vi_ulb/16-NEH.usfm

768 lines
69 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id NEH
\ide UTF-8
\h NÊ-HÊ-MI
\toc1 NÊ-HÊ-MI
\toc2 NÊ-HÊ-MI
\toc3 neh
\mt NÊ-HÊ-MI
\s5
\c 1
\p
\v 1 Lời của Nê-hê-mi con trai Ha-ca-lia: Bấy giờ nhằm tháng Kít-lơ, năm thứ hai mươi, khi tôi đang ở tại thành Su-sơ,
\v 2 một trong những anh em tôi, là Ha-na-ni, cùng với vài người khác từ Giu-đa đến gặp tôi, và tôi hỏi họ về những người Giu-đa đã trốn thoát, tức những người Giu-đa còn sót lại, và cũng hỏi về tình hình Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Họ nói với tôi, “Những người trong tỉnh còn sống sót từ vụ bắt làm phu tù hiện đang khốn khổ và hổ thẹn lắm vì tường thành Giê-ru-sa-lem đã bị đổ và cổng thành đã bị phóng hỏa.”
\s5
\v 4 Ngay khi nghe những lời này, tôi ngồi xuống và khóc, tôi cứ buồn rầu, kiêng ăn và cầu nguyện trước mặt Đức Chúa Trời của các từng trời trong nhiều ngày.
\v 5 Tôi nói, “Lạy Đức Giê-hô-va, Ngài là Đức Chúa Trời của các từng trời, Đức Chúa Trời lớn lao và vĩ đại, Đấng giữ giao ước và tỏ lòng thương những ai yêu mến và giữ điều răn Ngài.
\s5
\v 6 Xin nghe lời cầu nguyện của con và xin Ngài mở mắt nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài, giờ đây con đứng trước mặt Ngài cầu thay ngày và đêm cho dân Y-sơ-ra-ên, là các tôi tớ Ngài. Con thú nhận tội lỗi của dân Y-sơ-ra-ên, là những tội chúng con đã phạm đối với Ngài. Con và nhà tổ phụ con đã phạm tội.
\v 7 Chúng con đã hành động rất gian ác đối cùng Ngài, chúng con không giữ điều răn, luật pháp và sắc lệnh mà Ngài đã truyền cho tôi tớ Ngài là Môi-se.
\s5
\v 8 Xin Chúa nhớ lại lời Ngài đã truyền cho Môi-se, tôi tớ Ngài, Nếu các ngươi không trung tín, Ta sẽ rải các ngươi ra giữa các nước,
\v 9 nhưng nếu các ngươi quay về cùng Ta, tuân giữ điều răn Ta và làm theo, thì dù dân tộc ngươi bị tản lạc ở khắp các phương trời, Ta cũng sẽ nhóm họ về và đem đến nơi mà Ta đã chọn để danh Ta ngự tại đó.
\s5
\v 10 Hiện nay họ là tôi tớ và dân sự Ngài, là dân mà Ngài đã dùng quyền năng lớn lao và cánh tay mạnh mẽ của Ngài để giải cứu.
\v 11 Đức Giê-hô-va ơi, con khẩn cầu xin Ngài giờ đây lắng nghe lời cầu nguyện của tôi tớ Ngài và lời cầu nguyện của các tôi tớ Ngài, là những người vui vẻ tôn kính danh Ngài. Xin ban sự thành công cho tôi tớ Ngài hôm nay, và cho con được thương xót trước mặt người này.” Tôi, quan tửu chánh của vua.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Vào tháng Ni-san, năm thứ hai mươi trong đời vua Ạt-ta-xét-xe, vua chọn rượu, còn tôi lấy rượu rồi dâng cho vua. Bấy giờ, tôi chưa bao giờ buồn rầu khi đứng chầu trước mặt vua.
\v 2 Nhưng vua hỏi tôi, “Sao mặt ngươi buồn rầu vậy? Có vẻ như ngươi không bị bệnh. Ắt hẳn là ngươi đang buồn trong lòng.” Tôi cảm thấy sợ hãi lắm.
\s5
\v 3 Tôi tâu cùng vua, “Bệ hạ vạn tuế! Sao nét mặt hạ thần không buồn được? Thành phố là nơi có mồ mả của tổ phụ hạ thần, đang đổ nát, các cổng thành đã bị phóng hỏa.”
\s5
\v 4 Vua phán cùng tôi, “Ngươi muốn ta làm gì?” Vậy tôi cầu nguyện lên Chúa trên trời cao.
\v 5 Tôi trả lời vua, “Nếu bệ hạ thấy điều này là tốt, và nếu tôi tớ của bệ hạ đã làm vừa ý bệ hạ, xin bệ hạ sai hạ thần đi Giu-đa, đến thành có mồ mả của tổ phụ hạ thần, đặng hạ thần xây dựng lại thành ấy.”
\v 6 Vua trả lời tôi (và hoàng hậu cũng đang ngồi kế bên vua): “Ngươi sẽ đi bao lâu và chừng nào sẽ quay về?” Vua vui lòng sai tôi đi khi tôi trình cho người biết ngày đi ngày về.
\s5
\v 7 Sau đó tôi tâu với vua, “Nếu điều này đẹp lòng bệ hạ, xin bệ hạ đưa thư cho hạ thần để hạ thần trao cho các quan thống đốc bên kia sông, đặng họ cho phép hạ thần băng qua lãnh thổ họ trên đường đến Giu-đa.
\v 8 Xin bệ hạ cũng gửi một thư cho A-sáp là quan giữ rừng của vua, để người cấp gỗ cho hạ thần làm các cây xà của cổng đồn lũy kế bên đền thờ, và cho tường thành, và nhà mà hạ thần sẽ ở.” Vậy vì cớ tay tốt lành của Đức Chúa Trời trên tôi, vua chấp thuận yêu cầu của tôi.
\s5
\v 9 Tôi đến gặp các quan thống đốc bên kia sông, và trao cho họ các thư của vua. Bấy giờ, vua có sai các tướng quân và kỵ binh cùng đi với tôi.
\v 10 Khi San-ba-lát người Hô-rô-ni và Tô-bi-a, triều thần người Am-môn, nghe điều này, họ rất khó chịu vì có người đã đến tìm sự giúp đỡ cho dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 11 Do đó, tôi đến Giê-ru-sa-lem và ở đó ba ngày.
\v 12 Ban đêm tôi và vài người đi với tôi trở dậy. Tôi không kể cho ai biết về điều Đức Chúa Trời đã đặt trong lòng tôi để làm cho Giê-ru-sa-lem. Không có con vật nào đi với tôi, ngoại trừ con vật tôi đang cưỡi.
\s5
\v 13 Tôi ra ngoài vào ban đên theo lối Cổng Thung Lũng, đến Suối Chó rừng và Cổng Phân, rồi thăm dò các tường thành Giê-ru-sa-lem bị đổ nát, và các cổng gỗ bị thiêu cháy.
\v 14 Sau đó tôi tiếp tục đến Cổng Giếng và hồ của vua. Chỗ ấy quá hẹp để con vật tôi đang cưỡi vượt qua.
\s5
\v 15 Vì vậy, đêm đó chúng tôi đi lên theo lối thung lũng và kiểm tra bức tường thành, tôi quay lại và đi vào theo lối cửa Trũng, rồi trở về.
\v 16 Các quan không biết tôi đi đâu hoặc làm gì, khi đó tôi chưa thông báo cho người Giu-đa, các thầy tế lễ, các quý tộc, các quan, hoặc những người tham gia khác.
\s5
\v 17 Tôi bảo họ, “Các ông thấy sự khó khăn của chúng ta, thành Giê-ru-sa-lem hoang tàn và cổng thành bị phóng hỏa rồi. Nào, chúng ta hãy tái xây dựng tường thành Giê-ru-sa-lem, để chúng ta không còn ô nhục nữa.”
\v 18 Tôi nói với họ rằng tay tốt lành của Đức Chúa Trời đang đặt trên tôi và cũng nói cho họ nghe về những lời vua đã phán với tôi. Họ nói, “Chúng ta hãy đứng lên xây dựng.” Vậy họ bắt tay vào làm việc.
\s5
\v 19 Nhưng khi San-ba-lát người Hô-rô-nít, và Tô-bi-a triều thần người Am-môn, cùng Ghê-sem người Ả-rập nghe tin đó, họ nhạo báng và giễu cợt chúng tôi, hỏi rằng, “Các ngươi đang làm gì vậy? Các ngươi nổi loạn chống nghịch vua chăng?”
\v 20 Tôi trả lời họ, “Đức Chúa Trời của các từng trời sẽ cho chúng tôi thành công. Chúng tôi là tôi tớ Ngài, chúng tôi sẽ trỗi dậy và xây dựng. Còn các ông không có phần, không có quyền và không có kỷ niệm gì ở Giê-ru-sa-lem.”
\s5
\c 3
\p
\v 1 Khi ấy thầy tế lễ thượng phẩm Ê-li-a-síp cùng các thầy tế lễ anh em của ông trỗi dậy và xây dựng cổng Chiên. Họ biệt riêng nó ra thánh và lắp hai cánh cửa. Họ cũng biệt riêng đến tháp Mê-a và tháp Ha-na-nê-ên.
\v 2 Kế tiếp, người Giê-ri-cô xây dựng, và kế tiếp, Xác-cua con Im-ri lại xây dựng.
\s5
\v 3 Các con trai của Ha-sên-na xây Cổng Cá. Họ gắn cây đà, lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa.
\v 4 Mê-rê-mốt sửa phần tiếp theo. Ông là con của U-ri, cháu Hác-cô. Kế tiếp, Mê-su-lam tu sửa. Ông là con của Bê-rê-kia, cháu Mê-sê-xa-bên. Kế tiếp, Xa-đốc tu sửa. Ông là con của Ba-a-na.
\v 5 Kế tiếp, người Tê-cô-a tu sửa, nhưng các lãnh đạo của họ không chịu làm việc do các đốc công giao.
\s5
\v 6 Giô-gia-đa, con Pa-sê-a, và Mê-su-lam, con Bê-sô-đê-gia tu sửa cổng cũ. Họ gắn cây đà, lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa.
\v 7 Kế tiếp, Mê-la-tia người Ghi-bê-ôn cùng với Gia-đôn người Mê-rôn-nô-thi tu sửa. Họ là những quan lãnh đạo ở Ghi-bê-ôn và Mích-pa. Mích-pa là nơi ở của quan thống đốc tỉnh bên kia Sông.
