lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi sau khi vua Sê-đê-kia đã lập thỏa thuận với tất cả người dân ở Giê-ru-sa-lem để công bố sự tự do:
\v 9 Ai nấy phải trả tự do cho nô lệ người Y-sơ-ra-ên mình, cả nam và nữ. Không ai được bắt người anh em Y-sơ-ra-ên mình ở Giu-đa làm nô lệ nữa.
\s5
\v 10 Vậy, tất cả các lãnh đạo và dân chúng tham gia buổi thỏa thuận ấy đều vâng phục. Ai nấy đều thả tự do cho các nô lệ nam và nô lệ nữ và không còn bắt họ làm nô lệ nữa. Họ lắng nghe và thả tự do.
\v 11 Nhưng sau việc này, họ đổi ý. Họ bắt lại các nô lệ mà họ đã trả tự do. Họ buộc những người đó phải làm nô lệ lần nữa.
\s5
\v 12 Vậy, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi rằng,
\v 13 “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Chính Ta đã lập giao ước với tổ phụ các ngươi trong ngày Ta đem họ ra khỏi xứ Ai Cập, ra khỏi nhà nô lệ. Đó là khi Ta bảo,
\v 14 “Khi đến hạn mãn bảy năm, ai nấy phải thả tự do cho anh em mình, là những người anh em Hê-bơ-rơ đã bán thân cho các ngươi và phục vụ các ngươi trong sáu năm. Hãy trả tự do cho họ.” Nhưng tổ phụ các ngươi không nghe Ta và cũng chẳng để ý.
\s5
\v 15 Bấy giờ chính các ngươi đã ăn năn và bắt đầu làm điều thiện trước mặt Ta. Các ngươi công bố sự tự do, ai nấy đều phóng thích người lân cận mình. Các ngươi lập thỏa thuận trước mặt Ta trong nhà được gọi bằng danh Ta.
\v 16 Nhưng sau đó các ngươi trở lòng và làm ô uế danh Ta; các ngươi khiến ai nấy đều bắt lại các nô lệ nam nữ của mình, là những người mà các ngươi đã phóng thích để họ đi đâu thì tùy ý. Các ngươi bắt họ lại làm nô lệ cho các ngươi.
\s5
\v 17 Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chính các ngươi đã không nghe Ta. Lẽ ra các ngươi nên công bố sự tự do, ai nấy trong các ngươi đều phải phóng thích anh em và đồng hương Y-sơ-ra-ên mình. Vậy hãy xem! Ta sẽ tuyên bố sự tự do trên các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy sự tự do với gươm dao, tai họa, và đói kém, và Ta sẽ khiến các ngươi trở thành một thứ kinh khiếp trước mặt các vương quốc trên đất.
\v 18 Sau đó, Ta sẽ giải quyết những kẻ vi phạm giao ước của Ta, những kẻ không giữ lời giao ước mà chúng đã lập trước mặt Ta khi chúng xẻ thịt con bò đực làm đôi và bước đi giữa các phần đó,
\v 19 Ta sẽ giải quyết các lãnh đạo của Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, các thái giám và thầy tế lễ, và toàn thể dân chúng trong xứ đã đi qua đi lại giữa các phần thịt của con bò đực.
\s5
\v 20 Ta sẽ phó chúng vào tay kẻ thù chúng và những kẻ tìm mạng sống chúng. Thây của chúng sẽ thành thức ăn cho chim trời và muôn thú trên đất.
\v 21 Vậy, Ta sẽ phó Sê-đê-kia vua Giu-đa và các lãnh đạo của nó vào tay kẻ thù chúng và những kẻ tìm mạng sống chúng, và vào tay quân đội của vua Ba-by-lôn đã nổi lên nghịch cùng chúng.
\v 22 Kìa, ta sẽ ban một mệnh lệnh Đức Giê-hô-va phán vậy và đem chúng về thành này để gây chiến, chiếm nó và phóng hỏa. Vì Ta sẽ biến các thành của Giu-đa thành đống hoang tàn chẳng có ai cư ngụ.’”
\s5
\c 35
\p
\v 1 Có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, Ngài phán rằng,
\v 2 “Hãy đến thị tộc Rê-cáp và nói với chúng. Hãy dẫn chúng đến nhà Ta, vào một trong các phòng và cho chúng uống rượu.”
\s5
\v 3 Vậy tôi dẫn Gia-a-xa-nia, con Giê-rê-mi, cháu Ha-ba-xi-nia và các anh em ông ấy, cùng các con trai của ông, và tất cả thị tộc Rê-cáp.
\v 4 Tôi dẫn họ đến nhà Đức Giê-hô-va, vào các phòng của các con trai Ha-nan, con trai I-đa-lia, người của Đức Chúa Trời. Các phòng này ở cạnh phòng của các lãnh đạo, trên phòng của Ma-a-sê-gia, con Sa-lum, người gác cổng.
\s5
\v 5 Sau đó, tôi đặt các bình và chén đầy rượu trước mặt người Rê-cáp và bảo họ: “Xin mời quý vị dùng rượu.”
\v 6 Nhưng họ nói: “Chúng tôi không uống rượu, vì tổ phụ chúng tôi, Giô-na-đáp con Rê-cáp, đã truyền cho chúng tôi rằng: Các con và con cháu các con đừng bao giờ uống rượu.
\v 7 Ngoài ra, chớ xây nhà, gieo giống, hoặc trồng vườn nho; việc này không dành cho các con. Vì các con sẽ sống trong lều trọn đời mình, hầu cho các con sống lâu ngày trong xứ mà mình ở như người ngoại quốc.
\s5
\v 8 Chúng tôi phải vâng lời của Giô-na-đáp, con Rê-cáp, tổ phụ chúng tôi, trong mọi điều người truyền dạy chúng tôi, rằng chúng tôi, vợ chúng tôi, con trai và con gái chúng tôi, không bao giờ uống rượu.
\v 9 Và chúng tôi sẽ không xây nhà, chúng tôi sẽ không sở hữu vườn nho, ruộng, hoặc gieo giống chi cả.
\v 10 Chúng tôi đã sống trong lều, lắng nghe, và làm theo mọi điều Giô-na-đáp, tổ phụ chúng tôi đã truyền.
\v 11 Nhưng khi Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tấn công xứ, chúng tôi nói: Đi nào, chúng ta phải đến Giê-ru-sa-lem đặng thoát khỏi quân Canh-đê và A-ram. Vì vậy, chúng tôi đang sống tại Giê-ru-sa-lem đây.”
\s5
\v 12 Sau đó, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 13 “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Hãy đi và bảo người Giu-đa và dân cư Giê-ru-sa-lem rằng: “Các ngươi sẽ không nhận lấy sự sửa trị và nghe lời Ta sao? Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 14 Lời của Giô-na-đáp, con Rê-cáp, là mệnh lệnh đã được truyền cho các con cháu người về việc không uống rượu, đã được giữ đến tận hôm nay. Chúng vâng theo mệnh lệnh của tổ phụ chúng. Nhưng còn đối với Ta, Ta luôn phán với các ngươi, nhưng các ngươi không nghe Ta.
\s5
\v 15 Ta đã sai các tôi tớ Ta, là các tiên tri, đến với các ngươi. Ta luôn sai họ đến bảo rằng: Ai nấy hãy từ bỏ đường lối gian ác mình và làm điều thiện; mọi người hãy từ bỏ việc đi theo các thần khác và thờ lạy chúng. Trái lại, hãy trở về xứ mà Ta đã ban cho các ngươi và tổ phụ các ngươi. Nhưng các ngươi không lắng nghe và cũng chẳng để ý đến Ta.
\v 16 Vì con cháu của Giô-na-đáp con Rê-cáp đã vâng phục mệnh lệnh của tổ phụ chúng truyền cho chúng, nhưng dân này không chịu nghe Ta.’”
\s5
\v 17 Vậy, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, tất cả tai họa mà Ta đã tuyên bố nghịch lại chúng Ta sẽ giáng những tai họa ấy trên Giu-đa và tất cả dân cư Giê-ru-sa-lem, vì Ta đã tuyên bố với chúng, nhưng chúng không chịu nghe. Ta đã kêu gọi chúng, nhưng chúng không hồi đáp.’”
\s5
\v 18 Giê-rê-mi- nói với nhà Rê-cáp: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi tuân theo mệnh lệnh của Giô-na-đáp, tổ phụ các ngươi, và giữ hết thảy mọi điều ấy các ngươi vâng phục mọi lời mà người truyền cho các ngươi
\v 19 vậy Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Giô-na-đáp, con Rê-cáp, sẽ luôn có con cháu phục vụ Ta.’”
\s5
\c 36
\p
\v 1 Năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy lấy một cuộn sách và ghi chép mọi lời mà Ta đã phán với ngươi về Y-sơ-ra-ên, Giu-đa, và mọi dân. Hãy chép mọi điều Ta đã nói cùng ngươi từ đời Giô-si-a cho đến ngày nay.
\v 3 Có thể dân Giu-đa sẽ nghe biết về mọi tai họa mà Ta định giáng trên chúng. Có thể ai nấy sẽ từ bỏ đường lối gian ác mình, để Ta tha thứ tội ác và tội lỗi của chúng.”
\s5
\v 4 Sau đó, Giê-rê-mi gọi Ba-rúc, con Nê-ri-gia, và Giê-rê-mi đọc cho Ba-rúc chép vào quyển sách mọi lời Đức Giê-hô-va phán với ông.
\v 5 Giê-rê-mi bảo Ba-rúc: “Tôi đang ở tù và không thể đến nhà Đức Giê-hô-va.
\v 6 Xin anh hãy đi và đọc lớn tiếng mọi lời mà tôi đã đọc cho anh chép vào cuốn sách này. Trong ngày kiêng ăn, anh hãy đọc lời của Đức Giê-hô-va trước mặt dân sự trong nhà Ngài, và cũng đọc trước mặt người Giu-đa, là những người đến từ các thành của họ. Hãy công bố những lời này cho họ nghe.
\s5
\v 7 Có thể họ sẽ đến trước mặt Đức Giê-hô-va cầu xin sự thương xót. Có thể ai nấy sẽ từ bỏ đường lối gian ác mình, vì cơn thịnh nộ và cơn giận mà Đức Giê-hô-va đã công bố nghịch lại dân này là dữ dội lắm.”
\v 8 Vậy, Ba-rúc con Nê-ri-gia làm theo mọi điều tiên tri Giê-rê-mi đã bảo ông phải làm. Ông đọc lớn tiếng lời của Đức Giê-hô-va trong nhà Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 9 Tháng chín năm thứ năm trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, toàn thể dân Giê-ru-sa-lem và dân từ các thành của Giu-đa đến Giê-ru-sa-lem rao sự kiêng ăn trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 10 Ba-rúc đọc lớn tiếng lời của Giê-rê-mi trong nhà Đức Giê-hô-va, từ phòng của Ghê-ma-ria, con của thư ký Sa-phan, ở hành lang trên, ngay lối vào nhà Đức Giê-hô-va. Ông đọc cho cả dân sự nghe.
\s5
\v 11 Bấy giờ, Mi-chê, con Ghê-ma-ria, cháu Sa-phan, nghe mọi lời của Đức Giê-hô-va trong cuộn sách.
\v 12 Ông đi xuống cung vua, đến phòng thư ký. Kìa, tất cả các quan chức đang ngồi đó: thư ký Ê-li-sa-ma, Đê-la-gia con Sê-ma-gia, Ên-na-than con Ách-bô, Ghê-ma-ria con Sa-phan, và Sê-đê-kia con Ha-na-nia, cùng mọi quan chức.
\s5
\v 13 Bấy giờ, Mi-chê thuật lại cho họ nghe mọi lời mà ông đã nghe Ba-rúc đọc lớn tiếng trước mặt dân sự.
\v 14 Tất cả các quan chức sai Giê-hu-đa, con Nê-tha-nia, cháu Sê-lê-mia, chắt Cư-si, đến gặp Ba-rúc. Giê-hu-đi bảo Ba-rúc: “Hãy lấy cuốn sách trong tay ngươi, là cuốn sách mà ngươi đã đọc cho dân sự nghe, và đến đây.” Vậy, Ba-rúc con Nê-ri-gia lấy cuốn sách trong tay mình và đến gặp các quan chức.
\v 15 Họ bảo ông: “Hãy ngồi xuống và đọc cho chúng tôi nghe.” Vậy Ba-rúc đọc cuộn sách.
\s5
\v 16 Khi họ nghe mọi lời này, ai nấy đều sợ hãi mà nhìn nhau và nói với Ba-rúc: “Chúng ta chắc chắn phải báo cáo tất cả những lời này cho vua nghe.”
\v 17 Họ hỏi Ba-rúc: “Hãy cho chúng tôi biết làm thế nào mà ông viết những lời này theo miệng Giê-rê-mi?”
\v 18 Ba-rúc trả lời: “Ông ấy đọc mọi lời này cho tôi chép, và tôi lấy mực chép lại chúng trong cuộn sách này.”
\v 19 Các quan chức bảo Ba-rúc: “Ông và Giê-rê-mi hãy đi ẩn mình. Đừng để ai biết vị trí của các ông.”
\s5
\v 20 Vậy, họ đến hành lang của vua và tâu mọi lời này với vua. Nhưng trước tiên, họ để cuộn sách trong phòng của thư ký Ê-li-sa-ma.
\v 21 Sau đó vua sai Giê-hu-đi lấy cuộn sách. Giê-hu-đi lấy cuộn sách từ phòng của thư ký Ê-li-sa-ma. Ông đọc lớn tiếng cho vua và toàn thể quan chức đứng chầu vua nghe.
\v 22 Bấy giờ, vua đang ở trong cung điện mùa đông nhằm tháng chín, và trước mặt vua là một lò than.
\s5
\v 23 Khi Giê-hu-đi đọc được ba hoặc bốn cột, vua lấy dao cắt cuộn sách và ném vào lò than cho đến khi cuộn sách ấy cháy hết.
\v 24 Nhưng vua và các quần thần không ai hoảng sợ khi nghe các lời đó, họ cũng không xé quần áo mình.
\s5
\v 25 Ên-na-than, Đê-la-gia, và Ghê-ma-ria thậm chí cố gắng thuyết phục vua không đốt cuộn sách, nhưng ông không nghe họ.
\v 26 Vua sai Giê-ra-mê-ên, là bà con, Sê-ra-gia con Ách-ri-ên, và Sê-lê-mia con Áp-đê-ên đến bắt thư ký Ba-rúc và tiên tri Giê-rê-mi, nhưng Đức Giê-hô-va đã giấu họ.
\s5
\v 27 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi sau khi vua đã đốt cuộn sách và mọi lời Ba-rúc đã chép khi nghe Giê-rê-mi đọc, Ngài phán,
\v 28 ”Hãy trở lại, lấy một cuộn sách khác, chép mọi lời trong cuộn sách trước, là cuộn sách mà Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa đã đốt.
\v 29 Sau đó, ngươi phải nói với Giê-hô-gia-kim, vua Giu-đa như vầy: Ngươi đã đốt cuộn sách đó! Ngươi nói rằng: Sao ông chép: Vua Ba-by-lôn chắc chắn sẽ đến và phá hủy xứ này, ông ấy sẽ hủy diệt cả người và thú trong xứ ấy”?’”
\s5
\v 30 Vậy, Đức Giê-hô-va phán về ngươi như vầy, hỡi Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa: “Con cháu ngươi sẽ không được ngồi trên ngai Đa-vít. Còn về phần ngươi, thi thể của ngươi sẽ bị dang nắng ban ngày và sương giá ban đêm.
\v 31 Vì Ta sẽ trừng phạt ngươi, con cháu ngươi, và tôi tớ ngươi về tội lỗi của tất cả các ngươi. Ta sẽ giáng trên ngươi, trên toàn thể dân cư Giê-ru-sa-lem, và trên từng người ở Giu-đa mọi tai họa mà Ta đã đe ngươi mà ngươi không để ý.”
\s5
\v 32 Vậy Giê-rê-mi lấy một cuộn sách khác và trao cho Ba-rúc con thư ký Nê-ri-gia. Giê-rê-mi đọc cho Ba-rúc chép vào đó mọi lời đã được chép trong cuộn sách mà Giê-hô-gia-kim vua Giu-đa đã đốt. Ngoài ra, có nhiều lời tương tự khác cũng được thêm vào cuộn sách này.
\s5
\c 37
\p
\v 1 Bấy giờ, Sê-đê-kia, con Giô-si-a, làm vua thay cho Giê-hô-gia-kin, con Giê-hô-gia-kim. Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, đã lập Sê-đê-kia làm vua trong xứ Giu-đa.
\v 2 Nhưng Sê-đê-kia, các tôi tớ của ông, và dân trong xứ không nghe lời Đức Giê-hô-va truyền qua tay tiên tri Giê-rê-mi.
\s5
\v 3 Vậy Vua Sê-đê-kia, Giê-hu-can con Sê-lê-mia, và Sô-phô-ni con thầy tế lễ Ma-a-sê-gia gửi thông điệp cho tiên tri Giê-rê-mi. Họ nói: “Hãy thay mặt chúng tôi cầu vấn Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi.”
\v 4 Bấy giờ, Giê-rê-mi còn đang đi lại tự do giữa dân sự, vì ông chưa bị bỏ tù.
\v 5 Quân của Pha-ra-ôn từ Ai Cập đến, và dân Canh-đê đang vây thành Giê-ru-sa-lem nghe tin tứ về chúng thì rời khỏi Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 6 Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi rằng,
\v 7 “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Này là lời ngươi sẽ tâu với vua Giu-đa, vì người đã sai các ngươi đến tìm lời khuyên của Ta: Kìa, quân của Pha-ra-ôn đến đặng giúp ngươi sẽ quay về Ai Cập, là xứ của nó.
\v 8 Dân Canh-đê sẽ trở lại. Chúng sẽ đánh thành này, chiếm thành này, và phóng hỏa nó.
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ tự dối mình khi nói rằng: Chắc chắn dân Canh-đê sẽ đi khỏi chúng ta, vì chúng sẽ không rời đi.
\v 10 Thậm chí nếu ngươi đã đánh thắng toàn bộ quân Canh-đê đến đánh ngươi đến nỗi trong lều chúng nó chỉ còn lại những người thương tích, chúng sẽ nổi dậy và phóng hỏa thành này.”
\s5
\v 11 Vậy, khi quân Canh-đê đã rời Giê-ru-sa-lem trong lúc quân Pha-ra-ôn đang đến,
\v 12 Giê-rê-mi rời thành Giê-ru-sa-lem đến xứ Ben-gia-min. Ông muốn nhận sở hữu một phần của xứ giữa dân mình.
\v 13 Khi ông đến cổng Ben-gia-min, có đốc canh Giê-ri-a, con Sê-lê-mia, cháu Ha-na-nia. Ông bắt tiên tri Giê-rê-mi và nói: “Ông đang bỏ trốn qua hàng ngũ người Canh-đê.”
\s5
\v 14 Nhưng Giê-rê-mi nói: “Không đúng. Tôi không bỏ trốn qua hàng ngũ người Canh-đê.” Nhưng Giê-ri-a không nghe ông. Hắn bắt Giê-rê-mi và giải đến các quan chức.
\v 15 Các quan chức tức giận Giê-rê-mi. Họ đánh ông và tống giam ông trong nhà của thư ký Giô-na-than, vì họ biến nơi ấy thành nhà tù.
\s5
\v 16 Vậy, Giê-rê-mi bị bỏ dưới xà lim trong nhiều ngày.
\v 17 Sau đó, Vua Sê-đê-kia sai người đến giải ông đến cung điện. Trong cung, vua hỏi riêng ông: “Đức Giê-hô-va có phán lời nào không?” Giê-rê-mi trả lời: “Ngài phán: Ngươi sẽ bị phó vào tay vua Ba-by-lôn.”
\s5
\v 18 Giê-rê-mi tâu với Vua Sê-đê-kia: “Tôi đã phạm tội thế nào với bệ hạ, tôi tớ của bệ hạ, hoặc dân này đến nỗi bệ hạ bỏ tù tôi?
\v 19 Các tiên tri của bệ hạ là những người đã nói tiên tri với bệ hạ và nói rằng vua Ba-by-lôn sẽ không đến đánh bệ hạ và đánh xứ này ở đâu?
\v 20 Nhưng bây giờ xin nghe, tâu vua chúa tôi! Mong rằng lời cầu xin của tôi được bệ hạ đoái đến. Xin đừng trả tôi lại nhà của thư ký Giô-na-than, nếu không tôi sẽ chết tại đó.”
\s5
\v 21 Vậy Vua Sê-đê-kia ra lệnh. Các tôi tớ của vua giam ông trong sân của quân thị vệ. Mỗi ngày người ta cấp một ổ bánh mì cho ông từ phố bánh, cho đến khi trong thành chẳng còn bánh nữa. Vậy, Giê-rê-mi ở trong sân của quân thị vệ.
\s5
\c 38
\p
\v 1 Sê-pha-tia con Ma-tan, Ghê-đa-lia con Pa-su-rơ, Giê-hu-can con Sê-lê-mia, và Pa-su-rơ con Manh-ki-gia đã nghe những lời Giê-rê-mi rao báo với toàn dân sự. Ông nói,
\v 2 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Ai ở trong thành này sẽ bị giết bởi gươm, đói kém, và tai họa. Nhưng ai đầu hàng người Canh-đê sẽ được sống. Người ấy sẽ bảo toàn mạng sống mình và sẽ sống.
\v 3 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Thành này sẽ bị phó vào tay quân của vua Ba-by-lôn, nó sẽ chiếm thành ấy.”
\s5
\v 4 Vậy các quan chức tâu với vua: “Xin xử tử người này, vì hắn làm yếu tay của chiến sĩ còn lại trong thành này, và tay của toàn dân. Hắn rao báo những lời này, vì tên này không làm gì có lợi cho dân chúng nhưng chỉ đem đến tai họa.”
\v 5 Vậy, Vua Sê-đê-kia bảo: “Kìa, hắn ở trong tay các ngươi vì không vua nào có thể chống lại các ngươi.”
\s5
\v 6 Sau đó, họ bắt Giê-rê-mi và ném vào bể chứa nước của hoàng tử Manh-ki-gia. Bể chứa nước ấy ở trong sân của quân thị vệ. Họ lấy dây thừng dòng Giê-rê-mi xuống. Dưới bể không có nước nhưng đầy bùn, ông chìm xuống bùn.
\s5
\v 7 Bấy giờ có Ê-bết Mê-lết người Cút là một trong các quan thái giám ở cung vua. Ông hay tin rằng họ đã bỏ Giê-rê-mi xuống bể chứa nước. Khi ấy vua đang ngồi ở Cổng Ben-gia-min.
\v 8 Vậy, Ê-bết Mê-lết rời cung vua, đến tâu với vua. Ông nói:
\v 9 “Tâu vua chú tôi, việc những người này đối xử với tiên tri Giê-rê-mi thật là ác quá. Họ ném ông ấy vào bể chứa nước đặng bỏ mặc ông ấy chết vì đói, vì trong thành không còn thức ăn nữa.”
\s5
\v 10 Sau đó, vua ra lệnh cho Ê-bết Mê-lết người Cút. Ông nói: “Hãy dẫn theo ba mươi người và đem tiên tri Giê-rê-mi ra khỏi bể trước khi hắn chết.”
\v 11 Vậy Ê-bết Mê-lết sai đem theo những người đó và đến cung vua, vào kho quần áo trong cung. Ông lấy giẻ rách và quần áo cũ rồi dùng dây thừng dòng xuống cho Giê-rê-mi bên dưới bể.
\s5
\v 12 Ê-bết Mê-lết người Cút nói với Giê-rê-mi: “Hãy cột giẻ rách và quần áo cũ dưới cánh tay và máng dây thừng vào.” Vậy Giê-rê-mi làm theo.
\v 13 Kế đó, họ dùng dây thừng kéo Giê-rê-mi lên. Họ đem ông ra khỏi bể. Vì thế, Giê-rê-mi ở trong sân của quân thị vệ.
\s5
\v 14 Khi ấy, Vua Sê-đê-kia sai người đến dẫn Giê-rê-mi vào gặp riêng ông ở lối vào thứ ba trong nhà Đức Giê-hô-va. Vua bảo Giê-rê-mi: “Ta muốn hỏi ngươi một điều. Chớ giấu ta.”
\v 15 Giê-rê-mi tâu với Sê-đê-kia: “Nếu tôi trả lời bệ hạ, bệ hạ hẳn sẽ không giết tôi? Và nếu tôi cho bệ hạ lời khuyên, bệ hạ sẽ không nghe tôi.”
\v 16 Nhưng Vua Sê-đê-kia thề riêng với Giê-rê-mi và nói: “Thật như Đức Giê-hô-va hằng sống, Đấng dựng nên chúng ta, ta sẽ không giết ngươi hoặc phó ngươi vào tay những kẻ tìm mạng sống ngươi.”
\s5
\v 17 Vậy Giê-rê-mi tâu với Sê-đê-kia: “Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Nếu ngươi thật đến đầu hàng các quan chức của vua Ba-by-lôn, ngươi sẽ sống, và thành này sẽ không bị phóng hỏa. Ngươi và gia đình ngươi sẽ sống.
\v 18 Nhưng nếu ngươi không đầu hàng các quan chức của vua Ba-by-lôn, thành này sẽ bị phó vào tay dân Canh-đê. Chúng sẽ phóng hỏa, còn ngươi sẽ không thoát khỏi tay chúng.”
\s5
\v 19 Vua Sê-đê-kia bảo Giê-rê-mi: “Nhưng ta sợ dân Giu-đa là những người đã đào ngũ sang phía người Canh-đê, vì ta có thể bị phó vào tay họ, họ sẽ đối xử tệ với ta.”
\s5
\v 20 Giê-rê-mi tâu: “Họ sẽ không phó bệ hạ vào tay chúng. Xin vâng theo sứ điệp của Đức Giê-hô-va mà tôi thuật lại cho bệ hạ nghe, để bệ hạ được an toàn và được sống.
\v 21 Nhưng nếu bệ hạ không chịu đi, thì đây là lời Đức Giê-hô-va tỏ cho tôi:
\s5
\v 22 Kìa! Hỡi vua Giu-đa, tất cả những người nữ còn lại trong nhà ngươi, sẽ bị bắt đem đến các quan chức của vua Ba-by-lôn. Những người nữ này sẽ nói với ngươi: Bệ hạ đã bị bạn bè lừa dối; họ bỏ rơi bệ hạ. Chân bệ hạ giờ đây lún bùn, còn bạn bè bệ hạ chạy trốn.
\v 23 Vì tất cả vợ con ngươi sẽ bị đem đến dân Canh-đê, chính ngươi sẽ không thoát khỏi tay chúng. Ngươi sẽ bị bắt bởi tay vua Ba-by-lôn, và thành này sẽ bị phóng hỏa.”
\s5
\v 24 Sê-đê-kia nói với Giê-rê-mi: “Chớ báo cho ai biết về những lời này, nếu không ngươi sẽ chết.
\v 25 Nếu các quan chức hay rằng Ta đã nói chuyện với ngươi nếu họ đến bảo ngươi: Xin cho chúng tôi biết những lời ông đã nói với vua. Chớ giấu chúng tôi, nếu không chúng tôi sẽ giết ông. Xin cho chúng tôi biết lời vua đã nói với ông
\v 26 thì ngươi phải trả lời rằng: Tôi đã xin vua đừng trả tôi về nhà Giô-na-than đặng chết ở đó.’”
\s5
\v 27 Sau đó, tất cả các quan chức đến gặp Giê-rê-mi và tra vấn ông, ông trả lời họ y như vua đã dặn ông. Vì vậy, họ không nói chuyện với ông, vì họ không biết cuộc đối thoại giữa Giê-rê-mi và vua.
\v 28 Vậy, Giê-rê-mi vẫn ở trong sân của quân thị vệ cho đến ngày Giê-ru-sa-lem bị chiếm.
\s5
\c 39
\p
\v 1 Tháng chín năm thứ mười trong đời Sê-đê-kia vua Giu-đa, Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem và bao vây thành ấy.
\v 2 Ngày chín tháng tư năm thứ mười một trong đời Sê-đê-kia, thành bị thất thủ.
\v 3 Tất cả các quan chức của vua Ba-by-lôn đến và ngồi ở giữa cổng: Nẹt-gan Sa-rê-xe, Sam-ga Nê-bô, và Sa-sê-kim, một quan chức quan trọng. Nẹt-gan Sa-rê-xe là quan cấp cao của vua Ba-by-lôn.
\s5
\v 4 Khi Sê-đê-kia, vua Giu-đa, và hết thảy binh lính thấy họ liền chạy trốn. Họ ra khỏi thành vào ban đêm theo lối vườn ngự uyển, qua cổng giữa hai bức tường. Vua đi ra theo hướng về A-ra-ba.
\v 5 Nhưng quân Canh-đê đuổi theo họ và bắt Sê-đê-kia ở đồng bằng thung lũng Sông Giô-đanh gần Giê-ri-cô. Họ bắt ông và giải ông đến Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, tại Ríp-la trong xứ Ha-mát, là nơi Nê-bu-cát-nết-sa kết án ông ấy.
\s5
\v 6 Vua Ba-by-lôn giết các con trai của Sê-đê-kia trước mặt ông tại Ríp-la. Ông cũng giết tất cả các quý tộc của Giu-đa.
\v 7 Sau đó, ông móc mắt Sê-đê-kia và lấy xích đồng xiềng lại và giải về Ba-by-lôn.
\s5
\v 8 Người Canh-đê phóng hỏa hoàng cung và nhà cửa của dân chúng. Họ cũng đánh sập các tường thành Giê-ru-sa-lem.
\v 9 Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ của vua, bắt dân còn sót lại trong thành đi lưu đày. Trong số đó bao gồm những người đã bỏ sang hàng ngũ người Canh-đê và những người còn sót lại trong thành.
\v 10 Nhưng Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ của vua cho phép những người nghèo khổ nhất ở lại trong xứ Giu-đa. Ngày hôm đó, ông cấp phát vườn nho và ruộng đất cho họ.