\s5
\v 8 Kế tiếp, U-xi-ên con trai Hạc-hai-a, một trong những thợ vàng, tu sửa, và sau ông là Ha-na-nia, thợ làm nước hoa. Họ xây lại Giê-ru-sa-lem cho đến tận Tường Rộng.
\v 9 Kế tiếp, Rê-pha-gia con Hu-rơ tu sửa. Ông là quan cai trị nửa quận Giê-ru-sa-lem.
\v 10 Kế tiếp, Giê-đa-gia con Ha-ru-máp tu sửa đối diện nhà ông. Kế tiếp, Hát-tút con trai Ha-sáp-nia tu sửa.
\s5
\v 11 Manh-ki-gia, con Ha-rim, và Hát-súp, con Pa-hát Mô-áp tu sửa phần khác với Tháp Lò.
\v 12 Kế tiếp, Sa-lum con Ha-lô-he, quan cai trị nửa quận Giê-ru-sa-lem cùng với các con gái của ông tu sửa.
\s5
\v 13 Ha-nun và cư dân Xa-nô-a tu sửa Cổng Thung lũng. Họ xây cổng và lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa. Họ sửa chữa được một ngàn cu-bít đến tận Cổng Phân.
\s5
\v 14 Manh-ki-gia con trai Rê-cáp, quan cai trị quận Bết Hác-kê-rem, tu sửa Cổng Phân. Ông xây cổng, và lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa.
\v 15 Sa-lun con Côn Hô-xê, quan cai trị quận Mích-pa, xây lại Cổng Suối. Ông xây cổng, lợp mái, lắp cánh cửa, chốt cửa và then cửa. Ông cũng xây lại tường Ao Si-lô-ê kế bên vườn ngự uyển, cho đến tận bậc thang dẫn xuống từ thành Đa-vít.
\s5
\v 16 Nê-hê-mi con A-búc, quan cai trị nửa quận Bết Xu-rơ, tu sửa nơi phần đối diện Đa-vít đến hồ nhân tạo và nhà của các dũng sĩ.
\v 17 Kế tiếp, người Lê-vi tu sửa, bao gồm Rê-hum con Ba-ni và kế tiếp, Ha-sa-bia, quan cai trị nửa quận Kê-la, tu sửa cho quận của ông.
\s5
\v 18 Kế tiếp, những người Lê-vi khác tu sửa, gồm Ba-vai con Hê-na-đát, quan cai trị nửa quận Kê-la.
\v 19 Kế tiếp, Ê-xe sửa chữa. Ông là con của Giê-sua, quan cai trị Mích-pa, ông tu sửa khu vực đối diện lối đi lên kho binh khí nằm ở góc thành.
\s5
\v 20 Kế tiếp, Ba-rúc con Xáp-bai tận tụy tu sửa một khu vực khác, từ chỗ góc thành đến cửa nhà thầy tế lễ thượng phẩm Ê-li-a-síp.
\v 21 Kế tiếp, Mê-rê-mốt con U-ri, cháu Hát-cô, tu sửa một khu vực khác, từ cửa nhà Ê-li-a-síp đến cuối nhà của ông.
\s5
\v 22 Kế tiếp, các thầy tế lễ từ khu vực xung quanh Giê-ru-sa-lem tu sửa.
\v 23 Kế tiếp, Bên-gia-min và Hát-súp sửa chữa phần đối diện nhà của họ. Kế tiếp, A-xa-ria con Ma-a-sê-gia, cháu A-na-nia, tu sửa bên cạnh nhà ông.
\v 24 Kế tiếp, Bin-nui con Hê-na-đát tu sửa một khu vực khác, từ nhà của A-xa-ria đến góc thành.
\s5
\v 25 Pa-lan con U-xai tu sửa chỗ đối ngang góc thành và tháp nhô ra từ thượng cung của vua ở sân vệ binh. Kế tiếp, Phê-đa-gia con Pa-rốt tu sửa.
\v 26 Bấy giờ, những người phục vụ đền thờ sống ở Ô-phên tu sửa cho đến điểm đối diện Cổng Nước về phía đông của tháp nhô cao.
\v 27 Kế tiếp, người Tê-cô-a tu sửa một khu vực khác, đối diện tháp lớn nhô cao cho đến vách tường tại Ô-phên.
\s5
\v 28 Các thầy tế lễ tu sửa phía trên Cổng Ngựa, mỗi người tu sửa đối diện nhà mình.
\v 29 Kế tiếp, Xa-đốc con Im-mê tu sửa khu vực đối diện nhà ông. Và kế tiếp, Sê-ma-gia con Sê-ca-nia, người giữ cổng phía đông tu sửa.
\v 30 Kế tiếp, Ha-na-nia con Sê-lê-mia, và Ha-nun con thứ sáu của Xa-láp, tu sửa một khu vực khác. Kế tiếp, Mê-su-lam con Bê-rê-kia tu sửa chỗ đối diện nơi ông ở.
\s5
\v 31 Kế tiếp, Manh-ki-gia, một trong các thợ vàng, tu sửa nhà của những người phục vụ đền thờ và các lái buôn ở đối diện Cổng Khám xét và phòng cao ở góc thành.
\v 32 Các thợ vàng và lái buôn tu sửa phần nằm giữa phòng cao ở góc thành và Cổng Chiên.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Bấy giờ, khi San-ba-lát hay tin chúng tôi đang xây sửa tường thành, ông tức giận và cáu gắt lắm, ông nhạo báng người Do Thái.
\v 2 Trước mặt các anh em của ông và quân Sa-ma-ri, ông nói, “Bọn Do Thái nhu nhược này đang làm gì vậy? Chúng đang phục hồi lại thành phố của chúng sao? Chúng sẽ dâng tế lễ sao? Chúng sẽ làm xong việc đó trong một ngày sao? Chúng sẽ phục hồi đống đá vụn bị cháy đó sao?’”
\v 3 Tô-bi-a người Am-môn đứng bên cạnh ông cũng nói, “Nếu có một con chồn leo lên chỗ bọn chúng đang xây, bức tường ấy cũng sẽ bị sụp đổ.”
\s5
\v 4 Lạy Đức Chúa Trời của chúng con, xin lắng nghe vì chúng con bị xem thường. Xin Chúa đổ lời nhạo báng của chúng lên đầu chúng và cho chúng làm của cướp trong xứ chúng bị bắt làm tù binh.
\v 5 Xin đừng bỏ qua tội lỗi của chúng và đừng xóa sạch tội của chúng trước mặt Ngài, vì chúng đã khiêu khích các thợ xây nổi giận.”
\v 6 Vậy chúng tôi xây vách thành và cả vách thành được liền nhau đến phân nửa chiều cao, vì dân chúng hang hái làm việc.
\s5
\v 7 Nhưng khi San-ba-lát, Tô-bi-a, dân Ả-rập, dân Am-môn, và dân Ách-đốt hay rằng công trình sửa chữa vách thành Giê-ru-sa-lem đang tiến triển, và rằng những chỗ đổ nát trong vách đang được trám, họ rất tức giận.
\v 8 Họ lập mưu, rồi kéo đến đánh Giê-ru-sa-lem và gây hỗn loạn.
\v 9 Nhưng chúng tôi nguyện cầu lên Đức Chúa Trời chúng tôi và đặt người canh gác ngày đêm vì cớ lời đe dọa của chúng.
\s5
\v 10 Sau đó, người Giu-đa nói, “Những người khuân vác đang kiệt sức. Quá nhiều đống đổ nát, và chúng tôi không thể xây lại vách.”
\v 11 Quân thù của chúng tôi nói, “Chúng sẽ không biết hoặc thấy cho đến khi chúng ta xâm nhập vào giữa chúng và giết chúng, làm ngưng công trình của chúng.”
\s5
\v 12 Khi đó, những người Do Thái sống gần họ từ bốn phương đến nói thuật lại cho chúng tôi chục lần, cảnh báo chúng tôi về âm mưu mà bọn chúng đang lập để chống lại chúng tôi.
\v 13 Vậy tôi đặt người đứng gác ở những chỗ thấp nhất của vách thành và những nơi trống trải. Tôi giao cho mỗi gia đình một vị trí. Họ có gươm, giáo, và cung.
\v 14 Tôi xem xét, đứng lên, nói với những nhà quý tộc, quan cai trị, và những người còn lại trong dân, “Chớ sợ hãi chúng. Hãy nhớ Chúa là Đấng lớn lao và tuyệt vời. Hãy chiến đấu cho gia đình anh em, con trai và con gái anh em, vợ và nhà cửa anh em.”
\s5
\v 15 Khi quân thù hay rằng chúng tôi đã biết kế hoạch của chúng, và Đức Chúa Trời đã làm hỏng kế hoạch của chúng, tất cả chúng tôi trở về vách thành, mỗi người làm công việc mình.
\v 16 Kể từ đó, phân nửa các tôi tớ của tôi chỉ làm việc tái xây dựng vách thành, phân nửa còn lại cầm gươm, giáo, cung, mặc áo giáp, trong khi các lãnh đạo đứng đằng sau toàn dân Giu-đa.
\s5
\v 17 Những người xây vách thành và khuân vác cũng canh giữ vị trí của họ. Ai nấy đều một tay làm việc, một tay cầm vũ khí.
\v 18 Mỗi thợ xây đều đeo gươm bên hông khi làm việc. Người thổi kèn đứng bên cạnh tôi.
\s5
\v 19 Tôi nói với các quý tộc, quan chức và những người dân còn sót lại, “Công trình này lớn và rộng, chúng ta thì tách biệt trên vách, và xa nhau.
\v 20 Quý vị phải vội chạy đến nơi mình nghe tiếng kèn và nhóm họp tại đó. Đức Chúa Trời của chúng ta sẽ đánh trận thay cho chúng ta.”
\s5
\v 21 Vậy họ làm việc. Phân nửa trong số họ đeo giáo từ lúc bình minh cho đến khi mọc sao trên trời.
\v 22 Tôi cũng nói với dân chúng khi ấy, “Mỗi người và mỗi tôi tớ hãy dành thời gian nghỉ ngơi ở Giê-ru-sa-lem, để ban đêm chúng ta có người canh giữ và ban ngày có người làm việc.”
\v 23 Cứ như vậy, tôi, anh em tôi, tôi tớ tôi, và người hộ vệ đi theo tôi, không ai trong chúng tôi cởi quần áo mình, mỗi người trong chúng tôi đều đem theo vũ khí này. Ngay cả nếu người đó đi lấy nước.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Khi ấy những người đàn ông và các bà vợ kịch liệt phản đối các đồng hương Do Thái.