\s5
\v 11 Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn truyền lệnh cho Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ về Giê-rê-mi. Ông nói:
\v 12 “Hãy đem hắn đi và chăm sóc hắn. Chớ làm hại hắn. Hãy đáp ứng cho hắn bất cứ điều gì hắn bảo ngươi làm.”
\v 13 Vậy, Nê-bu-xa-ra-đan đại úy quân thị vệ của vua, quan thái giám cấp cao Nê-bu-sa-ban, quan cấp cao Nẹt-gan Sa-rê-xe, và tất cả các quan chức quan trọng nhất của vua Ba-by-lôn sai người đi tìm.
\v 14 Người của họ bắt Giê-rê-mi khỏi sân vệ binh và giao cho Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, đem về nhà, như vậy Giê-rê-mi ở với họ.
\s5
\v 15 Bấy giờ Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi trong lúc ông bị giam ở sân vệ binh,
\v 16 “Hãy nói với Ê-bết Mê-lết người Cút: Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Này, Ta sẽ thực thi lời Ta về thành này, Ta sẽ giáng tai họa chứ không phải điều lành trên nó. Chúng sẽ xảy ra trước mặt ngươi ngày hôm đó.
\s5
\v 17 Nhưng hôm đó Ta sẽ giải cứu ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy ngươi sẽ không bị phó vào tay những kẻ ngươi sợ hãi.
\v 18 Vì chắc chắn Ta sẽ giải cứu ngươi. Ngươi sẽ không ngã xuống bởi gươm. Ngươi sẽ thoát mạng, vì ngươi tin cậy Ta Đức Giê-hô-va phán vậy.’”
\s5
\c 40
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi sau khi Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ, phóng thích ông khỏi Ra-ma. Đó là nơi Giê-rê-mi bị giải đến và bị xiềng xích. Ông ở chung với những người Giê-ru-sa-lem và Giu-đa bị bắt lưu đày tại Ba-by-lôn.
\v 2 Quan chỉ huy thị vệ gọi Giê-rê-mi đến và nói: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông đã ra lệnh giáng tai họa này lên nơi này.
\s5
\v 3 Vậy Đức Giê-hô-va đã thực hiện điều đó. Ngài thực thi như Ngài đã ra lệnh, vì dân của ông đã phạm tội nghịch lại Ngài và không vâng theo tiếng Ngài. Ấy là lý do vì sao việc này xảy đến trên dân ông.
\v 4 Nhưng bây giờ hãy xem! Hôm nay tôi đã giải thoát ông khỏi xiềng xích trên tay ông. Nếu ông thấy việc đi cùng tôi đến Ba-by-lôn là tốt đẹp, hãy đi, tôi sẽ chăm sóc ông. Nhưng nếu ông thấy việc đi cùng tôi đến Ba-by-lôn chẳng tốt lành gì, thì ông đừng đi. Hãy xem hết thảy xứ ở trước mặt ông. Hãy đến bất cứ nơi nào ông thấy tốt và thích hợp.”
\s5
\v 5 Khi Giê-rê-mi không trả lời, Nê-bu-xa-ra-đan nói: “Hãy đến gặp Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan, người mà vua Ba-by-lôn giao phụ trách các thành của Giu-đa. Hãy ở với ông ấy giữa dân chúng hoặc đi đến bất cứ nơi nào ông thấy là tốt đẹp.” Sĩ quan chỉ huy quân thị vệ phát cho ông thức ăn và tặng vật rồi cho ông đi.
\v 6 Vậy, Giê-rê-mi đến gặp Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, tại Mích-pa. Ông ở với ông ấy giữa dân chúng là những người còn sót lại trong xứ.
\s5
\v 7 Bấy giờ, một số sĩ quan chỉ huy lính Giu-đê, tức những người vẫn còn ở vùng thôn quê họ và người của họ - nghe rằng vua Ba-by-lôn đã lập Ghê-đa-lia con A-hi-cam làm quan thống đốc của xứ. Họ cũng nghe rằng vua đã giao ông ấy phụ trách đàn ông, đàn bà, và trẻ con là những người nghèo nhất trong xứ, tức những người không bị bắt đem lưu đày qua Ba-by-lôn.
\v 8 Vậy họ đến Ghê-đa-lia tại Mích-pa. Những người này là Ích-ma-ên con Nê-tha-nia; Giô-ha-nan và Giô-na-than, con Ca-rê-a; Sê-ra-gia con Tan-hu-mết; các con của Ê-phai người Nê-tô-phát; và Gia-a-xa-nia con Ma-a-ca họ và người của họ.
\s5
\v 9 Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan, thề với họ và người của họ rằng: “Chớ sợ phải phục vụ các quan Canh-đê. Hãy sống trong xứ và phục vụ vua Ba-by-lôn, thì các ông sẽ được yên bình.
\v 10 Và kìa, tôi sẽ ở Mích-pa để gặp người Canh-đê là những người đã đến gặp chúng ta. Vậy hãy thu hoạch rượu, trái cây mùa hè, dầu và trữ trong thùng hàng. Hãy sống trong các thành mà các ông đã chiếm đóng.”
\s5
\v 11 Vậy tất cả người Giu-đê ở Mô-áp, trong vòng dân Am-môn, ở Ê-đôm, và ở mỗi xứ nghe rằng vua Ba-by-lôn đã cho phép một số dân Giu-đa còn lại được ở, và rằng vua đã lập Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan, cai trị họ.
\v 12 Hết thảy người Giu-đê trở về từ các nơi mà họ đã bị tản lạc. Họ trở về xứ Giu-đa, đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-pa. Họ thu hoạch rượu và trái cây mùa hè nhiều vô kể.
\s5
\v 13 Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội ở vùng thôn quê đến gặp Ghê-đa-lia tại Mích-pa.
\v 14 Họ nói với ông: “Ông có biết rằng Ba-a-li, vua dân Am-môn, đã sai Ích-ma-ên con Nê-tha-nia đến ám sát ông không?” Nhưng Ghê-đa-lia con A-hi-cam không tin họ.
\s5
\v 15 Vậy Giô-ha-nan con Ca-rê-a nói riêng với Ghê-đa-lia tại Mích-pa rằng: “Xin cho phép tôi đi giết Ích-ma-ên con Nê-tha-nia. Sẽ không ai nghi ngờ tôi đâu. Sao ông ấy phải giết ông? Sao ông để cho hết thảy người Giu-đa là những người đã được quy tụ quanh ông phải bị tản lạc và số dân Giu-đa còn lại bị tiêu diệt?”
\v 16 Nhưng Ghê-đa-lia con A-hi-cam nói với Giô-ha-nan con Ca-rê-a: “Đừng làm vậy, vì ông vu cáo Ích-ma-ên.”
\s5
\c 41
\p
\v 1 Nhưng vào tháng bảy, Ích-ma-ên con Nê-tha-nia, cháu Ê-li-sa-ma, thuộc hoàng tộc, và một số quan chức của vua cùng mười người người đi đến gặp Ghê-đa-lia con A-hi-cam tại Mích-pa. Họ cùng ăn uống với nhau ở đó.
\v 2 Nhưng Ích-ma-ên con Nê-tha-nia, và mười người của ông ấy đứng dậy dùng gươm đánh Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan. Ích-ma-ên giết Ghê-đa-lia, là người mà vua Ba-by-lôn đã lập cai trị xứ.
\v 3 Sau đó, Ích-ma-ên giết hết thảy người Giu-đê ở với Ghê-đa-lia tại Mích-pa và lính Canh-đê ở đó.
\s5
\v 4 Hai ngày sau khi giết Ghê-đa-lia, không ai biết việc ấy.
\v 5 Một số người từ Si-chem, Si-lô, và Sa-ma-ri gồm tám mươi người đã cạo râu, xé quần áo mình, và cắt da thịt mình đem của lễ chay và nhũ hương đến nhà Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Ích-ma-ên con Nê-tha-nia từ Mích-pa đến gặp họ, vừa đi vừa khóc. Khi gặp họ, ông nói: “Hãy đến gặp Ghê-đa-lia con A-hi-cam!”
\v 7 Khi họ vào trong thành, Ích-ma-ên con Nê-tha-nia và các thuộc hạ của ông tàn sát họ và ném họ xuống một cái hố.
\s5
\v 8 Nhưng mười người trong số họ nói với Ích-ma-ên: “Xin đừng giết chúng tôi, vì chúng tôi có dự trữ sẵn lúa mì, lúa mạch, dầu và mật ong trong ruộng.” Vậy, ông ấy tha mạng họ và những người đi cùng họ.
\v 9 Cái hố mà Ích-ma-ên ném các thây người mà ông giết cùng với Ghê-đa-lia là hố lớn do Vua A-sa đào khi ông ấy đánh Vua Ba-a-sa của Y-sơ-ra-ên. Ích-ma-ên con Nê-tha-nia lấp đầy hố đó bằng thây những người mà ông đã giết.
\s5
\v 10 Kế đó, Ích-ma-ên bắt hết thảy những người khác ở Mích-pa, gồm các con gái của vua và những người còn sót lại ở Mích-pa mà Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy quân thị vệ, đã giao cho Ghê-đa-lia con A-hi-cam. Vậy Ích-ma-ên con Nê-tha-nia bắt họ và qua chỗ dân Am-môn.
\s5
\v 11 Nhưng Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội hay tin về những tai hại mà Ích-ma-ên con Nê-tha-nia gây ra.
\v 12 Vậy, họ tập hợp lực lượng và đi đánh Ích-ma-ên con Nê-tha-nia. Họ tìm thấy ông ấy ở hồ lớn tại Ghi-bê-ôn.
\s5
\v 13 Khi toàn thể những người đi cùng Ích-ma-ên thấy Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội đi với ông ấy, họ rất vui.
\v 14 Tất cả những người bị Ích-ma-ên bắt tại Mích-pa quay lại và đến gặp Giô-ha-nan con Ca-rê-a.
\s5
\v 15 Nhưng Ích-ma-ên con Nê-tha-nia cùng tám người chạy trốn khỏi Giô-ha-nan. Ông đến gặp dân Am-môn.
\v 16 Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội của ông đem khỏi Mích-pa tất cả những người đã được giải cứu khỏi Ích-ma-ên con Nê-tha-nia. Việc này xảy ra sau khi Ích-ma-ên đã giết Ghê-đa-lia con A-hi-cam. Giô-ha-nan và những người đi cùng ông đem theo những trai tráng, lính, phụ nữ và trẻ con, và quan thái giám đã được giải cứu tại Ghi-bê-ôn.
\s5
\v 17 Họ đi và ở tại Ghê-ru Chim-ham trong một thời gian, gần Bết-lê-hem. Họ tính đến Ai Cập
\v 18 vì sợ dân Canh-đê. Họ sợ chúng vì Ích-ma-ên con Nê-tha-nia đã giết Ghê-đa-lia con A-hi-cam, là người mà vua Ba-by-lôn đã lập cai trị xứ.
\s5
\c 42
\p
\v 1 Sau đó, tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội và Giô-ha-nan con Ca-rê-a, Giê-xa-nia con Hô-sa-gia, và toàn thể dân chúng từ người thấp kém nhất cho đến người quyền thế nhất đến gặp tiên tri Giê-rê-mi.
\v 2 Họ nói cùng ông: “Xin nhậm lời cầu xin của chúng tôi. Xin cầu thay cho chúng tôi, tức là dân còn sót lại này, với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông, vì chúng tôi quá ít người, như ông thấy đó.
\v 3 Xin ông hãy cầu hỏi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông chỉ cho chúng tôi đường phải đi và việc phải làm.”
\s5
\v 4 Vậy, tiên tri Giê-rê-mi trả lời họ: “Tôi có nghe các ông. Kìa, tôi sẽ cầu nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ông như các ông đề nghị. Tôi sẽ nói với các ông bất cứ điều gì Đức Giê-hô-va trả lời. Tôi sẽ không giấu các ông điều chi cả.”
\v 5 Họ nói với Giê-rê-mi: “Nguyện Đức Giê-hô-va là Đấng làm chứng chân thật và thành tín với chúng tôi, nếu chúng tôi không làm theo lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông bảo chúng tôi làm.
\v 6 Dù điều đó tốt hay xấu, chúng tôi sẽ vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông, là Đấng mà chúng tôi sai ông đến, để chúng tôi được yên bình khi chúng tôi vâng theo tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời ông.”
\s5
\v 7 Mười ngày sau, có lời của Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi.
\v 8 Vậy, Giê-rê-mi gọi Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả các sĩ quan chỉ huy quân đội của ông ấy, và toàn thể dân chúng từ người thấp kém nhất đến người quyền thế nhất.
\v 9 Ông nói cùng họ: “Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, Đấng mà các ông đã sai tôi đến, để tôi trình lời cầu xin của các ông trước mặt Ngài. Đức Giê-hô-va phán như vầy,
\v 10 Nếu các ngươi quay trở lại và sống trong xứ này, Ta sẽ xây dựng các ngươi và không đánh sập các ngươi; Ta sẽ vun trồng các ngươi chứ không nhổ các ngươi, vì Ta sẽ rút tai họa mà Ta đã giáng trên các ngươi.
\s5
\v 11 Chớ sợ vua Ba-by-lôn, là kẻ mà các ngươi đang sợ hãi. Chớ sợ nó Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta ở cùng các ngươi đặng giải cứu các ngươi khỏi tay nó.
\v 12 Vì Ta sẽ tỏ lòng nhân từ với các ngươi. Ta sẽ thương xót các ngươi, Ta sẽ đem các ngươi về lại xứ này.
\s5
\v 13 Nhưng nếu các ngươi nói: “Chúng tôi sẽ không ở trong xứ này” nếu các ngươi không nghe tiếng Ta, là tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi.
\v 14 Nếu các ngươi nói: “Không! Chúng tôi sẽ đến xứ Ai Cập, là nơi chúng tôi sẽ không thấy chiến tranh, chúng tôi sẽ không nghe tiếng kèn, chúng tôi sẽ không đói. Chúng tôi sẽ sống ở đó.”
\s5
\v 15 Bây giờ hãy nghe lời này của Đức Giê-hô-va, hỡi những kẻ còn sót lại của Giu-đa. Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: Nếu các ngươi thật hướng về Ai Cập, đến sống tại đó,
\v 16 thì gươm dao mà các ngươi sợ hãi sẽ bắt kịp các ngươi trong xứ Ai Cập. Đói kém mà các ngươi lo lắng sẽ đuổi theo các ngươi đến tận Ai Cập. Và các ngươi sẽ chết tại đó.
\v 17 Việc ấy sẽ xảy đến khi tất cả những ai đến Ai Cập sống tại đó, chúng sẽ chết bởi gươm dao, đói kém, hoặc tai họa. Sẽ không ai sống sót, sẽ không ai thoát khỏi tai họa mà Ta sẽ giáng trên chúng.
\s5
\v 18 Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Như cơn thạnh nộ và cơn giận của Ta giáng trên dân cư Giê-ru-sa-lem thể nào, thì cơn thạnh nộ của Ta sẽ giáng trên các ngươi nếu các ngươi đến Ai Cập. Các ngươi sẽ trở thành đối tượng bị rủa sả và ghê tởm, đối tượng bị nguyền rủa, và một điều nhục nhã. Các ngươi sẽ không còn thấy nơi này nữa.’”
\v 19 Sau đó, Giê-rê-mi nói: “Đức Giê-hô-va đã nói về quý vị - hỡi dân Giu-đa còn sót lại. Đừng đến Ai Cập! Quý vị chắc chắn biết rằng tôi đã làm chứng nghịch lại quý vị hôm nay.
\s5
\v 20 Vì quý vị sẽ trả giá bằng mạng sống mình khi sai tôi đến gặp Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị và nói rằng: Xin cầu thay cho chúng tôi lên Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi. Xin cho chúng tôi biết lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi phán, chúng tôi sẽ làm theo.
\v 21 Vì hôm nay tôi đã thuật lại cho quý vị, nhưng quý vị không nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị hoặc làm theo bất cứ điều gì Ngài sai tôi đến truyền cho quý vị.
\v 22 Vậy bây giờ, chắc chắn quý vị biết rằng mình sẽ chết bởi gươm dao, đói kém, và tai họa trong xứ mà quý vị muốn đến sống.”
\s5
\c 43
\p
\v 1 Giê-rê-mi đã tuyên bố xong cho toàn dân sự mọi lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ đã bảo ông phải nói.
\v 2 A-xa-ria con Hô-sa-gia, Giô-ha-nan con Ca-rê-a, và tất cả những người ngạo mạn nói với Giê-rê-mi: “Ông nói dối. Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi không sai ông đến nói rằng: Đừng đến sống tại Ai Cập.
\v 3 Vì Ba-rúc con Nê-ri-gia xúi giục ông chống lại chúng tôi để ông phó chúng tôi vào tay người Canh-đê, khiến chúng tôi chết và bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn.”
\s5
\v 4 Vậy Giô-ha-nan con Ca-rê-ca, tất cả các chỉ huy quân đội, và toàn thể dân chúng từ chối nghe theo tiếng Giê-hô-va kêu gọi sống trong xứ Giu-đa.
\v 5 Giô-ha-nan con Ca-rê-a và tất cả sĩ quan chỉ huy quân đội đem hết thảy những người Giu-đa còn sót lại, là những người đã trở về từ các nước họ bị tản lạc đến sống trong xứ Giu-đa.
\v 6 Họ dẫn theo đàn ông, đàn bà, trẻ con và các con gái của vua, cùng những người mà Nê-bu-xa-ra-đan, đại úy quân thị vệ, đã để ở lại với Ghê-đa-lia con A-hi-cam, cháu Sa-phan. Họ cũng dẫn theo tiên tri Giê-rê-mi và Ba-rúc con Nê-ri-gia.
\v 7 Họ đến Ai Cập, đến Ta-phan-hết, vì họ không nghe theo tiếng Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 8 Vậy có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giê-rê-mi tại Ta-phan-hết,
\v 9 “Hãy lấy vài hòn đá lớn trước mặt dân Giu-đa, giấu trong vỉa hè pha vữa ở lối vào cung vua Pha-ra-ôn tại Ta-phan-hết.”
\v 10 Sau đó hãy nói với chúng: “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, Ta sẽ sai sứ giả đến gọi Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn là đầy tớ Ta. Ta sẽ lập ngai nó trên những hòn đá mà ngươi, Giê-rê-mi, đã chôn. Nê-bu-cát-nết-sa sẽ dựng lều trên chúng.
\s5
\v 11 Nó sẽ đến và đánh xứ Ai Cập. Ai bị định cho chết sẽ chết. Ai bị định làm phu tù sẽ bị bắt làm phu tù. Và ai bị định cho gươm dao sẽ bị phó cho gươm dao.
\v 12 Sau đó, Ta sẽ nhen lửa trong các đền thờ thần của Ai Cập. Nê-bu-cát-nết-sa sẽ phóng hỏa đốt chúng hoặc chiếm chúng. Nó sẽ dọn sạch xứ Ai Cập như người chăn chiên dọn sạch sâu hại khỏi quần áo họ. Nó sẽ ra khỏi đó trong sự chiến thắng.
\v 13 Nó sẽ bẻ gãy các cột đá ở Hê-li-ô-pô-lít trong xứ Ai Cập. Nó sẽ đốt các thành thờ thần của Ai Cập.’”
\s5
\c 44
\p
\v 1 Đây là lời phán cùng Giê-rê-mi về những người Giu-đa sống trong xứ Ai Cập, tức những người ở tại Mích-đôn, Ta-phan-hết, Mem-phi, và trong đất Pa-trốt.
\v 2 “Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Chính các ngươi đã thấy mọi tai họa mà Ta giáng trên Giê-ru-sa-lem và tất cả các thành của Giu-đa. Kìa, hôm nay chúng là những đống hoang tàn. Không ai ở trong các thành ấy.
\v 3 Việc này xảy ra là bởi cớ những việc ác mà chúng đã làm đặng xúc phạm Ta bằng cách xông hương và thờ các thần khác. Đây là những thần mà chính chúng, các ngươi, hoặc tổ phụ các ngươi không biết.
\s5
\v 4 Vậy, Ta cứ hết lần này đến lần khác sai tôi tớ Ta là những tiên tri đến với chúng. Ta sai họ đi nói rằng: Hãy ngưng làm những việc gớm ghiếc mà Ta ghét.
\v 5 Nhưng chúng không nghe. Chúng không chịu chú ý hoặc từ bỏ việc gian ác mình khi xông hương cho các thần khác.
\v 6 Vậy cơn giận và cơn thạnh nộ của Ta đổ ra và nhen lửa trên các thành của Giu-đa và đường phố Giê-ru-sa-lem. Chúng trở nên hoang tàn và bị tàn phá cho đến ngày nay.”
\s5
\v 7 Vậy bây giờ Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vạn quân và Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Sao các ngươi làm điều ác chống lại chính mình? Sao các ngươi để cho chính mình bị chặt bỏ khỏi Giu-đa gồm đàn ông, đàn bà, trẻ con và trẻ sơ sinh? Sẽ không ai trong các ngươi còn sót lại.
\v 8 Bởi sự gian ác các ngươi, các ngươi đã xúc phạm Ta bằng việc làm của chính tay mình, xông hương cho các thần khác trong xứ Ai Cập là nơi các ngươi đến cư ngụ. Các ngươi đến đó để bị hủy diệt, trở thành một đối tượng bị nguyền rủa và nỗi nhục nhã giữa các dân trên đất.
\s5
\v 9 Các ngươi đã quên sự gian ác của tổ phụ các ngươi và sự gian ác mà các vua Giu-đa và vợ chúng đã phạm sao? Các ngươi đã quên việc ác mà chính các ngươi và vợ các ngươi phạm trong xứ Giu-đa và trên các đường phố Giê-ru-sa-lem sao?
\v 10 Đến hôm nay, chúng vẫn không hạ mình. Chúng không tôn trọng luật pháp hoặc sắc lệnh Ta đã đặt trước mặt chúng và tổ phụ chúng và cũng chẳng bước theo những điều ấy.”
\s5
\v 11 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ xây mặt nghịch cùng các ngươi, Ta sẽ giáng tai họa trên các ngươi và hủy diệt Giu-đa.
\v 12 Ta sẽ lấy dân Giu-đa còn sót lại, tức những người đi đến sống ở Ai Cập. Ta sẽ làm như vậy để tất cả bọn chúng sẽ diệt vong trong xứ Ai Cập. Chúng sẽ ngã xuống bởi gươm dao và đói kém. Kẻ nhỏ người lớn sẽ hư vong bởi gươm dao và đói kém. Chúng sẽ chết và trở thành đối tượng nguyền rủa, rủa sả, sỉ nhục, và gớm ghiếc.
\s5
\v 13 Ta sẽ phạt dân cư ngụ trong xứ Ai Cập như Ta đã phạt Giê-ru-sa-lem bằng gươm dao, đói kém, và tai họa.
\v 14 Không có người lánh nạn nào hoặc kẻ sống sót nào trong số dân Giu-đa còn sót lại đến sống trong xứ Ai Cập trở về xứ Giu-đa, thậm chí dù chúng muốn quay về sống tại đó. Sẽ không có ai trong số chúng trở về, ngoại trừ một ít người trốn thoát khỏi đó.”
\s5
\v 15 Vậy, tất cả những người đàn ông biết rằng vợ mình đang xông hương cho các thần khác, và những người đàn bà trong một hội đông, và toàn thể những người sống trong xứ Ai Cập tại Pa-trốt trả lời Giê-rê-mi.
\v 16 Họ nói: “Về lời mà ông nhân danh Đức Giê-hô-va nói với chúng tôi: Chúng tôi sẽ không nghe ông.
\v 17 Vì chúng tôi chắc chắn sẽ làm tất cả những việc mà chúng tôi đã nói là sẽ làm: xông hương cho Nữ vương trên Trời và đổ của lễ quán cho thần ấy y như chúng tôi, tổ phụ chúng tôi, các vua, và những lãnh đạo của chúng tôi đã làm trong các thành của Giu-đa và trên đường phố Giê-ru-sa-lem. Chúng tôi sẽ có đầy đủ thức ăn và phồn vinh, chẳng trải qua tai họa gì.
\s5
\v 18 Khi chúng tôi ngưng làm những việc này, không xông hương cho Nữ vương trên Trời và không đổ của lễ quán cho thần ấy, tất cả chúng tôi đều bị nghèo khó và chết bởi gươm dao và đói kém.”
\v 19 Những người đàn bà này nói: “Khi chúng tôi xông hương trước mặt Nữ vương trên Trời và đổ của lễ quán cho thần ấy, chúng tôi đã làm những việc này mà chồng chúng tôi không biết sao?”
\s5
\v 20 Giê-rê-mi nói với toàn thể dân sự - gồm đàn ông và đàn bà, và tất cả những người trả lời ông ông công bố rằng:
\v 21 “Đức Giê-hô-va không nhớ hương mà quý vị, tổ phụ quý vị, các vua và lãnh đạo của quý vị, và dân trong xứ, đã xông trong các thành Giu-đa và trên đường phố Giê-ru-sa-lem sao? Vì Đức Giê-hô-va nhớ điều này; Ngài nghĩ đến điều đó.
\s5
\v 22 Do vậy, Ngài không thể chịu đựng điều đó nữa vì những thói tục gian ác của quý vị, vì sự ghê tởm mà quý vị đã làm. Xứ của quý vị sẽ trở nên hoang vu, ghê rợn, và là đối tượng bị nguyền rủa, đến nỗi không còn ai sống trong xứ đó nữa cho đến ngày nay.
\v 23 Vì quý vị xông hương và phạm tội chống lại Đức Giê-hô-va, và vì quý vị không nghe theo tiếng Ngài, luật pháp của Ngài, giới mạng, hoặc sắc lệnh theo giao ước của Ngài, nên tai họa này giáng trên quý vị cho đến ngày nay.”
\s5
\v 24 Giê-rê-mi nói với toàn thể dân sự và tất cả những người đàn bà: “Hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi những người Giu-đa trong xứ Ai Cập.
\v 25 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Các ngươi và vợ các ngươi đã nói và bắt tay thực hiện việc các ngươi đã định: “Chúng tôi chắc chắn sẽ thực thi lời thề mà chúng tôi đã lập đặng thờ Nữ vương trên Trời, đổ của lễ quán cho thần ấy.” Bây giờ hãy thực hiện lời thề ấy; hãy thực thi chúng.
\s5
\v 26 Vậy bây giờ, hãy nghe lời của Đức Giê-hô-va, hỡi toàn thể dân Giu-đa trong xứ Ai Cập: Kìa, Ta đã nhân danh vĩ đại của Ta mà thề - Đức Giê-hô-va phán. Danh Ta sẽ không còn được xưng bởi miệng của bất kỳ người nào trong dân Giu-đa tại xứ Ai Cập nữa, hỡi những kẻ nói rằng: “Thật như Chúa Giê-hô-va hằng sống.”
\v 27 Kìa, Ta sẽ canh chúng đặng giáng tai họa chứ chẳng phải sự tốt lành. Những người Giu-đa trong xứ Ai Cập sẽ bỏ mạng vì gươm dao và đói kém cho đến khi tất cả chúng đều bị diệt hết.
\v 28 Những kẻ còn sống sót thoát khỏi gươm dao sẽ rời Ai Cập trở về xứ Giu-đa, chỉ một ít trong số chúng. Vậy tất cả những kẻ còn sót lại trong dân Giu-đa đến sống ở Ai Cập sẽ biết lời nào ứng nghiệm: lời của Ta hoặc của chúng.
\s5
\v 29 Này sẽ là dấu cho các ngươi Đức Giê-hô-va phán vậy Ta sẽ nghịch cùng các ngươi trong nơi này, để các ngươi biết rằng lời của Ta chắc chắn sẽ giáng tai họa trên các ngươi.
\v 30 Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phó Pha-ra-ôn Hốp-ra, vua Ai Cập, vào tay các kẻ thù của nó và những kẻ tìm mạng sống nó. Việc ấy sẽ tương tự như khi Ta phó Sê-đê-kia vua Giu-đa vào tay Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn, là kẻ thù tìm mạng sống của nó.’”
\s5
\c 45
\p
\v 1 Đây là lời mà tiên tri Giê-rê-mi nói với Ba-rúc con Nê-ri-gia, khi ông chép trong một cuộn sách những lời bởi miệng Giê-rê-mi đọc nhằm năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa, ông nói,
\v 2 ”Hỡi Ba-rúc, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy:
\v 3 Ngươi đã nói: Khốn thay cho tôi, vì Đức Giê-hô-va đã thêm sự cùng cực vào sự đau khổ của tôi. Tôi mệt nhọc vì than thở; tôi không được yên nghỉ.
\s5
\v 4 Này là lời ngươi phải nói với ông ấy: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, việc Ta đã xây, Ta sẽ đánh đổ. Việc Ta đã vun trồng, Ta sẽ nhổ. Việc này đúng trên khắp thế gian.
\v 5 Nhưng ngươi đang trông đợi những việc lớn cho mình sao? Đừng hy vọng điều ấy. Vì kìa, tai họa sẽ giáng trên khắp nhân loại Đức Giê-hô-va phán vậy nhưng Ta sẽ ban mạng sống cho ngươi làm của cướp ở bất cứ nơi nào ngươi đến.’”
\s5
\c 46
\p
\v 1 Có lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi về các nước.
\v 2 Về Ai Cập: “Đây là lời phán về quân đội của Pha-ra-ôn Nê-cô, vua Ai Cập tại Cạt-kê-mít bên sông Ơ-phơ-rát. Đây là quân mà Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã đánh bại vào năm thứ tư trong đời Giê-hô-gia-kim, con Giô-si-a, vua Giu-đa.
\v 3 Hãy chuẩn bị khiên nhỏ và lớn, hãy ra trận.
\v 4 Hãy thắng yên ngựa và cưỡi, hỡi các kỵ sĩ. Hãy đứng vào hàng ngũ, đầu đội mũ sắt. Hãy đánh bóng giáo và mặc áo giáp.