\v 2 Vì có người nói, “Chúng tôi đông người, gồm các con trai và con gái. Hãy cho chúng tôi lấy lúa để ăn và sống.”
\v 3 Cũng có một số người nói, “Chúng tôi phải thế chấp đồng ruộng, vườn nho, và nhà cửa của chúng tôi để có lúa ăn trong lúc đói kém.”
\s5
\v 4 Một số khác lại nói, “Chúng tôi đã vay tiền để đóng thuế đồng ruộng và vườn nho của chúng tôi cho vua.
\v 5 Nhưng bây giờ chúng tôi cũng cùng máu mủ như các anh em chúng tôi, và con cháu chúng tôi cũng như con cháu họ. Chúng tôi buộc phải bán con trai và con gái của mình làm nô lệ. Một số đứa con gái của chúng tôi đã làm nô lệ rồi. Nhưng chúng tôi không có quyền gì vì đồng ruộng và vườn nho của chúng tôi đang bị người khác giữ.”
\s5
\v 6 Tôi rất giận khi nghe lời kêu ca và phản đối của họ.
\v 7 Sau đó tôi nghĩ về chuyện này và trách những nhà quý tộc và quan lại. Tôi bảo họ, “Các ông cho vay ăn lời.” Tôi tổ chức một buổi họp lớn
\v 8 và nói với họ, “Chúng ta, tùy khả năng mình, đã chuộc lại những anh em Do Thái bị bán qua các nước khác làm nô lệ, nhưng các ông thậm chí lại bán anh chị em mình để người ta bán lại cho chúng ta!” Họ im lặng và chẳng nói lời nào.
\s5
\v 9 Tôi cũng nói, “Việc các ông đang làm là không đúng. Các ông không kính sợ Đức Chúa Trời để không bị dân ngoại là kẻ thù chúng ta chế giễu sao?
\v 10 Tôi, các anh em tôi, và tôi tớ của tôi sẽ cho họ mượn tiền và lúa. Nhưng chúng ta phải ngưng ngay việc cho vay lấy lãi này.
\v 11 Hôm nay hãy trả lại cho họ ruộng đồng, vườn nho, rẫy ô-liu, nhà cửa và phần trăm tiền, lúa, rượu mới, và dầu mà các ông đã thu từ họ.”
\s5
\v 12 Họ nói, “Chúng tôi sẽ hoàn trả lại cho họ những gì chúng tôi đã thu từ họ, và sẽ không bắt họ nộp gì nữa. Chúng tôi sẽ làm như ông nói.” Sau đó, tôi gọi các thầy tế lễ, yêu cầu họ thề như họ đã hứa.
\v 13 Tôi giũ vạt áo của mình và nói, “Nguyện Đức Chúa Trời giũ sạch nhà cửa và tài sản của người nào không giữ lời hứa. Nguyện Ngài khiến người đó bị giũ sạch và trắng tay.” Cả hội chúng nói, “Amen,” và họ ngợi khen Đức Giê-hô-va. Dân sự làm y như họ đã hứa.
\s5
\v 14 Vậy kể từ lúc tôi được chỉ định làm quan thống đốc trong xứ Giu-đa, từ năm thứ hai mươi đến năm thứ ba mươi hai trong đời vua Ạt-ta-xét-xe, là mười hai năm, cả tôi và anh em tôi đều không nhận phụ cấp lương thực dành cho quan thống đốc.
\v 15 Nhưng các quan thống đốc trước tôi đã đặt nặng gánh trên dân, bắt họ nộp bốn mươi siếc-lơ bạc ngoài thức ăn và rượu. Ngay cả các đầy tớ của họ cũng áp bức dân sự. Nhưng tôi không làm vậy vì tôi kính sợ Đức Chúa Trời.
\s5
\v 16 Tôi cũng đã tiếp tục tu sửa vách thành, và chúng tôi không mua đất đai. Tất cả các tôi tớ của tôi đều tập trung lại để làm việc.
\v 17 Ngồi cùng bàn tôi có người Do Thái và các quan chức, là một trăm năm mươi người, ngoài những người từ các nước lân bang đến gặp chúng tôi.
\s5
\v 18 Bấy giờ, mỗi ngày người ta chuẩn bị một con bò đực, sáu con chiên mập béo, họ cũng chọn gà vịt, và cứ mỗi mười ngày thì đãi nhiều rượu. Tuy vậy, tôi không đòi phần trợ cấp lương thực dành cho quan thống đốc, vì các yêu cầu đó quá nặng nề đối với dân chúng.
\v 19 Lạy Đức Chúa Trời của con, xin Ngài luôn nhớ đến con, vì tất cả những điều con đã làm cho dân này.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Bấy giờ, khi San-ba-lát, Tô-bi-gia và Ghê-sem người Ả-rập cùng những kẻ thù còn lại của chúng tôi hay tin rằng tôi đã xây lại vách thành và rằng các khu vực đổ nát đã được sửa chữa, mặc dù tôi chưa gắn cửa vào các cổng thành,
\v 2 San-ba-lát và Ghê-sem sai người đến nói với tôi, “Nào, chúng ta hãy gặp nhau ở nơi nào đó trong đồng bằng Ô-nô.” Nhưng họ có ý định hại tôi.
\s5
\v 3 Tôi sai sứ giả đến trả lời họ, “Tôi đang làm một việc lớn, tôi không thể xuống đó được. Tại sao phải bỏ dở việc để xuống gặp các ông?”
\v 4 Họ sai sứ giả đến nói với tôi bốn lần như thế, và cứ mỗi lần như vậy tôi đều trả lời họ y như nhau.
\s5
\v 5 San-ba-lát sai tôi tớ đến gặp tôi thêm lần thứ năm, tay cầm theo một lá thư không niêm yết.
\v 6 Thư có nội dung như sau, “Trong vòng các nước có lời đồn, và Ghê-sem cũng có nói, rằng ông và người Do Thái đang âm mưu phản loạn, vì vậy nên các ông mới xây lại vách thành. Theo lời người ta đồn, ông sẽ làm vua của họ.
\s5
\v 7 Ông cũng đã chỉ định các tiên tri loan tin về ông tại Giê-ru-sa-lem, rằng, Có một vua ở Giu-đa! Ông có thể biết chắc rằng vua sẽ nghe những lời đồn này. Vậy hãy đến, chúng ta sẽ nói chuyện với nhau.”
\s5
\v 8 Tôi trả lời ông ấy, “Những điều ông nói chưa từng xảy ra, vì tự lòng ông bịa ra điều đó.”
\v 9 Do tất cả bọn chúng muốn hù dọa chúng tôi và nghĩ rằng, “Chúng sẽ buông tay, việc đó sẽ chẳng hoàn thành.” Nhưng bây giờ, lạy Đức Chúa Trời, xin thêm sức cho tay của con.
\s5
\v 10 Tôi đến nhà của Sê-ma-gia con Đê-la-gia, cháu Mê-hê-ta-bên, là người đang ở ẩn trong nhà. Ông nói, “Chúng ta hãy gặp nhau trong nhà Đức Chúa Trời, ngay trong đền thờ, chúng ta hãy đóng cửa đền thờ, vì chúng sẽ đến giết ông. Chúng sẽ đến giết ông vào ban đêm.”
\v 11 Tôi trả lời, “Một người như tôi sẽ chạy trốn sao? Một người như tôi sẽ vào trong đền thờ đặng giữ mạng mình chăng? Tôi sẽ không vào đó đâu.”
\s5
\v 12 Tôi nhận thấy là Đức Chúa Trời không sai ông ta đến, nhưng ông ấy đã nói tiên tri nghịch lại tôi. Tô-bi-gia và San-ba-lát đã mướn ông ấy.
\v 13 Họ mướn ông ta để hù dọa tôi, hầu cho tôi nghe theo ông ta và phạm tội, để rồi họ bêu xấu danh tôi và hạ nhục tôi.
\v 14 Lạy Đức Chúa Trời của con, xin hãy nhớ đến Tô-bi-gia và San-ba-lát và những việc chúng đã làm. Xin Ngài cũng nhớ đến nữ tiên tri Nô-a-đia và các tiên tri khác là những kẻ cố tình khiến con khiếp sợ.
\s5
\v 15 Vậy, vách thành được hoàn tất vào ngày hai mươi lăm tháng Ê-lun, sau năm mươi hai ngày.
\v 16 Khi tất cả kẻ thù chúng tôi hay tin đó, tức là tất cả các dân xung quanh chúng tôi, họ khiếp sợ và ngã lòng. Vì họ biết công trình được hoàn thành là do sự giúp đỡ của Đức Chúa Trời chúng tôi.
\s5
\v 17 Vào thời điểm này, giới quý tộc Giu-đa gửi nhiều thư cho Tô-bi-gia, và Tô-bi-gia cũng gửi thư lại cho họ.
\v 18 Vì có nhiều người ở Giu-đa đã trót thề với ông ấy, vì ông ấy là con rể của Sê-ca-nia con A-ra. Con trai ông là Giê-hô-ha-nan đã cưới con gái của Mê-su-lam con Bê-rê-kia làm vợ.
\v 19 Họ cũng nói cho tôi biết những việc tốt của ông ấy và tâu với ông ấy những lời tôi nói. Tô-bi-gia đã gửi thư cho tôi đặng hăm dọa tôi.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Khi vách thành đã được xây xong, và tôi đã lắp xong các cánh cửa, và những người giữ cổng, ca sĩ và người Lê-vi được phân nhiệm vụ,
\v 2 tôi giao em tôi là Ha-na-ni việc cai quản Giê-ru-sa-lem, cùng với Ha-na-nia là người giám sát thành lũy, vì ông ấy là một người trung tín và kính sợ Đức Chúa Trời hơn bao người khác.
\s5
\v 3 Tôi bảo họ, “Đừng mở cổng thành Giê-ru-sa-lem cho đến khi mặt trời lên cao. Trong lúc những người giữ cổng đang canh gác, các ông có thể đóng cửa và cài then. Hãy cử dân cư Giê-ru-sa-lem làm lính canh, một số đứng gác ở trạm canh, và một số đứng gác trước nhà họ.”
\v 4 Bấy giờ thành phố thì rộng lớn, dân cư thưa thớt, và nhà cửa chưa được xây lại.
\s5
\v 5 Đức Chúa Trời giục lòng tôi tập hợp các quý tộc, quan chức, và dân chúng để đăng ký theo gia phả. Tôi tìm thấy Sách Gia phả của những người hồi hương đợt đầu và thấy có tên như sau.
\s5
\v 6 “Đây là những người trong tỉnh từ chốn phu tù trở về sau khi bị Nê-bu-cát-nết-sa vua Ba-by-lôn bắt lưu đày. Họ trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai nấy về thành mình.
\v 7 Họ đi cùng Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, Nê-hê-mi, A-xa-ria, Ra-a-mia, Na-ha-ma-ni, Mạc-đô-chê, Binh-san, Mích-pê-rết, Bích-vai, Nê-hum và Ba-a-na. Số dân Y-sơ-ra-ên gồm những người sau đây.
\s5
\v 8 Con cháu Pa-rốt, 2. 172người.
\v 9 Con cháu Sê-pha-tia, 372người.
\v 10 Con cháu A-ra, 652người.
\s5
\v 11 Con cháu Pa-hát Mô-áp, qua dòng dõi của Giê-sua và Giô-áp, 2. 818người.
\v 12 Con cháu Ê-lam, 1. 254người.
\v 13 Con cháu Xát-tu, 845người.
\v 14 Con cháu Xác-cai, 760người.
\s5
\v 15 Con cháu Binh-nui, 648người.
\v 16 Con cháu Bê-bai, 628người.
\v 17 Con cháu A-gát, 2. 322người.
\v 18 Con cháu A-đô-ni-cam, 667người.
\s5
\v 19 Con cháu Bích-vai, 2. 067người.
\v 20 Con cháu A-đin, 655người.
\v 21 Con cháu A-te, nghĩa là con cháu Ê-xê-chia, 98người.
\v 22 Con cháu Ha-sum, 328người.
\s5
\v 23 Con cháu Bê-xai, 324người.
\v 24 Con cháu Ha-ríp, 112người.
\v 25 Con cháu Ghi-bê-ôn, 95người.
\v 26 Dân Bết-lê-hem và Nê-tô-pha, 188người.
\s5
\v 27 Dân A-na-tốt, 128người.
\v 28 Dân Bết A-ma-vết, 42người.
\v 29 Dân Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt, 743người.
\v 30 Dân Ra-ma và Ghê-ba, 621người.
\s5
\v 31 Dân Mích-ma, 122người.
\v 32 Dân Bê-tên và Ai, 123người.
\v 33 Dân Nê-bô khác, 52người.
\v 34 Dân Ê-lam khác, 1. 254người.
\s5
\v 35 Dân Ha-rim, 320người.
\v 36 Dân Giê-ri-cô, 345người.
\v 37 Dân Lốt, Ha-đít, và Ô-nô, 721người.
\v 38 Dân Sê-na-a, 3. 930người.
\s5
\v 39 Các thầy tế lễ: Con cháu Giê-đa-gia (nhà Giê-sua), 973người.
\v 40 Con cháu Y-mê, 1. 052người.
\v 41 Con cháu Pha-su-rơ, 1. 247người.
\v 42 Con cháu Ha-rim, 1. 017người.
\s5
\v 43 Người Lê-vi: con cháu Giê-sua, thuộc gia tộc Cát-mi-ên, về con cháu Hô-đê-va, 74người.
\v 44 Các ca sĩ: con cháu A-sáp, 148người.
\v 45 Những người giữ cổng thuộc con cháu Sa-lum, con cháu A-te, con cháu Tanh-môn, con cháu Ác-cúp, con cháu Ha-ti-ta, con cháu Sô-bai, 138người.
\s5
\v 46 Những người phục vụ trong đền thờ: Con cháu Xi-ha, con cháu Ha-su-pha, con cháu Ta-ba-ốt,
\v 47 con cháu Kê-rô, con cháu Si-a, con cháu Pa-đôn,
\v 48 con cháu Lê-ba-na, con cháu Ha-ga-ba, con cháu Sanh-mai,
\v 49 con cháu Ha-nan, con cháu Ghi-đên, con cháu Ga-ha.
\s5
\v 50 Con cháu Rê-a-gia, con cháu Rê-xin, con cháu Ê-cô-đa,
\v 51 con cháu Ga-xam, con cháu U-xa, con cháu Pa-sê-a,
\v 52 con cháu Bê-sai, con cháu Mê-u-nim, con cháu Nê-phu-sê-sim.
\s5
\v 53 Con cháu Bác-búc, con cháu Ha-cu-pha, con cháu Ha-rua,
\v 54 con cháu Ba-xơ-lít, con cháu Mê-hi-đa, con cháu Ha-sa,
\v 55 con cháu Bác-cô, con cháu Si-sê-ra, con cháu Tê-ma,
\v 56 con cháu Nê-xi-a, con cháu Ha-ti-pha,
\s5
\v 57 Con cháu các tôi tớ của Sa-lô-môn: con cháu Sô-tai, con cháu Sô-phê-rết, con cháu Pê-ri-đa,
\v 58 con cháu Gia-a-la, con cháu Đác-côn, con cháu Ghi-đên,
\v 59 con cháu Sê-pha-tia, con cháu Hát-tinh, con cháu Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-môn.
\v 60 Tất cả những người phục vụ trong đền thờ, và con cháu của tôi tớ Sa-lô-môn là 392người.
\s5
\v 61 Và đây là những người đi lên từ Tên-Mê-la, Tên-Hạt-sa, Kê-rúp, Át-đôn, và Y-mê; nhưng họ không thể chứng minh rằng họ hoặc gia tộc của họ là con cháu Y-sơ-ra-ên:
\v 62 Con cháu Đê-la-gia, con cháu Tô-bi-gia, và con cháu Nê-cô-đa, 642người.
\v 63 Về phía các thầy tế lễ: con cháu Hô-ba-gia, con cháu Hác-cô, con cháu Bạc-xi-lai là những người cưới các con gái của Bạc-xi-lai người Ghi-lê-át làm vợ và được đổi họ theo họ vợ.
\s5
\v 64 Những người này tìm gia phổ của họ theo phả hệ, nhưng không thể tìm thấy, vì vậy họ bị loại khỏi chức tế lễ, bị xem là ô uế.
\v 65 Quan thống đốc bảo họ rằng họ không được phép ăn phần thức ăn của thầy tế lễ được lấy từ của lễ cho đến khi có một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim.
\s5
\v 66 Tổng cộng cả hội chúng có 42. 360người,
\v 67 không kể số tôi tớ trai và gái là 7. 337người. Trong đó có 245ca sĩ nam và nữ.
\s5
\v 68 Họ có 736con ngựa, 245con lừa,
\v 69 435con lạc đà, và 6. 720con khỉ.
\s5
\v 70 Một số trưởng tộc dâng vào công việc. Quan thống đốc đem vào kho một ngàn đa-riếc vàng, 50cái chậu, và 530lễ phục tế lễ.
\v 71 Một số trưởng tộc dâng vào kho cho công việc là 20. 000đa-riếc vàng và 2. 200mi-na bạc.
\v 72 Những người còn lại dâng 20. 000đa-riếc vàng, 2. 000mi-na bạc, và sáu mươi bảy áo tế lễ.
\s5
\v 73 Vậy các thầy tế lễ, người Lê-vi, người giữ cổng, ca sĩ, một số người trong dân, những người phục vụ đền thờ, và toàn thể Y-sơ-ra-ên đều sống trong thành của họ. Dân Y-sơ-ra-ên đã ở trong thành của họ khi đến tháng thứ bảy.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Toàn thể dân sự nhất trí nhóm lại ở khu vực phía trước Cổng Nước. Họ xin thầy thông giáo E-xơ-ra đem theo Sách Luật pháp Môi-se mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Ngày một tháng bảy, thầy tế lễ E-xơ-ra đem sách luật pháp ra đọc trước hội chúng, gồm cả nam và nữ, cùng tất cả những ai có thể nghe và hiểu.
\v 3 Ông đứng ở sân đối diện Cổng Nước, ông đọc từ sáng sớm đến giữa ngày, trước mặt nam và nữ, cùng những ai có thể nghe và hiểu. Cả dân sự chăm chú nghe lời trong Sách Luật pháp.
\s5
\v 4 Thầy thông giáo E-xơ-ra đứng trên một bục gỗ cao mà dân chúng đã đóng cho việc đó. Bên phải ông là Ma-ti-thia, Sê-ma, A-na-gia, U-ri, Hinh-kia, và Ma-a-sê-gia; Phê-đa-gia, Mi-sa-ên, Manh-ki-gia, Ha-sum, Hát-ba-đa-na, Xa-cha-ri, và Mê-su-lam đứng bên trái.
\v 5 E-xơ-ra mở sách ra trước mặt toàn dân, vì ông đứng cao hơn họ, và toàn dân đứng lên khi ông mở quyển sách ấy.
\s5
\v 6 E-xơ-ra tạ ơn Giê-hô-va, Đức Chúa Trời vĩ đại, cả dân sự giơ tay lên và đáp rằng, “Amen! Amen!” Sau đó họ cúi đầu và sấp mặt xuống đất tôn thờ Đức Giê-hô-va.
\v 7 Giê-sua, Ba-ni, Sê-rê-bia, Gia-min, Ác-cúp, Sa-bê-thai, Hô-đi-a, Ma-a-sê-gia, Kê-li-ta, A-xa-ria, Giô-xa-bát, Ha-nan, Phê-la-gia, và người Lê-vi cũng giúp dân sự hiểu luật pháp khi họ vẫn đứng đó.
\v 8 Họ đọc sách luật pháp của Đức Chúa Trời, diễn dịch rõ ràng và giải nghĩa để dân sự hiểu.
\s5
\v 9 Quan thống đốc Nê-hê-mi, thầy tế lễ và thầy thông giáo E-xơ-ra, cùng người Lê-vi, là những người diễn giải cho dân sự bảo họ rằng, “Hôm nay là ngày thánh cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời quý vị. Đừng để tang hay khóc lóc.” Vì cả dân sự đều khóc khi nghe đọc lời luật pháp.
\v 10 Nê-hê-mi bảo họ, “Hãy trở về, ăn đồ béo, uống đồ ngọt, và gửi một phần cho những người không sắm sửa gì cả, vì hôm nay là ngày thánh cho Chúa chúng ta. Chớ buồn rầu, vì sự vui vẻ của Đức Giê-hô-va là sức mạnh của chúng ta.”
\s5
\v 11 Vậy người Lê-vi trấn an dân sự, nói rằng, “Xin yên lặng! Vì hôm nay là ngày thánh. Chớ buồn rầu.”