\s5
\v 5 Ta thấy gì? Chúng khiếp sợ và chạy trốn, vì lính của chúng bị bại trận. Chúng lẩn trốn và không quay nhìn lại. Sự kinh hãi vây quanh Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 6 người nhanh chân không thể bỏ chạy, lính không thể trốn thoát. Chúng trượt chân ở phía bắc và ngã bên Sông Ơ-phơ-rát.
\s5
\v 7 Người này là ai mà nổi lên như sông Nin, như sông nổi sóng và chảy cuồn cuộn?
\v 8 Ai Cập nổi lên như sông Nin, như sông nổi sóng và chảy cuồn cuộn. Nó nói: Ta sẽ chảy lên; Ta sẽ phủ khắp đất. Ta sẽ hủy diệt các thành phố cùng cư dân nó.
\v 9 Hỡi ngựa, hãy xông lên. Hỡi xe chiên mã, hãy giận dữ. Hãy để chiến sĩ đi ra, hỡi Cút và Phút, những người có tài cầm khiên, và Lu-đim, những người có tài giương cung.
\s5
\v 10 Hôm đó sẽ là ngày báo thù của Chúa Giê-hô-va vạn quân, chính Ngài sẽ báo thù trên kẻ thù Ngài. Gươm dao sẽ cắn xé thỏa dạ. Nó sẽ uống say huyết. Vì sẽ có một tế lễ dâng cho Chúa Giê-hô-va vạn quân tại xứ phương bắc bên Sông Ơ-phơ-rát.
\s5
\v 11 Hãy đi lên Ghi-lê-át và lấy thuốc, hỡi trinh nữ Ai Cập.
\v 12 Ngươi đắp nhiều thuốc cũng chẳng có ích chi. Đất đầy dẫy lời than van của ngươi, vì lính chiến đâm đầu vào nhau; cả hai đều ngã xuống.”
\s5
\v 13 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi khi Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đến đánh xứ Ai Cập:
\v 14 ”Hãy thuật lại cho Ai Cập và công bố ở Mích-đôn và Mem-phi. Tại Ta-phan-hê chúng nói: “Hãy vào hàng ngũ và sẵn sàng, vì gươm dao sẽ cắn xé xung quanh ngươi.
\s5
\v 15 Sao thần A-pi chạy trốn? Sao thần bò đực của ngươi không đứng nổi? Đức Giê-hô-va đã quăng nó xuống.
\v 16 Ngài làm cho nhiều người vấp ngã. Mỗi lính chiến va vào nhau. Chúng nói: “Đứng lên. Chúng ta hãy về nhà. Chúng ta hãy trở về dân của chúng ta, về xứ của chúng ta. Chúng ta hãy rời khỏi thanh gươm ức hiếp.”
\v 17 Chúng tuyên bố: “Pha-ra-ôn vua Ai Cập chỉ là tiếng ồn, là người đã đánh mất cơ hội.”
\s5
\v 18 “Thật như Ta hằng sống - vua tuyên bố như vầy - bởi danh Ta là Đức Giê-hô-va vạn quân, người ta sẽ đến học như Núi Tha-bô và Cạt-mên bên bờ biển.
\v 19 Chính các ngươi hãy chuẩn bị hành lý để lên đường làm phu tù, hỡi con gái ở Ai Cập. Vì Mem-phi sẽ trở thành một cớ kinh khiếp và hoang toàn đến nỗi không ai ở đó nữa.
\s5
\v 20 Ai Cập là một con bê con còn rất nhỏ, nhưng một con mòng bay đến từ phương bắc chích nó, hỡi các con gái ở Ai Cập. Nó đang đến.
\v 21 Các lính chiến ở giữa quân Ai Cập trông như bò đực được vỗ béo, nhưng chúng cũng sẽ ngoảnh mặt và bỏ chạy. Chúng sẽ không đứng với nhau, vì ngày tai họa đang đến gần, ấy là thời điểm đoán phạt.
\v 22 Ai Cập huýt sáo như rắn và bò đi chỗ khác. Họ sẽ xông lên trước như thợ khắc gỗ bằng búa.
\s5
\v 23 Họ sẽ triệt hạ các cánh rừng Đức Giê-hô-va phán vậy dù rất dày đặc.
\v 24 Con gái của Ai Cập sẽ bị khiến xấu hổ. Nàng sẽ bị phó vào tay dân từ phía bắc.”
\s5
\v 25 Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Kìa, Ta sẽ trừng phạt Am-môn ở Thê-be, Pha-ra-ôn, Ai Cập, và các thần của nó, các vua Pha-ra-ôn, và những ai tin nơi họ.
\v 26 Ta sẽ phó chúng vào tay một trong những kẻ tìm hại mạng sống chúng, trong xứ của Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn và các tôi tớ của ông.”
\s5
\v 27 “Nhưng còn ngươi, hỡi Gia-cốp, tôi tớ ta, chớ sợ hãi. Chớ mất tinh thần, hỡi Y-sơ-ra-ên, vì kìa, Ta sẽ đem ngươi về từ phương xa, dòng dõi ngươi sẽ nên thánh, thoát khỏi sự phu tù. Sau đó, Gia-cốp sẽ trở về, tìm được sự an bình, và yên ninh, sẽ không ai làm ông hoảng sợ.
\v 28 Hỡi Gia-cốp, tôi tớ Ta, chớ sợ hãi Đức Giê-hô-va phán vậy vì Ta ở cùng ngươi, Ta sẽ hoàn toàn hủy diệt các nước mà Ta đã đuổi các ngươi đến. Nhưng Ta sẽ không diệt hết các ngươi. Ta sẽ kỷ luật các ngươi cách công bằng và đoán phạt các ngươi.’””
\s5
\c 47
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi về dân Phi-li-tin. Ngài phán cùng ông trước khi Pha-ra-ôn đánh Ga-xa.
\v 2 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, những luồng nước đang nổi lên từ phương bắc. Chúng sẽ như sông chảy tràn! Chúng sẽ chảy tràn khắp xứ và mọi vật trong xứ, các thành phố và dân cư! Ai nấy sẽ kêu cầu giúp đỡ, và mọi dân cư trong xứ sẽ than khóc.
\s5
\v 3 Khi nghe tiếng giậm của vó ngựa, khi nghe tiếng gầm của xe chiến mã và tiếng ồn của bánh xe, cha sẽ không giúp con cái vì họ yếu ớt.
\v 4 Vì ngày tàn phá toàn thể dân Phi-li-tin sẽ đến, loại trừ khỏi Ty-rơ và Si-đôn những kẻ còn sống sót muốn giúp đỡ chúng. Vì Đức Giê-hô-va sẽ tàn phá dân Phi-li-tin, là những kẻ còn sót lại của đảo Cáp-tô.
\s5
\v 5 Ga-xa sẽ cạo đầu. Còn Ách-kê-lôn, những kẻ còn sót lại trong thung lũng sẽ nín lặng. Ngươi còn tự rạch da mình đến chừng nào?
\v 6 Thật khốn thay, gươm của Đức Giê-hô-va!
\v 7 Làm sao ngươi có thể yên ổn được, vì Đức Giê-hô-va đã truyền dặn ngươi. Ngài đã kêu gọi ngươi đánh Ách-kê-lôn và chống lại miền duyên hải.”
\s5
\c 48
\p
\v 1 Về Mô-áp, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: “Khốn cho Nê-bô, vì nó đã bị tàn phá. Ki-ri-a-tha-im bị chiếm và làm nhục. Pháo đài nó bị đổ nát và nhục nhã.
\v 2 Mô-áp không còn được kính trọng nữa. Kẻ thù nó ở Hẹt-bôn lập mưu hại nó. Chúng nói: Nào, chúng ta hãy hủy diệt dân đó. Người điên cũng sẽ chết gươm dao sẽ đuổi theo ngươi.
\s5
\v 3 Hãy nghe! Có tiếng hét từ Hô-rô-na-im, là nơi điêu tàn và đổ nát.
\v 4 Mô-áp đã bị diệt. Con trẻ nó lên tiếng kêu la.
\v 5 Chúng lên đồi Lu-hít khóc lóc, trên đường xuống Hô-rô-na-im, người ta nghe tiếng la hét vì sự hủy diệt.
\s5
\v 6 Hãy chạy trốn! Hãy cứu mạng ngươi và hãy như cây cối trong hoang mạc.
\v 7 Vì ngươi tin vào thói quen và của cải mình, ngươi cũng sẽ bị bắt. Kê-mốt sẽ bị bắt làm phu tù, cùng với các thầy tế lễ và lãnh đạo của nó.
\s5
\v 8 Kẻ hủy diệt sẽ đến từng thành phố; không thành nào thoát khỏi. Thung lũng sẽ tàn lụi và đồng bằng sẽ bị tàn phá, như Đức Giê-hô-va đã phán.
\v 9 Hãy chắp cánh cho Mô-áp, vì nó chắc phải bay xa. Các thành của nó sẽ trở thành hoang mạc, không ai sống ở đó.
\v 10 Đáng rủa cho kẻ nào lười biếng làm việc của Đức Giê-hô-va! Kẻ nào không dùng gươm làm đổ huyết đáng bị rủa!
\s5
\v 11 Mô-áp cảm thấy an toàn từ khi nó còn nhỏ. Nó như rượu chưa từng được đổ từ bình này qua bình kia. Nó chưa bao giờ bị bắt làm phu tù. Như vậy, nó có vị ngon; mùi thơm của nó vẫn y nguyên.
\v 12 Kìa, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta sai đến cùng nó những kẻ đổ nó ra và đổ tất cả các bình của nó và đập vỡ các vại của nó.
\s5
\v 13 Sau đó, Mô-áp sẽ hổ thẹn bởi Kê-mốt như nhà Y-sơ-ra-ên hổ thẹn bởi Bê-tên, là đối tượng chúng trông cậy.
\v 14 Làm sao ngươi có thể nói rằng: Chúng tôi là chiến sĩ, là lính chiến mạnh mẽ?
\s5
\v 15 Mô-áp sẽ bị tàn phá và các thành của nó sẽ bị tấn công. Vì những kẻ trai trẻ giỏi nhất của nó đã đi đến nơi tàn sát. Đây là lời tuyên bố của vua! Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.
\v 16 Tai họa của Mô-áp sẽ sớm xảy đến; tai ương vội tới mau.
\v 17 Tất cả các ngươi là những kẻ ở quanh Mô-áp, hãy than khóc. Và tất cả các ngươi là những kẻ biết danh tiếng nó, hãy la lên rằng: Thật khốn thay, cây trượng kiên cố, cây gậy vinh quang, đã bị gãy.
\s5
\v 18 Hãy bước xuống khỏi nơi vinh quang của ngươi và ngồi trên đất khô, hỡi con gái sống trong thành Đi-bôn. Vì kẻ hủy diệt Mô-áp sẽ tấn công ngươi, tức là kẻ hủy diệt đồn lũy ngươi.
\v 19 Hãy đứng trên đường và xem, hỡi dân sống ở A-rô-ơ. Hãy hỏi những kẻ chạy trốn và chạy thoát. Hãy hỏi: Chuyện gì xảy ra vậy?
\v 20 Mô-áp bị sỉ nhục, vì nó đã bị đánh tan tác. Hãy la hét và than khóc; hãy kêu cầu giúp đỡ. Hãy nói với dân bên Sông Ạt-nôn rằng Mô-áp đã bị tàn phá.
\s5
\v 21 Bấy giờ, sự trừng phạt đã đến với vùng cao nguyên, Hô-lôn, Gia-xa, và Mê-pha-át,
\v 22 Đi-bôn, Nê-bô, và Bết Đíp-la-tha-im,
\v 23 Ki-ri-a-tha-im, Bết Ga-mun, và Bết Mê-ôn,
\v 24 Kê-ri-ốt và Bốt-ra, và hết thảy các thành trong xứ Mô-áp thành xa nhất và thành gần nhất.
\v 25 Sừng của Mô-áp đã bị chặt đứt; cánh tay nó đã bị gãy Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 26 Hãy cho nó say, vì nó kiêu căng chống nghịch Ta, là Đức Giê-hô-va. Bấy giờ Mô-áp vỗ tay kinh tởm ngay nơi nó đã mửa, vì nó cũng trở thành trò cười.
\v 27 Chẳng phải Y-sơ-ra-ên trở thành trò cười cho ngươi sao? Có phải nó bị bắt quả tang giữa những kẻ trộm, đến nỗi ngươi lắc đầu chê nó khi ngươi nhắc đến nó?
\s5
\v 28 Hãy bỏ các thành và trại trên vách đá, hỡi dân cư Mô-áp. Hãy như chim bồ câu làm tổ trên miệng vực thẳm.
\v 29 Chúng ta đã nghe về sự kiêu căng của Mô-áp sự ngạo mạn của nó, thái độ kiêu kỳ, tính tự phụ, tính tự khoe khoang và tính tự cao tự đại trong lòng nó.
\s5
\v 30 Đức Giê-hô-va phán vậy chính Ta biết lời thách thức của nó, là lời vô dụng, như việc làm của nó.
\v 31 Vậy Ta sẽ khóc than cho Mô-áp, và Ta sẽ kêu la buồn bã cho toàn cõi Mô-áp. Ta sẽ than khóc cho dân Kiệt Hê-rết.
\v 32 Ta sẽ khóc cho ngươi nhiều hơn Ta khóc cho Gia-xe, hỡi cây nho của Síp-ma! Các nhánh ngươi vươn ra Biển Muối và vươn xa đến tận Gia-xe. Kẻ hủy diệt phá hại trái cây mùa hè và rượu ngươi.
\s5
\v 33 Sự vui mừng và liên hoan đã bị cất khỏi cây cối đầy quả và xứ Mô-áp. Ta khiến máy ép nho hết rượu. Chúng sẽ không vui mừng hớn hở giẫm lên. Tiếng hò hét sẽ không phải là tiếng hò hét vui mừng.
\s5
\v 34 Từ tiếng la hét ở Hẹt-bôn đến tận Ê-lê-a-lê, người ta nghe tiếng của chúng ở Gia-ha, từ Xoa đến Hô-rô-na-im và Ê-lát Sê-li-sia, kể từ khi nước ở Nim-rim khô cạn.
\v 35 Ta sẽ diệt khỏi Mô-áp kẻ nào dâng lễ vật tại các điện thờ và kẻ nào xông hương cho các thần của nó Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 36 Lòng Ta than khóc cho Mô-áp như tiếng sáo. Lòng Ta than khóc như tiếng sáo cho dân Kiệt Hê-rết. Sự giàu có mà chúng tích lũy đã biến mất.
\v 37 Mỗi người đều trọc đầu và cạo râu. Tay nào cũng bị rạch, và chúng quấn vải gai quanh lưng.
\s5
\v 38 Khắp nơi đều để tang, trên mỗi mái nhà và quảng trường ở Mô-áp. Vì Ta đã tiêu diệt Mô-áp như bình mà chẳng ai muốn dùng Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 39 Nó đã bị tiêu tan rồi! Chúng la hét than khóc! Mô-áp quay lưng nhục nhã! Mô-áp sẽ trở thành đối tượng bị nhạo báng và là nỗi khiếp sợ cho những dân ở quanh nó.”