\v 12 Toàn dân trở về nhà ăn uống, chia sẻ đồ ăn và hớn hở lắm vì họ đã hiểu những lời được công bố cho họ.
\s5
\v 13 Ngày thứ nhì, các tộc trưởng trong dân chúng, thầy tế lễ và người Lê-vi, đến gặp thầy thông giáo E-xơ-ra để học hỏi những lời luật pháp.
\v 14 Họ thấy trong luật pháp có chép rằng Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se là dân Y-sơ-ra-ên phải ở trong lều vào dịp lễ tháng bảy.
\v 15 Họ phải rao báo trong tất cả các thành phố và Giê-ru-sa-lem rằng, “Hãy lên vùng cao nguyên, đem về những nhánh cây ô-liu và ô-liu hoang, nhánh cây sim, cây cọ và nhánh cây rậm, đặng làm lều tạm, như đã chép.”
\s5
\v 16 Vậy dân sự đi ra và đem về các nhánh cây rồi dựng lều, người thì dựng trên mái nhà mình, người thì dựng trong sân, trong sân nhà Đức Chúa Trời, ở quảng trường của Cổng Nước, và ở quảng trường Cổng Ép-ra-im.
\v 17 Toàn thể hội chúng gồm những người trở về từ chốn làm phu tù đã dựng lều và ở trong đó. Vì từ ngày của Giô-suê con trai Nun cho đến hôm đó, dân Y-sơ-ra-ên chưa từng tổ chức lễ này. Dân sự đều rất hớn hở.
\s5
\v 18 Bên cạnh đó, mỗi ngày, từ ngày đầu đến ngày cuối, E-xơ-ra đọc Sách Luật pháp Đức Chúa Trời. Họ giữ lễ trong bảy ngày, và ngày thứ tám là ngày bế mạc trọng thể, theo quy định.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Bấy giờ, cũng trong tháng ấy, nhằm ngày hai mươi bốn, dân Y-sơ-ra-ên nhóm họp, kiêng ăn, mặc vải bố, và rải tro lên đầu.
\v 2 Con cháu Y-sơ-ra-ên phân rẽ khỏi những người ngoại quốc. Họ đứng dậy xưng tội mình và những việc ác của tổ phụ họ.
\s5
\v 3 Họ đứng ngay tại chỗ của họ, và đọc Sách Luật pháp của Giê-hô-va Đức Chúa Trời suốt một phần tư ngày. Một phần tư ngày còn lại, họ xưng tội và thờ lạy Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\v 4 Người Lê-vi, Giê-sua, Ba-ni, Cát-mi-ên, Sê-ba-nia, Bun-ni, Sê-rê-bia, Ba-ni, và Kê-na-ni, đứng trên các bậc thang và lớn tiếng kêu cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\s5
\v 5 Sau đó người Lê-vi, Giê-sua, và Cát-mi-ên, Ba-ni, Ha-sáp-nê-gia, Sê-rê-bia, Hô-đia, Sê-ba-nia, và Pê-tha-hia nói, “Hãy đứng dậy dâng lời ngợi khen cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời của quý vị đời đời.” “Chúc tán danh vinh hiển của Ngài, nguyện danh Ngài được tôn cao hơn mọi lời chúc tụng và ngợi khen.
\v 6 Ngài là Giê-hô-va. Đấng duy nhất. Ngài đã dựng nên trời, các từng trời cao ngất, với toàn thể thiên binh, và trái đất cùng mọi vật trong nó, biển cả và mọi vật dưới biển. Ngài ban sự sống cho muôn loài, và các thiên binh trên trời tôn thờ phượng.
\s5
\v 7 Ngài là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời, Đấng đã chọn Áp-ram và đem ông ra khỏi U-rơ xứ Canh-đê, và đặt tên ông là Áp-ra-ham.
\v 8 Ngài thấy ông trọn lòng trung tín trước mặt Ngài, và Ngài đã lập giao ước cùng ông để ban cho con cháu ông xứ của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Giê-bu-sít, và dân Ghi-ga-sít. Ngài đã giữ lời hứa Ngài vì Ngài là Đấng công bình.
\s5
\v 9 Ngài thấy hoạn nạn của cha ông chúng con ở Ai Cập, và Ngài nghe tiếng than khóc của họ ở biển Đỏ.
\v 10 Ngài làm các dấu kỳ và phép lạ nghịch lại Pha-ra-ôn, các quần thần, và trên cả dân trong xứ ông ấy, vì Ngài biết rằng người Ai Cập đã cư xử ngạo mạn với họ. Nhưng Ngài đã lập cho Ngài một danh đứng vững đến hôm nay.
\s5
\v 11 Ngài đã rẽ biển trước mặt họ, để họ đi qua biển như trên đất khô; và Ngài quăng những kẻ rượt đuổi họ vào vực sâu, như hòn đá rớt xuống nước sâu.
\s5
\v 12 Ngài dẫn họ bằng một trụ mây ban ngày, và một trụ lửa ban đêm, đặng soi đường cho họ đi.
\v 13 Ngài ngự xuống trên Núi Si-nai và phán với họ từ trời, ban cho họ những luật lệ công chính và luật pháp chân thật, các đạo luật và điều răn tốt lành.
\s5
\v 14 Ngài tỏ cho họ biết ngày Sa-bát thánh của Ngài, và ban cho họ điều răn, đạo luật và luật pháp qua Môi-se tôi tớ Ngài.
\v 15 Ngài ban bánh từ trời khi họ đói, và nước chảy từ vầng đá khi họ khát, và Ngài bảo họ vào chiếm xứ mà Ngài đã thề ban cho họ.
\s5
\v 16 Nhưng họ, tổ phụ chúng con đã không tôn kính Ngài, họ cứng đầu, không nghe theo điều răn Ngài.
\v 17 Họ không chịu lắng nghe, và không nghĩ đến những phép lạ mà Ngài đã làm ở giữa họ, họ cứng cổ, và trong cơn phản nghịch họ đã lập một người lãnh đạo để đưa họ trở lại kiếp nô lệ. Nhưng Ngài là Đức Chúa Trời hay tha thứ, nhân từ và có lòng thương xót, chậm nóng giận, và đầy dẫy tình thương vững bền. Ngài không từ bỏ họ.
\s5
\v 18 Ngài đã không từ bỏ họ ngay cả khi họ nấu chảy kim loại dựng nên một con bê và nói rằng, Đây là Đức Chúa Trời của các người, đấng đã đem các người ra khỏi Ai Cập, trong khi họ phạm tội báng bổ quá đáng.
\v 19 Vì lòng thương xót của Ngài, Ngài đã không từ bỏ họ trong hoang mạc. Trụ mây dẫn đường ban ngày không rời khỏi họ, và trụ lửa ban đêm soi sáng cũng không lìa khỏi họ.
\s5
\v 20 Ngài ban Thần Linh tốt lành của Ngài để dạy dỗ họ, và không giữ ma-na khỏi miệng họ, Ngài ban nước cho họ khi khát.
\v 21 Ngài chu cấp cho họ trong hoang mạc suốt bốn mươi năm, họ chẳng thiếu thốn gì. Quần áo họ không mòn và chân họ không sưng phồng.
\s5
\v 22 Ngài ban cho họ các vương quốc và các dân, Ngài ban cho họ đất ở mọi nơi. Họ chiếm xứ của Si-hôn, vua Hẹt-bôn, và xứ của Óc, vua Ba-san.
\s5
\v 23 Ngài khiến con cái họ đông như sao trên trời, và Ngài đem họ vào xứ. Ngài bảo tổ phụ họ đi vào chiếm xứ đó.
\v 24 Vậy dân sự ra đi và chiếm lấy xứ, Ngài đuổi cư dân của xứ khuất mắt họ, tức dân Ca-na-an. Ngài phó vào tay họ, tức là các vua và các dân trong xứ, để Y-sơ-ra-ên muốn làm gì với chúng tùy ý họ.
\s5
\v 25 Họ chiếm các thành trì kiên cố và xứ màu mỡ, họ chiếm nhà cửa đầy những vật tốt đẹp, bể chứa nước đã được làm sẵn, vườn nho và rẫy ô-liu, cùng vô số cây ăn trái. Vậy họ ăn uống no nê và thỏa mãn, họ vui mừng trong sự tốt lành của Ngài.
\s5
\v 26 Sau đó họ bất tuân và chống nghịch Ngài. Họ bỏ luật pháp của Ngài sau lưng. Họ giết các tiên tri của Ngài là những người đã cảnh cáo họ phải quay trở lại với Ngài, họ phạm tội báng bổ ghê gớm.
\v 27 Vì vậy Ngài phó họ vào tay những kẻ thù nghịch, tức là những kẻ khiến họ đau khổ. Rồi khi đang bị đau khổ, họ kêu cầu lên Ngài và từ trời cao Ngài nghe họ, Ngài đã nhiều lần giải cứu họ khỏi tay kẻ thù nghịch vì cớ lòng thương xót lớn lao của Ngài.
\s5
\v 28 Nhưng sau khi họ được yên nghỉ, họ lại làm điều ác trước mặt Ngài, Ngài phó họ vào tay quân thù, để quân thù cai trị họ. Nhưng khi họ quay trở lại và kêu cầu Ngài, từ trời Ngài nghe họ, và Ngài đã giải cứu họ nhiều lần vì lòng thương xót của Ngài.
\v 29 Ngài cảnh cáo họ để họ quay trở lại với luật pháp Ngài. Tuy nhiên họ cư xử ngạo mạn và không nghe theo mệnh lệnh Ngài. Họ chống lại luật lệ Ngài, là luật lệ ban sự sống cho những ai vâng giữ. Họ không vâng giữ, họ không để tâm và thậm chí từ chối nghe theo những điều đó.
\s5
\v 30 Trong nhiều năm, Ngài chịu đựng họ và dùng Thần Linh Ngài cảnh cáo họ qua các tiên tri. Nhưng họ không lắng nghe. Vậy Ngài phó họ vào tay các dân tộc lân bang.
\v 31 Tuy vậy, bởi lòng thương xót lớn lao của Ngài, Ngài không tiêu diệt hoặc bỏ rơi họ, vì Ngài là Đức Chúa Trời nhân từ và hay thương xót.
\s5
\v 32 Vậy bây giờ, lạy Đức Chúa Trời của chúng con, là Đức Chúa Trời vĩ đại, quyền năng và đáng kinh sợ, Đấng giữ giao ước và tình yêu bền vững, xin đừng xem sự gian khổ này là chuyện nhỏ trên chúng con, các vua chúng con, các hoàng tử chúng con, các thầy tế lễ chúng con, các tiên tri của chúng con, tổ phụ của chúng con, và dân tộc của chúng con, từ thời các vua A-sy-ri cho đến hôm nay.
\v 33 Ngài là Đấng công bình trong mọi sự chúng con bị đoán phạt, vì Ngài đã đối xử một cách thành tín, còn chúng con thì lại hành động gian tà.
\v 34 Các vua, hoàng tử, thầy tế lễ, và tổ phụ chúng con không giữ luật pháp Ngài, cũng không chú tâm đến điều răn Ngài hoặc những điều luật giao ước mà Ngài đã cảnh cáo họ.
\s5
\v 35 Ngay cả trong vương quốc của họ, trong khi họ đang vui hưởng sự tốt lành lớn lao của ngài trên họ, trong xứ rộng lớn và màu mỡ mà Ngài đặt trước mặt họ, họ cũng không phục vụ Ngài hoặc từ bỏ những con đường xấu xa.
\s5
\v 36 Bây giờ chúng con làm nô lệ trong xứ Ngài đã ban cho tổ phụ chúng con được hưởng, là xứ có đầy hoa quả và vật tốt tươi, và kìa, chúng con làm nô lệ!
\v 37 Hoa lợi màu mỡ của xứ chúng con rơi vào tay các vua mà Ngài đã lập trên chúng con vì cớ tội lỗi chúng con. Họ cai trị thân thể chúng con và gia súc chúng con tùy ý họ. Chúng con thật đang trong cảnh khốn cùng quá.
\s5
\v 38 Vì cớ những điều này, chúng con lập một giao ước chắc chắn bằng cách viết xuống. Trên các văn kiện niêm yết này có tên các hoàng tử, người Lê-vi, và các thầy tế lễ của chúng con.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Những người ký tên trên các văn kiệm niêm yết là: quan thống đốc Nê-hê-mi con Ha-ca-lia, và các thầy tế lễ đã ký tên là Xê-đêkia,
\v 2 Sê-ra-gia, A-xa-ria, Giê-rê-mi,
\v 3 Pha-su-rơ, A-ma-ria, Manh-ki-gia,
\s5
\v 4 Hát-tút, Sê-ba-nia, Manh-lúc,
\v 5 Ha-rim, Mê-rê-mốt, Áp-đia,
\v 6 Đa-ni-ên, Ghin-nê-thôn, Ba-rúc,
\v 7 Mê-su-lam, A-bi-gia, Mi-gia-min,
\v 8 Ma-a-xia, Binh-gai, và Sê-ma-gia. Những người này là các thầy tế lễ.
\s5
\v 9 Những người Lê-vi là: Giê-sua con A-xa-nia, Binh-nui thuộc gia đình của Hê-na-đát, Cát-mi-ên,
\v 10 và những anh em Lê-vi của họ, Sê-ba-nia, Hô-đia, Kê-li-ta, Phê-la-gia, Ha-nan,
\v 11 Mi-ca, Rê-hốp, Ha-sa-bia,
\v 12 Xác-cua, Sê-rê-bia, Sê-ba-nia,
\v 13 Hô-đia, Ba-ni, và Bê-ni-nu.
\v 14 Những người lãnh đạo dân sự là: Pha-rốt, Pa-hát Mô-áp, Ê-lam, Xát-tu, Ba-ni,
\s5
\v 15 Bun-ni, A-xơ-gát, Bê-bai,
\v 16 A-đô-ni-gia, Bích-vai, A-đin,
\v 17 A-te, Ê-xê-chia, A-xu-rơ,
\v 18 Hô-đia, Ha-sum, Bê-xai,
\v 19 Ha-ríp, A-na-tốt, Nê-bai,
\v 20 Mách-pi-át, Mê-su-lam, Hê-xi-rơ,
\v 21 Mê-sê-xa-bên, Xa-đốc, Giát-đua,
\s5
\v 22 Phê-la-tia, Ha-nan, A-na-gia,
\v 23 Ô-sê, Ha-na-nia, Hát-súp,
\v 24 Ha-lô-hết, Pin-ha, Sô-béc,
\v 25 Rê-hum, Ha-sáp-na, Ma-a-sê-gia,
\v 26 A-hi-a, Ha-nan, A_nan,
\v 27 Manh-lúc, Ha-rim, và Ba-a-na.
\s5
\v 28 Những người còn lại trong dân là các thầy tế lễ, người Lê-vi, người gác cổng, ca sĩ, những người phục vụ trong đền thờ, và những người tách mình ra khỏi dân của các xứ lân bang và cam kết tuân theo luật pháp của Đức Chúa Trời, bao gồm vợ, con trai và con gái của họ, là những người có sự thông biết và hiểu biết,
\v 29 họ cùng hiệp với anh em mình, giới quý tộc, lập một lời nguyền và lời thề nguyện bước theo luật pháp của Đức Chúa Trời, là luật đã được ban ra bởi Môi-se tôi tớ Đức Chúa Trời, và vâng theo mọi điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi, cùng các điều luật và đạo luật của Ngài.
\s5
\v 30 Chúng con hứa sẽ không gả con gái chúng tôi cho dân trong xứ hoặc cho con trai chúng con cưới con gái của họ.
\v 31 Chúng con cũng hứa rằng nếu dân trong xứ đem hàng hóa hoặc lúa bán trong ngày Sa-bát, chúng con sẽ không mua trong ngày Sa-bát hoặc trong bất kỳ ngày thánh nào. Cứ mỗi khi đến năm thứ bảy, chúng con sẽ để đồng ruộng nghỉ ngơi, chúng con sẽ xóa nợ.
\s5
\v 32 Chúng con sẽ dâng một phần ba siếc-lơ hàng năm cho việc phục vụ trong nhà Đức Chúa Trời,
\v 33 đặng có chi phí làm bánh trần thiết, của lễ chay thường kỳ, của lễ thiêu vào ngày Sa-bát, các lễ hội trăng mới và các ngày lễ theo hạn định, các của lễ thánh, và của lễ chuộc tội cho Y-sơ-ra-ên, cũng như cho mọi công việc trong nhà Đức Chúa Trời.
\s5
\v 34 Các thầy tế lễ, người Lê-vi và dân sự bốc thăm để dâng củi. Thăm sẽ quyết định gia đình nào dâng củi vào nhà Đức Chúa Trời theo hạn định hàng năm. Củi sẽ được đốt trên bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, như có chép trong luật pháp.
\v 35 Chúng con hứa đem vào đền thờ Đức Giê-hô-va những hoa quả đầu mùa từ đất đai ccủa chúng con, tức hoa quả của cây cối mỗi năm.
\v 36 Và như đã chép trong luật pháp, chúng con hứa dâng vào nhà Đức Chúa Trời và trình thầy tế lễ tại đó các con trai đầu lòng và con đầu lòng trong bầy súc vật của chúng tôi.
\s5
\v 37 Chúng con sẽ dâng phần bột nhào đầu tiên và của lễ chay của chúng con, hoa quả của cây cối, rượu mới và dầu mới cho thầy tế lễ, cho kho của nhà Đức Chúa Trời. Chúng con sẽ nộp cho người Lê-vi phần mười huê lợi của chúng con vì người Lê-vi thâu phần mười ở tất cả các thành phố chúng con làm việc.
\v 38 Phải có một thầy tế lễ là con cháu của A-rôn có mặt với người Lê-vi khi họ thu phần mười. Người Lê-vi phải đem một phần mười trong số phần thu vào nhà Đức Chúa trời, tức là phòng chứa trong kho.
\s5
\v 39 Vì dân Y-sơ-ra-ên và con cháu Lê-vi phải đóng góp lúa, rượu mới và dầu vào phòng chứa là nơi có chứa các vật dụng trong đền thánh và có thầy tế lễ phục vụ, người gác cổng và ca sĩ phục vụ. Chúng con sẽ không lơ là nhà của Đức Chúa Trời chúng con.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Các lãnh đạo của dân sống tại Giê-ru-sa-lem, và những người còn lại đã bắt thăm để đem một phần mười dân đến sống ở thành thánh Giê-ru-sa-lem, còn chín phần kia vẫn ở lại trong các thành khác.
\v 2 Dân sự chúc phước cho tất cả những ai sẵn sàng đến định cư tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 3 Đây là các quan chức cấp tỉnh sống tại Giê-ru-sa-lem. Tuy nhiên, trong các thành ở Giu-đa, ai nấy đều ở trên đất của mình, bao gồm một số người Y-sơ-ra-ên, thầy tế lễ, người Lê-vi, người phục vụ đền thờ, và con cháu của các tôi tớ vua Sa-lô-môn.
\v 4 Một số người thuộc con cháu Giu-đa và một số người thuộc con cháu Ben-gia-min sống tại Giê-ru-sa-lem. Về phía người Giu-đa gồm: A-tha-gia con U-xia, cháu Xa-cha-ri, chắt A-ma-ria, chút Sê-pha-tia, chít Ma-ha-la-ên, thuộc con cháu Phê-rê.
\s5
\v 5 Ma-a-sê-gia con Ba-rúc, cháu Côn Hô-xê, chắt Ha-xa-gia, chút A-đa-gia, chít Giô-gia-ríp con Xa-cha-ri, thuộc con cháu Si-lô-ni.
\v 6 Tổng số con trai của Phê-rê sống tại Giê-ru-sa-lem là 468người. Họ là những người nổi tiếng.
\s5
\v 7 Sau đây là con cháu Ben-gia-min: San-lu con Mê-su-lam, cháu Giô-ết, chắt Phê-đa-gia, chút Cô-la-gia, chít Ma-a-sê-gia con Y-thi-ên, cháu Giê-sa-gia.
\v 8 Kế ông là Gáp-bai và Sanh-lai, tổng cộng 928người.
\v 9 Giô-ên con Xích-ri là chỉ huy, và Giu-đa con Ha-sê-nu-a là phó thị trưởng trong thành phố.
\s5
\v 10 Trong hàng tế lễ có: Giê-đa-gia con Giô-gia-ríp, Gia-kin,
\v 11 Sê-ra-gia con Hinh-kia, cháu Mê-su-lam, chắt Xa-đốc, chút Mê-ra-giốt, chít A-hi-túp, người quản lý nhà của Đức Chúa Trời,
\v 12 và các anh em của họ làm công việc trong đền thờ, tổng là 822người, cùng với A-đa-gia con Giê-rô-ham, cháu Phê-la-gia, chắt Am-xi, chút Xa-cha-ri, chít Pha-su-rơ - cháu Manh-ki-gia.