\s5
\v 40 Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, kẻ thù sẽ bay đến như chim đại bàng, giang cánh trên Mô-áp.
\v 41 Kê-ri-ốt đã bị chiếm, đồn lũy nó bị bao vây. Vì trong ngày đó, lòng của chiến sĩ Mô-áp sẽ như lòng của đàn bà chuyển dạ sinh con.
\s5
\v 42 Vậy, dân Mô-áp sẽ bị tiêu diệt, vì chúng ngạo mạn trước mặt Ta, là Đức Giê-hô-va.
\v 43 Sự khiếp sợ và hố sâu, cạm bẫy đang đến trên ngươi, hỡi dân cư Mô-áp Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 44 Ai chạy trốn vì khiếp sợ sẽ rơi xuống hố, và ai trèo ra khỏi hố sẽ bị dính bẫy, vì Ta sẽ giáng điều này trên chúng vào năm Ta báo thù chúng Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 45 Những kẻ chạy trốn kiệt sức sẽ đứng dưới bóng Hẹt-bôn, vì lửa sẽ bùng cháy từ Hẹt-bôn, lửa đến từ giữa Si-hôn. Lửa sẽ thiêu hủy trán của Mô-áp và sọ của đám dân khoác lác.
\s5
\v 46 Thật khốn cho ngươi, hỡi Mô-áp! Dân Kê-mốt bị hủy diệt, con trai các ngươi bị bắt làm phu tù và con gái các ngươi bị bắt lưu đày.
\v 47 Nhưng Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Mô-áp trong những ngày sau rốt Đức Giê-hô-va phán vậy.” Sự đoán xét dân Mô-áp kết thúc tại đây.
\s5
\c 49
\p
\v 1 Về dân Am-môn, Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Y-sơ-ra-ên không có con ư? Trong Y-sơ-ra-ên không có ai để thừa hưởng sao? Tại sao Mô-lết chiếm Gát, và dân trong thành nó?
\v 2 Vậy hãy xem, những ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta ra hiệu lệnh chiến trận chống lại Ráp-ba giữa dân Am-môn, đến nỗi nó trở thành đống hiu quạnh và con gái nó sẽ bị lửa đốt cháy. Vì Y-sơ-ra-ên sẽ chiếm những kẻ đã chiếm nó,” Đức Giê-hô-va phán.
\s5
\v 3 “Hãy kêu gào ai oán, hỡi Hẹt-bôn, vì A-hi sẽ bị tàn phá! Hãy la lên, hỡi con gái Ráp-ba! Hãy mặc áo gai. Hãy than khóc và chạy lăng xăng vô ích, vì Mô-lết sẽ bị bắt làm phu tù, cùng với các thầy tế lễ và lãnh đạo của nó.
\v 4 Sao ngươi tự hào về sức mạnh mình? Sức mạnh ngươi sẽ tan biến, hỡi con gái vô tín, là những kẻ cậy vào của cải mình. Các ngươi nói: Ai sẽ chống nghịch ta?
\s5
\v 5 Kìa, ta sẽ giáng sự khiếp sợ trên ngươi Đức Giê-hô-va, Chúa vạn quân phán vậy sự khiếp sợ này sẽ đến từ các dân xung quanh ngươi. Mỗi người trong các ngươi sẽ bị đuổi chạy tán loạn trước mặt chúng. Sẽ không ai tập hợp những kẻ chạy trốn.
\v 6 Nhưng sau việc này, Ta sẽ phục hồi vận mệnh của dân Am-môn Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 7 Về Ê-đôm, Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: “Người ta không còn tìm thấy sự khôn ngoan nào ở Thê-man nữa sao? Những kẻ hiểu biết không còn lời khuyên tốt lành nào sao? Sự khôn ngoan của chúng đã bị sai lệch sao?
\v 8 Hãy chạy trốn! Hãy quay lại! Hãy ở trong các hố dưới đất, hỡi dân cư Đê-đan. Vì Ta sẽ giáng tai họa của Ê-sau trên nó khi Ta phạt nó.
\s5
\v 9 Nếu những kẻ thu hoạch nho đến với ngươi, chúng sẽ không chừa lại một ít sao? Nếu kẻ trộm đến vào ban đêm, chúng sẽ không trộm theo ý chúng muốn sao?
\v 10 Nhưng Ta đã lột trần Ê-sau. Ta để lộ những chỗ kín của nó. Nó sẽ không thể ẩn trốn. Con cái nó, anh em nó, và láng giềng nó bị hủy diệt, nó bị diệt vong.
\v 11 Hãy để cô nhi của ngươi lại. Ta sẽ chăm sóc cuộc sống chúng, những góa phụ của ngươi có thể tin cậy Ta.”
\s5
\v 12 Vì Đức Giê-hô-va phán như vầy: “Kìa, những kẻ không đáng tội phải uống chén ấy. Chính ngươi nghĩ rằng ngươi sẽ thoát khỏi sự trừng phạt sao? Không đâu, vì ngươi chắc sẽ uống.
\v 13 Chính Ta đã thề - Đức Giê-hô-va phán vậy rằng Bốt-ra sẽ trở thành một sự khiếp sợ, nỗi ô nhục, nơi bị tàn phá, và đối tượng bị rủa sả. Tất cả các thành của nó sẽ trở thành nơi bị tàn phá mãi mãi.
\s5
\v 14 Ta có nghe tin từ Đức Giê-hô-va, và một sứ giả được sai đến các dân: Hãy tập hợp lại và đánh nó. Hãy sẵn sàng ra trận.
\v 15 “Vì kìa, Ta khiến ngươi trở nên nhỏ bé giữa các nước, bị người ta khinh thường.
\s5
\v 16 Về sự sợ hãi của ngươi, sự kiêu ngạo trong lòng ngươi đã lừa dối ngươi, hỡi dân cư sống ở nơi vách đá, các ngươi chiếm những ngọn đồi cao nhất để làm tổ trên cao như chim đại bàng. Ta sẽ đem ngươi xuống khỏi đó Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 17 Ê-đôm sẽ trở thành nỗi khiếp sợ cho những ai đi ngang qua. Ai nấy sẽ run rẩy và huýt sáo chê cười vì cớ mọi tai họa của nó.
\v 18 Như sự đổ nát của Sô-đôm và Gô-mô-ra cùng các thành lân cận nó,” Đức Giê-hô-va phán: “sẽ không ai sống ở đó; không ai cư ngụ tại đó.
\s5
\v 19 Kìa, nó sẽ đi lên như sư tử ra từ rừng ở Giô-đanh đến những đồng cỏ xanh tươi. Ta sẽ mau chóng khiến Ê-đôm chạy khỏi đó, và Ta sẽ đặt người được chọn coi sóc nó. Ai giống như Ta, và ai kêu gọi Ta? Người chăn chiên nào có thể chống lại Ta?”
\s5
\v 20 “Vậy hãy nghe những kế hoạch mà Đức Giê-hô-va đã quyết định giáng trên Ê-đôm, là những kế hoạch Ngài đã lập chống lại dân cư Thê-man. Chúng chắc chắn sẽ bị lôi đi, ngay cả bầy chiên nhỏ nhất. Đồng cỏ của chúng sẽ biến thành những nơi điêu tàn.
\s5
\v 21 Khi nghe tiếng sụp đổ của chúng, đất rúng động. Người ta nghe tiếng hét đau buồn ở biển Sậy.
\v 22 Kìa, sẽ có người tấn công như chim đại bàng, sà xuống và sải cánh trên Bốt-ra. Trong ngày hôm đó, lòng của chiến sĩ Ê-đôm sẽ như lòng của đàn bà sinh con.”
\s5
\v 23 Về Đa-mách: “Ha-mát và Ạt-bát sẽ hổ thẹn, vì chúng có nghe tin tai họa. Chúng ta chảy! Chúng run rẩy như biển không thể yên lặng.
\v 24 Đa-mách trở nên yếu ớt. Nó xây lưng chạy trốn; sự khiếp sợ bao vây nó. Nỗi đau buồn và đau đớn bao vây nó, như cơn đau của đàn bà sinh con.
\v 25 Dân nó nói rằng: Làm sao mà thành danh tiếng, là thành mà tôi vui mừng, lại không bị bỏ rơi?
\s5
\v 26 Vậy, những người trai trẻ của nó sẽ ngã xuống trong quảng trường, toàn thể lính chiến của nó sẽ chết vào hôm đó Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy.”
\v 27 “Vì Ta sẽ đốt lửa trên tường thành Đa-mách, lửa ấy sẽ thiêu đốt đồn lũy Bên Ha-đát.”
\s5
\v 28 Về Kê-đa và các nước của Hát-xo, Đức Giê-hô-va phán với Nê-bu-cát-nết-sa như vầy (bấy giờ Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn sẽ tấn công những nơi này): “Hãy trỗi dậy và đánh Kê-đa và hủy diệt dân phương đông.
\v 29 Quân của nó sẽ chiếm lều chúng và bầy súc vật của chúng, các màn trại, và những vật dụng khác. Chúng sẽ chiếm lạc đà từ dân Kê-đa và la hét: Khủng bố tứ phía!
\s5
\v 30 Hãy chạy trốn! Hãy lánh đi thật xa! Hãy ở trong hố sâu, hỡi dân cư Hát-so Đức Giê-hô-va phán vậy vì Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã lập kế hoạch chống lại ngươi. Hãy chạy trốn! Đừng trở lại!
\v 31 Hãy trỗi dậy! Hãy đánh nước phương đông, là dân sống an lành,” Đức Giê-hô-va phán. “Chúng không có cổng hoặc then cửa, dân của nó sống một mình.
\s5
\v 32 Lạc đà của chúng sẽ trở thành của cướp, tài sản dư dật của chúng sẽ trở thành chiến lợi phẩm. Ta sẽ phân tán những kẻ cắt tóc theo gió đến mọi góc đất, và Ta sẽ giáng họa trên chúng tứ phía Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 33 Hát-so sẽ trở thành hang ổ chó rừng, một nơi hoang vu mãi mãi. Sẽ không ai sống ở đó; không người nào cư ngụ tại đó.”
\s5
\v 34 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán cùng tiên tri Giê-rê-mi về Ê-lam. Ngài phán cùng ông vào đầu đời trị vì của Sê-đê-kia, vua Giu-đa,
\v 35 “Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Kìa, Ta sẽ bẻ những kẻ bắn cung của Ê-lam, là sức mạnh chủ yếu của chúng.
\v 36 Ta sẽ đem gió từ bốn phương trời, và Ta sẽ rải dân Ê-lam theo mọi hướng gió. Chẳng có nước nào mà những kẻ tản lạc từ Ê-lam lại không đến.
\s5
\v 37 Vậy, Ta sẽ đập vỡ Ê-lam trước mặt kẻ thù chúng và trước mặt những kẻ tìm mạng sống chúng. Ta sẽ giáng tai họa trên chúng, là cơn giận và cơn thạnh nộ của Ta Đức Giê-hô-va phán vậy và Ta sẽ sai gươm đuổi theo chúng cho đến chừng nào Ta tiêu diệt hết chúng.
\v 38 Sau đó, Ta sẽ đặt ngai Ta tại Ê-lam và hủy diệt các vua và những lãnh đạo của nó Đức Giê-hô-va phán
\v 39 trong những ngày sau rốt, Ta sẽ phục hồi vận mệnh của Ê-lam Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\c 50
\p
\v 1 Đây là lời Đức Giê-hô-va phán về Ba-by-lôn, xứ của người Canh-đê, bởi tay của tiên tri Giê-rê-mi,
\v 2 “Hãy rao cho các nước và bảo chúng lắng nghe. Hãy giơ hiệu lệnh và bảo chúng lắng nghe. Đừng giấu. Hãy nói: Ba-by-lôn bị bắt. Bên bị hổ thẹn. Mê-rô-đác mất can đảm. Các thần tượng nó mặc lấy sự xấu hổ; các hình tượng nó bị đánh đổ.
\s5
\v 3 Một nước từ phương bắc sẽ dấy lên nghịch lại nó, đặng khiến xứ nó thành nơi bị tàn phá. Sẽ không một ai hoặc thú vật nào sống trong xứ đó. Chúng sẽ bỏ chạy.
\v 4 Trong những ngày đó và trong lúc đó Đức Giê-hô-va phán như vầy dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa sẽ hiệp lại với nhau đặng than khóc và tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng.
\v 5 Chúng sẽ hỏi đường đến Si-ôn và hướng về đó. Chúng sẽ đi và liên kết với Đức Giê-hô-va trong giao ước đời đời là giao ước sẽ không bị phá vỡ.
\s5
\v 6 Dân Ta như bầy chiên đi lạc. Những kẻ chăn chiên của chúng đã dẫn chúng lạc lối trên các ngọn núi; họ dẫn chúng đi lòng vòng từ đồi này qua đồi kia. Chúng đi, chúng quên nơi chúng đã sống.
\v 7 Ai đến gặp chúng cũng đều cắn nuốt chúng. Kẻ thù của chúng nói rằng: Chúng ta không có tội, vì chúng đã phạm tội nghịch cùng Đức Giê-hô-va, nhà chân thật của chúng Đức Giê-hô-va, niềm hy vọng của tổ phụ chúng.
\s5
\v 8 Hãy ra khỏi giữa Ba-by-lôn; hãy ra khỏi xứ Canh-đê; hãy như dê đực rời đi trước khi bầy còn lại rời khỏi.
\v 9 Vì kìa, Ta sẽ dấy lên một nhóm dân lớn từ phương bắc nghịch lại Ba-by-lôn. Chúng sẽ dàn trận chống lại nó. Ba-by-lôn sẽ bị bắt. Mũi tên của chúng như chiến sĩ thiện xạ chẳng trở về trắng tay.
\v 10 Canh-đê sẽ trở thành của cướp. Tất cả những ai cướp nó sẽ thỏa dạ - Đức Giê-hô-va phán vậy.
\s5
\v 11 Các ngươi vui mừng, các ngươi mừng vì cướp cơ nghiệp Ta; các ngươi nhảy tung tăng như bò con giậm chân trong đồng cỏ; ngươi hí như ngựa mạnh sức.
\v 12 Vậy, mẹ ngươi sẽ xấu hổ lắm; người sinh ra ngươi sẽ bối rối. Kìa, nó sẽ là nước chót nhất trong các nước, là hoang mạc, đất khô cằn, và sa mạc.
\v 13 Vì cớ cơn giận của Đức Giê-hô-va, Ba-by-lôn sẽ không có người ở, nó sẽ là một nơi bị tàn phá hoàn toàn. Ai đi ngang qua cũng sẽ rùng mình vì cớ Ba-by-ôn và sẽ huýt gió chê cười vì những vết thương của nó.
\s5
\v 14 Hãy dàn trận bao vây Ba-by-lôn. Hãy giương cung bắn nó. Đừng giữ lại bất kỳ mũi tên nào, vì nó đã phạm tội nghịch lại Đức Giê-hô-va.
\v 15 Hãy cất tiếng reo hò chiến thắng nghịch cùng nó tứ phía. Nó đã từ bỏ quyền lực; các tháp nó sụp đổ. Các tường nó bị đánh đổ, vì đây là sự báo thù của Đức Giê-hô-va. Hãy báo thù nó! Hãy báo trả nó như nó đã làm với các dân khác!
\s5
\v 16 Hãy hủy diệt người gieo và người dùng cái liềm trong mùa gặt ở Ba-by-lôn. Ai nấy sẽ trở về với dân tộc mình từ lưỡi gươm của kẻ đàn áp; họ sẽ bỏ chạy về xứ mình.
\s5
\v 17 Y-sơ-ra-ên như chiên bị tản lạc và bị sư tử rượt đuổi. Thứ nhất, vua A-sy-ri cắn xé nó; sau đó là Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn bẻ gãy xương nó.
\v 18 Vậy, Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Kìa, Ta sẽ phạt vua Ba-by-lôn và xứ của nó, như Ta đã phạt vua A-sy-ri.
\s5
\v 19 Ta sẽ đem Y-sơ-ra-ên về xứ của nó; nó sẽ gặm cỏ trên Cạt-mên và Ba-san. Nó sẽ thỏa lòng nơi vùng cao nguyên Ép-ra-im và Ga-la-át.
\v 20 Trong những ngày đó và khi đó, Đức Giê-hô-va phán, người ta sẽ tìm tội ác của Y-sơ-ra-ên nhưng không thấy. Ta sẽ tìm tội lỗi của Giu-đa nhưng chẳng thấy, vì Ta sẽ tha thứ những kẻ còn sống sót mà Ta để lại.”
\s5
\v 21 “Hãy trỗi dậy đánh xứ Mê-ra-tha-im và dân sống ở Phê-cốt. Hãy lấy gươm tiêu diệt chúng và hủy diệt chúng Đức Giê-hô-va phán vậy hãy làm mọi điều Ta truyền cho ngươi.
\v 22 Trong xứ có tiếng chiến trận và tiếng của sự hủy diệt lớn.
\s5
\v 23 Cái búa của cả xứ đã bị gãy và tan tành. Ba-by-lôn đã trở thành nỗi khiếp sợ giữa các nước.
\v 24 Ta đã gài bẫy ngươi. Ngươi đã bị bắt, hỡi Ba-by-lôn, và ngươi không biết điều đó! Ngươi bị phát hiện và bị bao vây, vì ngươi thách thức Ta, là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 25 Đức Giê-hô-va đã mở kho vũ khí và đem vũ khí ra để thực thi cơn giận của Ngài. Có việc cho Chúa Giê-hô-va vạn quân làm trong xứ Canh-đê.
\v 26 Hãy đánh nó từ đàng xa. Hãy mở toang vựa lúa nó và chất nó lên như những đống lúa mì. Hãy hủy diệt nó. Chớ để sót một ai.
\s5
\v 27 Hãy giết bò đực nó. Hãy đưa nó đến nơi giết chóc. Khốn thay cho chúng, vì ngày của chúng đã đến là thời kỳ sửa phạt.
\v 28 Người ta nghe tiếng của kẻ chạy trốn và của những kẻ còn sống sót từ đất Ba-by-lôn. Những kẻ này sẽ rao báo sự báo thù của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của chúng ta vì Si-ôn, và sự báo thù cho đền thờ của Ngài.”
\s5
\v 29 “Hãy tập họp các cung thủ đánh Ba-by-lôn là những kẻ giương cung. Hãy đóng trại nghịch lại nó, chớ để ai trốn thoát. Hãy báo trả nó tùy theo việc nó làm. Hãy báo trả nó tùy theo chừng mực nó đã làm. Vì nó làm ô uế Đức Giê-hô-va, Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\v 30 Vậy, những trai trẻ sẽ ngã xuống ở quảng trường thành phồ, những lính chiến của nó sẽ bị tiêu diệt trong ngày đó Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 31 “Kìa, Ta nghịch lại ngươi, kẻ kiêu ngạo Đức Giê-hô-va vạn quân phán vậy vì ngày của ngươi đã đến, hỡi kẻ kiêu ngạo, ấy là khi Ta trừng phạt ngươi.
\v 32 Vậy, những kẻ kiêu ngạo sẽ vấp chân và sa ngã. Không ai đỡ chúng dậy. Ta sẽ nhen lửa trong các thành của nó; lửa sẽ thiêu đốt mọi thứ xung quanh nó.
\s5
\v 33 Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Dân Y-sơ-ra-ên bị đàn áp, cùng với dân Giu-đa. Tất cả những kẻ bắt chúng vẫn giam giữ chúng; họ không cho chúng đi.
\v 34 Đấng giải cứu chúng là mạnh mẽ. Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài. Thật Ngài sẽ bênh vực duyên cớ chúng, để đem sự nghỉ ngơi đến cho xứ, và giáng sự xung đột lên những kẻ cư ngụ tại Ba-by-lôn.
\s5
\v 35 Gươm dao nghịch lại dân Canh-đê Đức Giê-hô-va phán vậy và nghịch lại dân cư Ba-by-lôn, các lãnh đạo và những người khôn ngoan của chúng.
\v 36 Gươm sẽ nghịch lại những kẻ bói toán, để chúng cho thấy chúng là những kẻ ngốc. Gươm sẽ nghịch lại các chiến sĩ của nó, để chúng đầy hoảng sợ.
\v 37 Gươm sẽ nghịch lại ngựa của chúng, xe chiến mã của chúng và tất cả những kẻ sống ở Ba-by-lôn, để chúng trở nên như đàn bà. Gươm sẽ nghịch lại các kho của chúng, và những kho ấy sẽ bị cướp.
\s5
\v 38 Gươm sẽ nghịch lại nước của chúng, sẽ không còn nước nữa. Vì nó là xứ thờ thần tượng hư không, chúng bắt chước những kẻ điên dựng lên hình tượng kinh khiếp.
\v 39 Thú ngoài hoang mạc và chó rừng sẽ ở đó, đà điểu con sẽ cư ngụ ở đó. Nó sẽ hoang vu không có người ở mãi mãi. Từ đời này qua đời kia, sẽ không ai ở trong đó.
\v 40 Như Đức Chúa Trời đã đánh đổ Sô-đôm và Gô-mô-rơ cùng các thành lân cận chúng Đức Giê-hô-va phán vậy sẽ không ai ở đó; sẽ không ai cư ngụ tại đó.”
\s5
\v 41 “Kìa, một dân đến từ phương bắc, vì một nước lớn và nhiều vua đã nổi lên từ tận cùng đất.
\v 42 Chúng sẽ cầm cung và giáo. Chúng độc ác và không có lòng thương xót. Tiếng của chúng như tiếng biển cả gầm rống, và chúng cưỡi ngựa theo đội hình lính chiến, nghịch lại ngươi, hỡi con gái Ba-by-lôn.
\v 43 Vua Ba-by-lôn có nghe báo cáo của chúng và tay chân vua ấy bủn rủn. Nỗi thống khổ bao vây vua như người đàn bà đau đẻ.
\s5
\v 44 Kìa! Vua đi lên như sư tử đến từ các miền cao ở Giô-đanh đến đồng cỏ tươi tốt quanh năm, vì Ta sẽ mau chóng khiến chúng bỏ chạy khỏi đó, Ta sẽ đưa người được chọn vào cai trị nó. Ai như ta, và ai kêu gọi được Ta? Người chăn chiên nào có thể chống lại Ta?
\s5
\v 45 Vậy, hãy nghe các kế hoạch mà Đức Giê-hô-va đã định nghịch lại Ba-by-lôn, tức những kế hoạch mà Ngài đã lập chống lại xứ Canh-đê. Chắc chắn chúng sẽ bị lôi đi, kể cả bầy gia súc nhỏ nhất. Đồng cỏ của chúng sẽ thành nơi hoang tàn.
\v 46 Khi nghe tiếng của Ba-by-lôn bị chinh phục, đất rúng động, và giữa các dân, người ta nghe tiếng đau buồn của chúng.”
\s5
\c 51
\p
\v 1 “Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ dấy lên một ngọn gió hủy diệt Ba-by-lôn và những kẻ ở Lép Ca-mai.
\v 2 Ta sẽ sai dân ngoại đến Ba-by-lôn. Chúng sẽ đuổi chạy tán loạn và tàn phá xứ nó, vì chúng sẽ đến nghịch lại nó từ mọi nơi trong ngày tai họa.
\s5
\v 3 Chớ để cung thủ giương cung; chớ cho chúng mặc áo giáp. Chớ tha mạng những gã trai trẻ của chúng; hãy tiêu diệt cả đội quân đó.
\v 4 Vì người bị thương sẽ ngã xuống trong xứ Canh-đê; những kẻ bị giết sẽ ngã xuống trên đường phố nó.
\s5
\v 5 Vì Y-sơ-ra-ên và Giu-đa không bị Đức Chúa Trời từ bỏ, là Đức Giê-hô-va vạn quân, dù xứ của chúng đầy dẫy những tội lỗi nghịch lại Đấng Thánh của Y-sơ-ra-ên.
\v 6 Hãy chạy ra khỏi giữa dân Ba-by-lôn; ai nấy hãy giữ mạng mình. Chớ chết trong tội lỗi của nó. Vì đây là lúc Đức Giê-hô-va báo thù. Ngài sẽ báo trả nó tương xứng việc nó làm.
\s5
\v 7 Ba-by-lôn vốn là cái chén vàng trong tay Đức Giê-hô-va khiến cả xứ say sưa; các nước say rượu nó và trở nên điên loạn.
\v 8 Ba-by-lôn sẽ ngã bất ngờ và bị tiêu diệt. Hãy than khóc vì nó! Hãy cho nó thuốc chữa lành cơn đau; có thể nó sẽ được lành.
\s5
\v 9 Chúng ta muốn chữa lành Ba-by-lôn, nhưng nó không được lành. Chúng ta hãy rời bỏ nó và trở về xứ của chúng ta. Vì tội lỗi nó cao đến tận trời; chất đống đến tận mây.
\v 10 Đức Giê-hô-va đã tuyên bố chúng ta vô tội. Nào, chúng ta hãy rao trong Si-ôn những công việc của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta.
\s5
\v 11 Hãy mài nhọn mũi tên và cầm khiên. Đức Giê-hô-va sẽ dấy lòng của vua Mê-đi nhằm hủy diệt Ba-by-lôn. Đây là sự báo thù của Đức Giê-hô-va, sự báo thù cho sự hủy diệt đền thờ của Ngài.
\v 12 Hãy giương cờ hiệu trên các tường thành Ba-by-lôn; công bố tên lính bảo vệ. Hãy đặt lính canh; cử lính phục kích bắt ai chạy ra khỏi thành phố, vì Đức Giê-hô-va sẽ thực thi việc Ngài đã định. Ngài sẽ làm điều Ngài phán về dân cư Ba-by-lôn.
\s5
\v 13 Hỡi các ngươi là dân sống bên các dòng suối, hỡi các ngươi là dân có nhiều gia tài, sự cuối cùng của các ngươi đã đến. Sợi dây cuộc đời các ngươi giờ đây bị cắt ngắn.
\v 14 Đức Giê-hô-va vạn quân đã thề bởi danh Ngài: Ta sẽ khiến ngươi gặp nhiều kẻ thù, như tai vạ châu chấu; chúng sẽ reo hò chiến trận nghịch lại ngươi.
\s5
\v 15 Ngài đã dựng nên thế gian bởi quyền năng Ngài; Ngài sắp đặt thế giới bởi sự khôn ngoan Ngài. Bởi sự hiểu biết của Ngài, Ngài giương các từng trời ra.
\v 16 Khi Ngài nổi sấm, có tiếng nổ ầm ầm của nước trên các từng trời, vì Ngài khiến sương bốc lên từ khắp mọi nơi trên đất. Ngài làm chớp theo mưa và phân tán gió ra từ các kho của Ngài.
\s5
\v 17 Ai nấy đều trở nên như loài thú thiếu hiểu biết; thợ kim loại hổ thẹn vì các thần tượng của họ. Những hình tượng được đúc đều là giả dối; chúng không có sự sống.
\v 18 Chúng vô dụng, đó là công việc của những kẻ nhạo báng; chúng sẽ tàn lụi trong kỳ sửa phạt.
\v 19 Nhưng Đức Chúa Trời, phần cơ nghiệp của Gia-cốp, thì không giống vậy, vì Ngài là Đấng dựng nên muôn vật. Y-sơ-ra-ên là chi phái trong cơ nghiệp Ngài; Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.
\s5
\v 20 Ngươi là búa chiến trận của tôi, vũ khí ra trận. Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ các dân và hủy diệt các vương quốc.
\v 21 Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ ngựa và kỵ sĩ của chúng; Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ các xe chiến mã và người lái chúng.
\s5
\v 22 Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ từng người nam và người nữ; Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ người già và người trẻ. Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ những gã thanh niên trẻ và trinh nữ.
\v 23 Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ những người chăn chiên và bầy chiên họ; Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ thợ cày và nhóm của họ. Ta sẽ dùng ngươi đập vỡ các thống đốc và quan chức.
\s5
\v 24 Trước mặt các ngươi, Ta sẽ báo trả Ba-by-lôn và hết thảy dân Canh-đê về mọi việc ác chúng làm ở Si-ôn Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 25 “Kìa, Ta nghịch lại ngươi, hỡi núi, ngươi là kẻ hủy diệt dân khác Đức Giê-hô-va phán vậy ngươi hủy diệt cả đất. Ta sẽ giơ tay ra đánh ngươi và lăn ngươi xuống từ các vách đá. Ta sẽ biến ngươi thành ngọn núi bị thiêu rụi hoàn toàn.
\v 26 Chúng sẽ không lấy khỏi ngươi một viên đá nào để xây góc nhà hoặc nền nhà; vì ngươi sẽ trở thành một nơi hoang tàn đời đời Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 27 “Hãy giơ cờ trên khắp đất. Hãy thổi kèn trên khắp các nước. Hãy dùng các nước để tấn công nó. Hãy rao báo về nó cho các vương quốc A-ra-rát, Min-ni, và Ách-kê-na; hãy cử một sĩ quan đánh nó; hãy sai ngựa đi lên như bầy châu chấu.
\v 28 Hãy chuẩn bị các nước để tấn công nó: tức các vua Mê-đi và quan thống đốc của họ, các quan chức và tất cả những xứ dưới quyền cai trị của họ.
\s5
\v 29 Đất sẽ rúng động và thống khổ, vì các kế hoạch của Đức Giê-hô-va sẽ tiếp tục thực hiện đối nghịch Ba-by-lôn, đặng khiến xứ Ba-by-lôn thành một nơi hoang tàn không người ở.
\s5
\v 30 Binh lính Ba-by-lôn ngưng chiến đấu; chúng ở trong các thành trì. Chúng kiệt sức; chúng trở nên đàn bà nhà của nó bị thiêu đốt, các then cổng bị gãy.
\v 31 Sứ giả này chạy đi báo cho sứ giả khác, người này chạy đi báo cho người kia đặng báo cho vua Ba-by-lôn biết rằng thành của vua ấy đã bị thất thủ tứ phía.
\v 32 Những chỗ cạn trên sông đều bị chiếm; quân thù phóng hỏa các đầm sậy, và lính chiến của Ba-by-lôn bối rối.”