\s5
\v 13 Các tộc trưởng cùng làm với họ, tổng cộng 242người, cùng với A-ma-sai con A-xa-rên, cháu A-xai, chắt Mê-si-lê-mốt, chút Y-mê,
\v 14 và các anh em của họ, là những lính chiến can đảm, tổng 128người; lãnh đạo của họ là Xáp-đi-ên con Ha-ghê-đô-lim.
\s5
\v 15 Trong nhóm người Lê-vi có: Sê-ma-gia con Hát-súp, cháu A-ri-cam, chắt Ha-sa-bia, chút Bun-ni,
\v 16 cùng Sa-bê-thai và Giô-xa-bát, là những lãnh đạo của người Lê-vi và phụ trách công việc bên ngoài nhà Đức Chúa Trời.
\s5
\v 17 Có Mát-ta-nia con Mi-ca, cháu Xáp-đi, chắt A-sáp, là người hướng dẫn việc dâng lời cầu nguyện tạ ơn, và Bác-búc-kia, là phó ban trong bà con của ông, cùng Áp-đa con Sam-mua, cháu Ga-lan, chắt Giê-đu-thun.
\v 18 Có 284người Lê-vi trong thành thánh.
\s5
\v 19 Về những người gác cổng có: Ạc-cúp, Tanh-môn, và các anh em của họ, là người gác cổng, tổng cộng 172người.
\v 20 Số còn lại trong dân Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ và người Lê-vi đều sống trong các thị trấn ở Giu-đa. Mọi người sống trên phần sản nghiệp của mình.
\v 21 Những người phục vụ đền thờ sống tại Ô-phên, Xi-ha và Ghích-pa là chỉ huy của họ.
\s5
\v 22 Các lãnh đạo của người Lê-vi tại Giê-ru-sa-lem là U-xi con Ba-ni, cháu Ha-sa-bia, chắt Mát-ta-nia, chút Mi-ca, thuộc con cháu A-sáp, là những ca sĩ làm việc ca hát trong nhà Đức Chúa Trời.
\v 23 Vua có ra lệnh cho họ và cũng ra lệnh cấp lương cho họ theo hạn định mỗi ngày.
\v 24 Phê-tha-hia con Mê-sê-xa-bên, thuộc dòng dõi của Xê-ra, con cháu Giu-đa, làm cố vấn cho vua về mọi vấn đề liên quan đến dân chúng.
\s5
\v 25 Về các làng mạc và đồng ruộng của họ, một số người Giu-đa định cư tại Ki-ri-át Ạc-ba và các làng phụ cận, tại Đi-bôn và các làng phụ cận, tại Giê-cáp-xê-ên và các làng phụ cận.
\v 26 Họ cũng định cư tại Giê-sua, Mô-la-đa, Bết Pê-lết,
\v 27 Ha-xa Su-an, và Bê-e-sê-ba và các làng phụ cận.
\s5
\v 28 Họ định cư tại Xích-lác, Mê-cô-na và các làng phụ cận,
\v 29 En-rim-môn, Xô-ra, Gia-mút,
\v 30 Xa-nô-a, A-đu-lam và các làng phụ cận, tại La-kích và các đồng ruộng phụ cận và A-xê-kha và các làng phụ cận. Vậy họ định cư từ Bê-e-sê-ba đến thung lũng Hin-nôm.
\v 31 Dân Ben-gia-min cũng định cư từ Ghê-ba trở đi, tại Mích-mát và Ai-gia, tại Bê-tên và các làng phụ cận.
\v 32 Họ cũng định cư tại A-na-tốt, Nốp, A-na-nia,
\v 33 Ha-xơ, Ra-ma, Ghít-ta-im,
\v 34 Ha-đít, Xê-bô-im, Nê-ba-lát,
\v 35 Lốt, và Ô-nô, thung lũng của thợ thủ công.
\v 36 Một sống người Lê-vi ở Giu-đa được cho định cư với người Ben-gia-min.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đây là những thầy tế lễ và người Lê-vi hồi hương với Xê-ru-ba-bên con Sê-an-ti-ên và với Giê-sua: Sê-ra-gia, Giê-rê-mi, E-xơ-ra,
\v 2 A-ma-ria, Manh-lúc, Hát-tút,
\v 3 Sê-ca-nia, Rê-hum, và Mê-rê-mốt.
\s5
\v 4 Y-đô, Ghin-nê-thôi, A-bi-gia,
\v 5 Mi-gia-min, Ma-a-đia, Binh-ga,
\v 6 Sê-ma-gia, và Giô-gia-ríp, Giê-đa-gia,
\v 7 Sanh-lu, A-mốc, Hinh-kia, và Giê-đa-gia. Họ là các lãnh đạo và cộng sự của các thầy tế lễ trong thời Giê-sua.
\s5
\v 8 Những người Lê-vi gồm có Giê-sua, Binh-nui, Cát-mi-ên, Sê-rê-bia, Giu-đa và Mát-ta-nia, họ phụ trách các bài ca cảm tạ cùng với các cộng sự.
\v 9 Bác-búc-kia và Un-ni, cùng các cộng sự, đứng đối diện nhau khi hành lễ.
\s5
\v 10 Giê-sua là cha của Giô-gia-kim, Giô-gia-kim là cha của Ê-li-a-síp, Ê-li-a-síp là cha của Giô-gia-đa,
\v 11 Giô-gia-đa là cha của Giô-na-than, và Giô-na-than là cha của Giát-đua.
\s5
\v 12 Trong thời Giô-gia-ki, đây là các thầy tế lễ làm trưởng tộc: Mê-ra-gia là lãnh đạo của Sê-ra-gia, Ha-na-nia là lãnh đạo của Giê-rê-mi,
\v 13 Mê-su-lam là lãnh đạo của E-xơ-ra, Giê-hô-ha-nan là lãnh đạo của A-ma-ria,
\v 14 Giô-na-than là lãnh đạo của Manh-lu-chi, và Giô-sép là lãnh đạo của Sê-ba-nia.
\s5
\v 15 Tiếp theo, Át-na là lãnh đạo của Ha-rim, Hên-cai là lãnh đạo của Mê-ra-giốt,
\v 16 Xa-cha-ri là lãnh đạo của Y-đô, Mê-su-lam là lãnh đạo của Ghin-nê-thôn, và
\v 17 Xích-ri là lãnh đạo của A-bi-gia. Cũng có một lãnh đạo của Mi-ni-a-min. Pin-tai là lãnh đạo của Mô-a-đia.
\v 18 Sam-mua là lãnh đạo của Binh-ga, Giê-hô-na-than là lãnh đạo của Sê-ma-gia,
\v 19 Mát-tê-nai là lãnh đạo của Giô-gia-ríp, U-xi là lãnh đạo của Giê-đa-gia,
\v 20 Canh-lai là lãnh đạo của Sanh-lai, Ê-be là lãnh đạo của A-mốc,
\v 21 Ha-sa-bia là lãnh đạo của Hinh-kia, và Nê-tha-nên là lãnh đạo của Giê-đa-gia.
\s5
\v 22 Trong thời của Ê-li-a-síp, về người Lê-vi, Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan, và Xát-đua được ghi trong sổ là trưởng tộc, và các thầy tế lễ cũng được ghi sổ trong thời của Đa-ri-út vua Ba-tư.
\v 23 Con cháu Lê-vi và các trưởng tộc của họ được ghi trong Sách Sử biên niên cho đến đời Giô-ha-nan con Ê-li-a-síp.
\s5
\v 24 Các lãnh đạo của người Lê-vi là Ha-sa-bia, Sê-rê-bia, và Giê-sua con Cát-mi-ên, cùng các cộng sự đứng đối diện nhau ngợi khen và dâng lời tạ ơn, đối đáp theo từng ban, theo lệnh của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời.
\v 25 Mát-ta-nia, Bác-búc-kia, Áp-đia, Mê-su-lam, Tanh-môn và Ạc-cúp là những người gác cổng canh giữ các nhà kho của cổng.
\v 26 Họ phục vụ trong thời Giô-gia-kim con Giê-sua, cháu Giô-xa-đác, và trong thời quan thống đốc Nê-hê-mi và thầy tế lễ và thông giáo E-xơ-ra.
\s5
\v 27 Khi khánh thành vách thành Giê-ru-sa-lem, dân sự tìm những người Lê-vi khắp mọi nơi đặng đưa họ đến Giê-ru-sa-lem hân hoan làm lễ khánh thành với lòng tạ ơn và dùng chập chỏa, đàn cầm và đàn lia mà ca hát.
\v 28 Nhóm ca sĩ tập hợp lại từ vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem và từ các làng mạc của người Nê-tô-pha.
\s5
\v 29 Họ cũng đến từ Bết-Ghinh-ganh và từ các đồng ruộng ở Ghê-ba và A-ma-vết, vì các ca sĩ đã xây làng định cư quanh Giê-ru-sa-lem.
\v 30 Thầy tế lễ và người Lê-vi tự mình thanh tẩy, sau đó họ thanh tẩy dân sự, các cổng và vách thành.
\s5
\v 31 Sau đó, tôi đưa các lãnh đạo của Giu-đa lên trên vách thành, và tôi chọn hai ca đoàn lớn để dâng lời tạ ơn. Nhóm thứ nhất rẽ qua bên phải vách thành về phía Cổng Phân.
\s5
\v 32 Hô-sa-gia và một nửa lãnh đạo của Giu-đa theo sau họ,
\v 33 cùng với A-xa-ria, E-xơ-ra, Mê-su-lam,
\v 34 Giu-đa, Ben-gia-min, Sê-ma-gia, Giê-rê-mi,
\v 35 và một số con trai thầy tế lễ thổi kèn, cùng Xa-cha-ri con Giô-na-than, cháu Sê-ma-gia, chắt Mát-ta-nia, chút Mi-ca-gia, chít Xác-cua, thuộc dòng dõi A-sáp.
\s5
\v 36 Cũng có các họ hàng của Xa-cha-ri, gồm Sê-ma-gia, A-xa-rên, Mi-la-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai, Nê-tha-nên, Giu-đa, Ha-na-ni, sử dụng nhạc khí của Đa-vít, người của Đức Chúa Trời. Thầy thông giáo E-xơ-ra dẫn đầu họ.
\v 37 Tại Cổng Suối, họ theo bậc thang của thành Đa-vít đi thẳng lên dốc của vách thành, phía trên cung Đa-vít, đến Cổng Nước ở phía đông.
\s5
\v 38 Ca đoàn thứ nhì gồm những người tạ ơn đi theo hướng khác. Tôi và nửa dân sự đi theo họ trên vách thành, phía trên Tháp Lò, đến Tường Rộng,
\v 39 ngang qua Cổng Ép-ra-im, Cổng Cũ, Cổng Cá, Cổng Ha-na-nên và Cổng Trăm, đến Cổng Chiên, rồi dừng lại tại Cổng Bảo vệ.
\s5
\v 40 Vậy cả hai ca đoàn cảm tạ đứng trong nhà Đức Chúa Trời, tôi cũng đứng với một nửa các quan chức đi cùng tôi.
\v 41 Các thầy tế lễ đứng đó là: Ê-li-a-kim, Ma-a-sê-gia, Mi-ni-a-mim, Mi-ca-gia, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri, và Ha-na-nia, những người thổi kèn,
\v 42 Ma-a-sê-gia, Sê-ma-gia, Ê-lê-a-xa, U-xi, Giê-hô-ha-nan, Manh-ki-gia, Ê-lam, và Ê-xe. Các ca sĩ hát theo sự hướng dẫn của Giê-ra-hi-a.
\s5
\v 43 Hôm đó họ dâng nhiều của lễ và vui mừng, vì Đức Chúa Trời đã ban cho họ niềm vu hớn hở. Phụ nữ và trẻ con cũng vui mừng. Tiếng vui mừng của Giê-ru-sa-lem vang đến tận xa.
\s5
\v 44 Trong ngày đó, một số người được cử phụ trách các nhà kho để nhận các khoản dâng, huê lợi đầu mùa, các khoản phần mười, họ phải gom theo tỷ lệ dành cho các thầy tế lễ và người Lê-vi theo luật định. Mỗi người phải làm việc ở ngoài đồng gần các thành. Người Giu-đa hài lòng về sự phục vụ của các thầy tế lễ và người Lê-vi.
\v 45 Họ thi hành trách nhiệm phục vụ Đức Chúa Trời, giữ mình tinh sạch, tuân giữ mệnh lệnh của Đa-vít và Sa-lô-môn, các ca sĩ và người gác cổng cũng vậy.
\s5
\v 46 Từ xa xưa, trong thời của Đa-vít và A-sáp, đã có những người hướng dẫn ca hát, có các bài hát ngợi khen và cảm tạ Đức Chúa Trời.
\v 47 Trong thời Xê-ru-ba-bên và Nê-hê-mi, toàn dân Y-sơ-ra-ên chu cấp hàng ngày cho các ca sĩ và người gác cổng. Họ để riêng phần dành cho người Lê-vi, và người Lê-vi để riêng phần dành cho con cháu A-rôn.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Hôm đó, họ đọc Sách của Môi-se cho dân sự nghe. Trong đó chép rằng dân A-môn hoặc dân Mô-áp muôn đời không được phép vào hội của Đức Chúa Trời.
\v 2 Đó là bởi vì họ đã không đem bánh và nước đến gặp dân Y-sơ-ra-ên, nhưng họ thuê Ba-la-am đi rủa sả Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời chúng tôi đã biến lời rủa sả thành một phước lành.
\v 3 Ngay khi họ nghe luật pháp, họ tách rời khỏi những người ngoại quốc ở giữa họ.
\s5
\v 4 Bấy giờ, trước khi việc này xảy ra, thầy tế lễ Ê-li-a-síp được chỉ định quản lý các nhà kho trong nhà Đức Chúa Trời của chúng tôi. Ông ấy có mối liên hệ với Tô-bi-a.
\v 5 Ê-li-a-síp chuẩn bị cho Tô-bi-a một nhà kho lớn, là nơi mà trước đó họ trữ của lễ chay, hương, vật phẩm, các khoản phần mười lúa mì, rượu mới, và dầu, là những thứ phải dành cho người Lê-vi, các ca sĩ, người giữ cổng, và các khoản đóng góp cho các thầy tế lễ.
\s5
\v 6 Nhưng trong thời gian này tôi không có ở tại Giê-ru-sa-lem. Vì vào năm thứ ba mươi hai trong đời Ạt-ta-xét-xe vua Ba-by-lôn, tôi đã trở về chầu vua. Sau một thời gian, tôi xin vua cho phép ra đi,
\v 7 và tôi trở về Giê-ru-sa-lem. Tôi hiểu việc ác mà Ê-li-a-síp đã làm khi cho Tô-bi-a một nhà kho trong sân nhà Đức Chúa Trời.
\s5
\v 8 Tôi rất giận và ném tất cả vật dụng trong nhà của Tô-bi-a ra khỏi nhà kho.
\v 9 Tôi ra lệnh cho họ thanh tẩy nhà kho, và đem vào lại trong các phòng ấy những vật dụng của nhà Đức Chúa Trời, của lễ chay, và hương.
\s5
\v 10 Và tôi phát hiện là những phần được dành cho người Lê-vi đã không được phân phát cho họ, đến nỗi họ nhanh chóng rời khỏi đền thờ, trở về ruộng vườn mình, như các ca sĩ cũng đã từng làm.
\v 11 Do đó, tôi đối chất với các quan chức rằng, “Tại sao nhà Đức Chúa Trời bị bỏ bê?” Tôi tập họp họ lại và giao cho họ các chức vụ.
\s5
\v 12 Sau đó, cả Giu-đa đem phần mười lúa mì, rượu mới, và dầu vào kho.
\v 13 Tôi chỉnh định thầy tế lễ Sê-lê-mia và thầy thông giáo Xa-đốc và Phê-đa-gia người Lê-vi làm thủ quỹ các nhà kho. Kế tiếp là Ha-nan con Xác-cua, cháu Mát-ta-nia, vì họ là những người đáng tin cậy. Họ có nhiệm vụ phân phát của dâng cho những người cùng làm việc với họ.
\v 14 Lạy Đức Chúa Trời, xin nhớ đến con vì việc này, và đừng xóa bỏ những việc tốt lành con đã làm cho nhà của Đức Chúa Trời và sự phục vụ tại đó.
\s5
\v 15 Trong những ngày đó, tôi thấy dân Giu-đa đạp máy ép nho vào ngày Sa-bát và đem đến nhiều lúa mì, chất đống trên lừa, họ cũng đem rượu, nho, trái vả, và mọi thứ nặng nề đến Giê-ru-sa-lem vào ngày Sa-bát. Tôi phản đối họ trong ngày họ bán lương thực.
\s5
\v 16 Dân Ty-rơ sống ở Giê-ru-sa-lem đem đến cá và mọi loại hàng hóa, và họ bán cho dân Giu-đa vào ngày Sa-bát và trong thành phố!
\v 17 Khi đó, tôi đối chất các lãnh đạo của người Giu-đa, “Các ông đang làm việc ác gì vậy, làm ô uế ngày Sa-bát ư?
\v 18 Chẳng phải tổ phụ chúng ta đã làm điều này sao? Và chẳng phải Đức Chúa Trời chúng ta đã không giáng sự ác này trên chúng ta và thành này sao? Bây giờ các ông đang đem đến nhiều cơn thịnh nộ hơn trên Y-sơ-ra-ên khi làm ô uế ngày Sa-bát.”
\s5
\v 19 Khi trời tối ở cổng thành Giê-ru-sa-lem trước ngày Sa-bát, tôi ra lệnh phải đóng cửa và không được mở cửa cho đến hết ngày Sa-bát. Tôi đặt một số tôi tớ của tôi đứng canh ở cổng để không có hàng hóa nào được đem đến thành trong ngày Sa-bát.
\v 20 Các lái buôn và người bán hàng đã cắm trại ngoài thành Giê-ru-sa-lem một hoặc hai lần.
\s5
\v 21 Nhưng tôi cảnh báo họ: “Tại sao các ông cắm trại ngoài thành? Nếu các ông còn tái phạm, tôi sẽ ra tay phạt các ông!” Kể từ đó trở đi, họ không đến vào ngày Sa-bát.
\v 22 Tôi lệnh cho người Lê-vi phải thanh tẩy chính họ, đến và bảo vệ các cổng, đặng làm cho ngày Sa-bát được nên thánh. Lạy Đức Chúa Trời của con, xin cũng hãy nhớ con trong ngày này, và thương xót con vì lòng trung thành với giao ước mà Ngài đã giao cho con.
\s5
\v 23 Trong những ngày đó, tôi cũng thấy người Giu-đa cưới vợ người Ách-đốt, Am-môn, và Mô-áp.
\v 24 Một nửa con cái của họ nói tiếng Ách-đốt, nhưng họ chẳng thể nói được tiếng Giu-đa, họ chỉ nói được tiếng của một trong các dân khác.
\s5
\v 25 Khi tôi đối chất họ, tôi rủa họ, đánh một vài người và bứt tóc họ. Tôi bắt họ chỉ danh Đức Chúa Trời mà thề rằng: “Quý vị không được gả con gái mình cho con trai chúng, hoặc cưới con gái chúng cho con trai mình, hoặc cho chính quý vị.
\v 26 Chẳng phải Sa-lô-môn vua Y-sơ-ra-ên đã phạm tội vì những người nữ này sao? Trong vòng các dân chẳng có vua nào như ông, vì ông được Đức Chúa Trời mình yêu mến. Và Đức Chúa Trời lập ông làm vua cai trị Y-sơ-ra-ên. Tuy nhiên, các bà vợ ngoại quốc đã khiến ông phạm tội.
\v 27 Chúng tôi có nên lắng nghe các ông và làm việc ác này và hành động phản bội Đức Chúa trời chúng tôi bằng cách cưới dân ngoại quốc không?”
\s5
\v 28 Một trong những lý do mà Giô-gia-đa, con thầy tế lễ thượng phẩm Ê-li-a-síp là con rể của San-ba-lát người Hô-rôn. Vì lẽ đó, tôi loại bỏ ông ấy khuất mắt tôi.
\v 29 Lạy Đức Chúa Trời của con, xin hãy nhớ chúng, vì chúng đã làm ô uế chức tế lễ, giao ước của chức tế lễ và người Lê-vi.
\s5
\v 30 Do đó, tôi tẩy sạch họ khỏi những việc ngoại quốc, và thiết lập nhiệm vụ của các thầy tế lễ và người Lê-vi, mỗi người có nhiệm vụ riêng.
\v 31 Tôi cung cấp thêm của lễ gỗ vào thời điểm thích hợp và huê lợi đầu mùa. Lạy Đức Chúa Trời của con, xin nhớ đến con đời đời.