\s5
\v 33 “Vì Đức Giê-hô-va vạn quân, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: Con gái Ba-by-lôn giống như sân đạp lúa. Đã đến lúc đạp nó. Chẳng bao lâu nữa mùa gặt sẽ đến với nó.
\s5
\v 34 Giê-ru-sa-lem nói: Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn đã cắn xé tôi. Vua ấy khiến tôi khô cạn và làm cho tôi thành chiếc bình trống. Hắn nuốt tôi như một con rồng. Hắn làm đầy bụng hắn bằng vật thực ngon của tôi. Hắn đuổi tôi đi.
\v 35 Dân Si-ôn sẽ nói: Nguyện sự bạo lực đã làm trên tôi và gia đình tôi đổ lại trên Ba-by-lôn. Giê-ru-sa-lem sẽ nói: Nguyện tội đổ huyết tôi sẽ giáng lại trên dân Canh-đê.’”
\s5
\v 36 “Vậy, Đức Giê-hô-va phán như vầy: Kìa, Ta sẽ bênh vực duyên cớ ngươi và báo thù cho ngươi. Ta sẽ làm khô cạn sông nước của Ba-by-lôn và khiến các dòng suối của nó khô cằn.
\v 37 Ba-by-lôn sẽ trở nên như những đống gạch vụn, sào huyệt của chó rừng, một nỗi khiếp sợ, đối tượng bị huýt sáo chê cười, là nơi không người ở.
\s5
\v 38 Dân Ba-by-lôn sẽ gầm rống như sư tử tơ. Chúng sẽ gầm gừ như sư tử con.
\v 39 Khi chúng hung hăng háu ăn, Ta sẽ dọn bữa cho chúng; Ta sẽ khiến chúng say sưa và trở nên vui vẻ, chúng sẽ ngủ thật sâu và chẳng thức dậy Đức Giê-hô-va phán vậy
\v 40 Ta sẽ đem chúng đến lò sát sinh như chiên con, như chiên đực và dê đực.”
\s5
\v 41 “Ôi Ba-by-lôn đã bị chiếm! Sự ngợi khen của cả đất đã bị chiếm. Ba-by-lôn đã trở thành một nơi hoang tàn giữa các nước.
\v 42 Biển dâng ngập Ba-by-lôn! Nó bị bao phủ bởi sóng cuồn cuộn.
\s5
\v 43 Các thành nó trở thành nơi hoang tàn, xứ khô cằn và hoang mạc, là xứ không người ở, và không ai đi ngang qua.
\v 44 Vậy, Ta sẽ phạt Bên ở Ba-by-lôn; Ta sẽ móc vật nó đã nuốt khỏi miệng nó, các nước sẽ không còn đến nộp triều cống cho nó. Các tường thành Ba-by-lôn sẽ sụp đổ.”
\s5
\v 45 “Hỡi dân Ta, hãy ra khỏi giữa nó. Ai nấy hãy giữ mạng mình khỏi cơn thạnh nộ giận dữ của Ta.
\v 46 Lòng các ngươi chớ lo sợ hoặc sợ tin tức được nghe trong xứ, vì tin ấy sẽ đến trong một năm. Sau đó lại sẽ có tin khác, và trong xứ sẽ có bạo lực. Người cai trị sẽ nghịch lại người cai trị.
\s5
\v 47 Vậy, kìa, các ngày gần đến là khi Ta trừng phạt các hình tượng chạm của Ba-by-lôn. Khắp xứ nó sẽ xấu hổ, những người bị tàn sát của nó sẽ ngã giữa nó.
\v 48 Các từng trời và đất, và mọi vật ở trong chúng sẽ vui mừng về Ba-by-lôn. Những kẻ hủy diệt nó sẽ đến từ phương bắc Đức Giê-hô-va phán vậy.
\v 49 “Vì Ba-by-lôn đã khiến những kẻ bị giết của Y-sơ-ra-ên ngã xuống, vậy những kẻ bị giết của xứ nó sẽ ngã xuống ở Ba-by-lôn.”
\s5
\v 50 “Hỡi những kẻ thoát khỏi gươm, hãy đi đi! Đừng ở lại. Hãy nhớ đến Đức Giê-hô-va từ phương xa; hãy nhớ Giê-ru-sa-lem.
\v 51 Chúng tôi xấu hổ, vì chúng tôi đã nghe những lời sỉ nhục; lời quở trách phủ lên mặt chúng tôi, vì dân ngoại đã vào nơi thánh của nhà Đức Giê-hô-va.”
\s5
\v 52 “Vậy, kìa, các ngày gần đến Đức Giê-hô-va phán vậy - ấy là khi Ta trừng phạt các hình tượng chạm của nó, và những kẻ bị thương sẽ kêu rên trong khắp xứ nó.
\v 53 Vì thậm chí nếu Ba-by-lôn lên đến tận trời hoặc củng cố các pháo đài cao nhất của nó, kẻ hủy diệt từ Ta sẽ đến Đức Giê-hô-va phán vậy.”
\s5
\v 54 Tiếng kêu than sẽ ra từ Ba-by-lôn, tiếng của sự sụp đổ lớn từ xứ Canh-đê.
\v 55 Vì Đức Giê-hô-va sẽ hủy diệt Ba-by-lôn. Ngài sẽ làm im tiếng la hét của nó. Kẻ thù của nó sẽ gầm rống như sóng biển; tiếng huyên náo của chúng sẽ trở nên lớn.
\v 56 Vì những kẻ hủy diệt đã đến nghịch lại nó nghịch lại Ba-by-lôn! và các chiến sĩ của nó đã bị bắt. Cung của chúng bị gãy, vì Đức Giê-hô-va là Đức Chúa Trời báo thù; Ngài chắc sẽ thực thi sự báo trả.
\s5
\v 57 “Ta sẽ khiến các vương tử của nó, các nhà hiền triết, các quan chức, và lính chiến của nó say sưa, chúng sẽ ngủ thật sâu và chẳng thức dậy Vua phán vậy: Đức Giê-hô-va vạn quân là danh Ngài.”
\v 58 “Đức Giê-hô-va vạn quân phán như vầy: Tường thành kiên cố của Ba-by-lôn sẽ bị đánh đổ hoàn toàn, các cổng cao của nó sẽ bị phóng hỏa. Vậy, các dân đến giúp nó sẽ nhọc công vô ích; mọi thứ mà các nước cố làm cho nó sẽ bị thiêu hủy.”
\s5
\v 59 Đây là lời mà tiên tri Giê-rê-mi ra lệnh cho Sê-ra-gia con Nê-ri-gia, cháu Mách-sê-gia, khi ông đi với Sê-đê-kia vua Giu-đa đến Ba-by-lôn vào năm thứ tư trong đời cai trị của vua ấy. Bấy giờ Sê-ra-gia là quan đại thần.
\v 60 Giê-rê-mi đã chép vào cuộn sách về tất cả tai họa sẽ giáng xuống Ba-by-lôn là những lời được chép về Ba-by-lôn.
\s5
\v 61 Giê-rê-mi bảo Sê-ra-gia: “Khi ông đến Ba-by-lôn, hãy đọc hết những lời này.
\v 62 Sau đó hãy nói: Lạy Đức Giê-hô-va, chính Ngài! Chính Ngài đã công bố rằng Ngài sẽ phá hủy nơi này. Nơi ấy sẽ không có người ở, không ai ở, và cũng không có loài thú nào ở. Nó sẽ thành một nơi hoang vu đời đời.
\s5
\v 63 Sau khi ông đã đọc xong cuộn sách này, hãy cột một hòn đá vào đó và ném xuống giữa sông Ơ-phơ-rát.
\v 64 Hãy nói: Ba-by-lôn sẽ chìm như vầy. Nó sẽ không nổi lên vì cớ tai họa mà Ta sẽ giáng trên nó, chúng sẽ ngã.’” Lời của Giê-rê-mi kết thúc tại đây.
\s5
\c 52
\p
\v 1 Sê-đê-kia lên ngôi trị vì khi ông được hai mươi mốt tuổi; ông cai trị mười một năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ ông là Ha-mu-tan; bà là con gái của Giê-rê-mi đến từ Líp-na.
\v 2 Ông làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va y như những gì Giê-hô-gia-kim đã làm.
\v 3 Bởi cơn giận của Đức Giê-hô-va, tất cả những sự kiện này đã xảy ra ở Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, cho đến khi Ngài đuổi họ khuất mắt Ngài. Sau đó, Sê-đê-kia nổi loạn nghịch lại vua Ba-by-lôn.
\s5
\v 4 Năm thứ chín trong đời trị vì của Vua Sê-đê-kia, nhằm ngày mười tháng mười, Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, kéo quân đến đánh Giê-ru-sa-lem. Chúng đóng trại đối diện thành, chúng xây một đồn bao vây.
\v 5 Thành bị bao vây đến năm thứ mười một trong đời trị vì của Vua Sê-đê-kia.
\s5
\v 6 Ngày chín tháng tư năm thứ mười một, trong thành xảy ra nạn đói kinh khiếp đến nỗi dân trong xứ chẳng còn thức ăn.
\v 7 Thành bị thất thủ, tất cả lính chiến chạy trốn và ra khỏi thành vào ban đêm theo cổng giữa hai bức tường thành, gần vườn thượng uyển của vua, dù dân Canh-đê đang bao vây thành ấy. Họ đi theo hướng về A-ra-ba.
\v 8 Nhưng quân Canh-đê đuổi theo vua và bắt Sê-đê-kia ở đồng bằng thung lũng Sông Giô-đanh gần Giê-ri-cô. Toàn thể quân đội của ông bỏ chạy tán loạn.
\s5
\v 9 Chúng bắt vua và giải đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-la trong xứ Ha-mát, là nơi vua ấy xử đoán.
\v 10 Vua Ba-by-lôn giết các con trai của Sê-đê-kia trước mặt ông, và tại Ríp-la vua ấy cũng giết hết các lãnh đạo của Giu-đa.
\v 11 Sau đó vua móc mắt Sê-đê-kia, xiềng lại bằng xích đồng, và giải đến Ba-by-lôn. Vua Ba-by-lôn bỏ tù ông cho đến khi ông chết.
\s5
\v 12 Bấy giờ nhằm ngày mười tháng năm năm thứ mười chín trong đời trị vì của Vua Nê-bu-cát-nết-sa, vua Ba-by-lôn, Nê-bu-xa-ra-đan đến Giê-ru-sa-lem. Ông là sĩ quan của quân thị vệ và là tôi tớ của vua Ba-by-lôn.
\v 13 Ông phóng hỏa nhà của Đức Giê-hô-va, hoàng cung, và tất cả nhà cửa ở Giê-ru-sa-lem; ông cũng bóng hỏa các tòa nhà lớn trong thành phố.
\v 14 Đối với các tường thành Giê-ru-sa-lem, quân Ba-by-lôn cùng với sĩ quan chỉ huy quân thị vệ cũng phá hủy.
\s5
\v 15 Với những người nghèo nhất, là những người còn sót lại trong thành. Tức những người bỏ chạy qua hàng ngũ vua Ba-by-lôn, và số thợ thủ công còn lại Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan quân thị vệ, bắt một số người đem đi lưu đày.
\v 16 Nhưng Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan quân thị vệ, chừa lại những người nghèo nhất trong xứ để họ làm việc ở các vườn nho và cánh đồng.
\s5
\v 17 Còn các cột đồng trong nhà Đức Giê-hô-va, các đế tảng và biển đồng trong nhà Đức Giê-hô-va, dân Canh-đê đập vỡ tan tành và đem đồng về Ba-by-lôn.
\v 18 Các nồi, xẻng, kéo cắt tim đèn, bát, và tất cả những đồ dùng bằng đồng mà thầy tế lễ dùng để phục vụ trong đền thờ - dân Canh-đê cũng cướp mất.
\v 19 Các chậu và đồ dùng để xông hương, bát, nồi, chân đèn, chảo, và các chậu vàng, chậu bạc quan chỉ huy vệ binh cũng cướp mất.
\s5
\v 20 Hai cái trụ, biển, và mười hai con bò đồng làm chân đế, là những vật mà Sa-lô-môn đã làm cho nhà Đức Giê-hô-va, có khối lượng đồng lớn đến nỗi không thể cân được.
\v 21 Các cột trụ cao mười tám cu-bít, chu vi mười hai cu-bít. Mỗi cột trụ dày bốn ngón tay và rỗng ruột.
\s5
\v 22 Trên đầu cột có chóp đồng. Chóp cao năm cu-bít, có lưới và trái lựu bằng đồng. Cột còn lại và các trái lựu cũng tương tự như cột thứ nhất.
\v 23 Vậy có chín mươi sáu trái lựu ở bốn phía chóp, và khoảng một trăm trái lựu trên lưới bao quanh.
\s5
\v 24 Sĩ quan chỉ huy quân thị vệ bắt tù nhân Sê-ra-gia, thầy tế lễ cả, cùng với Sô-phô-ni, thầy tế lễ phó, và ba người giữ cổng.
\v 25 Tại trong thành, ông bắt một quan chức là người phụ trách cai quản binh lính, và bảy cận thần của vua, là những người còn ở trong thành. Ông cũng bắt quan chỉ huy quân của vua lo việc tuyển quân trong xứ, cùng với sáu mươi người quan trọng có mặt trong thành.
\s5
\v 26 Sau đó Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan chỉ huy quân thị vệ, bắt họ và giải đến vua Ba-by-lôn ở Ríp-la.
\v 27 Vua Ba-by-lôn xử tử họ ở Ríp-la trong xứ Ha-mát. Như vậy, Giu-đa bị bắt lưu đày.
\s5
\v 28 Đây là những người mà Nê-bu-cát-nết-sa bắt lưu đày: vào năm thứ bảy, có 3. 023 người Giu-đa.
\v 29 Vào năm thứ mười tám trong đời Nê-bu-cát-nết-sa, ông bắt 832 người khỏi Giê-ru-sa-lem.
\v 30 Vào năm thứ hai mươi ba trong đời Nê-bu-cát-nết-sa, Nê-bu-xa-ra-đan, sĩ quan chỉ huy quân thị vệ, bắt 745 người Giu-đa đi lưu đày. Có tất cả 4. 600 người bị bắt lưu đày.
\s5
\v 31 Sau đó vào năm lưu đày thứ ba mươi bảy của Giê-hô-gia-kin, vua Giu-đa, nhằm ngày hai mươi lăm tháng mười hai, Ê-vin Mê-rô-đác, vua Ba-by-lôn phóng thích Giê-hô-gia-kin vua Giu-đa ra khỏi tù. Việc này xảy ra vào năm Ê-vin Mê-rô-đác bắt đầu cai trị.
\s5
\v 32 Vua nói năng từ tốn với ông ấy và ban ngôi cho ông cao hơn các vua khác cùng số phận với ông tại Ba-by-lôn.
\v 33 Ê-vin Mê-rô-đác thay quần áo tù của Giê-hô-gia-kin, và Giê-hô-gia-kin thường xuyên ăn uống ở bàn vua trong suốt đời còn lại.
\v 34 Ông được ban thức ăn hàng ngày trong suốt đời mình cho đến khi qua đời.