vi_ulb/05-DEU.usfm

1995 lines
192 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id DEU
\ide UTF-8
\h PHỤC TRUYỀN
\toc1 PHỤC TRUYỀN
\toc2 PHỤC TRUYỀN
\toc3 deu
\mt PHỤC TRUYỀN
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đây là lời Môi-se nói với toàn thể Y-sơ-ra-ên trong hoang mạc bên kia sông Giô-đanh, tức trong vùng đồng bằng thung lũng sông Giô-đanh đối ngang Su-phơ, giữa Pha-đan, Tô-phên, La-ban, Ha-sê-rốt và Đi Xa-háp.
\v 2 Chỗ đó cách Hô-rếp mười một ngày đường, theo đường núi Sê-ri-rơ đến Ca-đe Ba-nê-a.
\s5
\v 3 Vào năm thứ bốn mươi, ngày một tháng mười một, Môi-se nói chuyện với dân Y-sơ-ra-ên, cho họ biết mọi điều mà Giê-hô-va đã dạy bảo ông liên quan đến họ.
\v 4 Việc diễn ra sau khi Giê-hô-va đã đánh bại Si-hôn, vua dân A-mô-rít sống ở Hết-bôn, và Óc, vua Ba-san sống ở Ách-ta-rốt tại Ết-rê-i.
\s5
\v 5 Bên kia sông Giô-đanh, trong xứ Mô-áp, Môi-se khởi rao báo các giáo huấn này, rằng:
\v 6 “Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta phán với chúng ta tại Hô-rếp, rằng: Các ngươi sống trong vùng đồi núi này đã đủ lâu rồi.
\s5
\v 7 Hãy nhổ trại và lên đường đi đến vùng đồi núi của dân A-mô-rít cùng tất cả các vùng phụ cận trong đồng bằng sông Giô-đanh, trong vùng đồi núi, trong vùng trũng, trong vùng Nê-ghép, và cạnh mé biển tức vùng đất của dân Ca-na-an, và trong xứ Li-ban, tận cho đến sông lớn, tức sông Ở-phơ-rát.
\v 8 Đó, Ta đã đặt xứ này trước mặt các ngươi; hãy đi vào và chiếm hữu xứ mà Giê-hô-va đã thề với tổ phụ các ngươi tức với Áp-ra-ham, với Y-sác và với Gia-cốp để ban xứ ấy cho họ và cho dòng dõi họ về sau.
\s5
\v 9 Tôi đã nói với anh em vào lúc đó, rằng: Tôi không thể nào một mình mang nổi anh em.
\v 10 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã khiến anh em nên đông đúc, và xem đó, ngày nay anh em nhiều như sao trời.
\v 11 Nguyện Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em khiến anh em đông thêm cả ngàn lần nữa, và ban phước cho anh em, như Ngài đã hứa với anh em.
\s5
\v 12 Nhưng làm thế nào một mình tôi có thể gánh được các trách nhiệm, bổn phận cũng như những tranh chấp giữa anh em?
\v 13 Anh em hãy chọn ra những người khôn ngoan, những người hiểu biết, những người có tiếng tốt, theo từng bộ tộc, rồi tôi sẽ cử họ lãnh đạo anh em.
\v 14 Anh em đã đáp lại rằng: Điều ông vừa nói đó chúng tôi thấy đúng lắm.
\s5
\v 15 Vậy là tôi chọn lãnh đạo của các bộ tộc, những người khôn ngoan, những người có danh tiếng tốt, và lập họ lãnh đạo anh em, đứng đầu ngàn người, đứng đầu trăm người, đứng đầu năm mươi người, đứng đầu mười người, cùng các viên chức, theo từng bộ tộc.
\v 16 Tôi đã dặn bảo các quan xét của anh em lúc đó, rằng: Hãy nghe biết các tranh chấp của những người anh em các ông và phân xử thật công bằng giữa họ với một người anh em khác hay với người ngoại quốc ở với họ.
\s5
\v 17 Các ông không được tỏ ra thiên vị với bất kỳ ai trong cuộc tranh chấp; các ông phải lắng nghe người thấp bé cũng như người cao trọng. Các ông không được e sợ người ta, vì phân xử là việc của Đức Chúa Trời. Cuộc tranh chấp nào mà các ông thấy quá khó phân xử thì hãy đem đến cho tôi, và tôi sẽ nghe trình bày.
\v 18 Lúc đó tôi đã truyền bảo cho anh em mọi việc anh em phải làm.
\s5
\v 19 Chúng ta bỏ Hô-rếp và, trên đường đến vùng núi đồi của dân A-mô-rít, chúng ta đi băng qua cả vùng hoang mạc rộng lớn và kinh khiếp kia mà anh em đã thấy, theo như Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã phán dạy chúng ta; rồi chúng ta đến Ca-đe Ba-nê-a.
\s5
\v 20 Tôi có nói với anh em: Anh em đã đến vùng đồi núi của dân A-mô-rít, đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta sẽ ban cho chúng ta.
\v 21 Đó, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đã đặt đất đó trước mặt anh em; hãy đi lên chiếm hữu đất ấy, như Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, đã phán bảo anh em; đừng sợ hãi, cũng đừng ngã lòng.
\s5
\v 22 cả anh em đến gặp tôi, và nói: Chúng ta hãy sai người đi trước, để họ dọ thám xứ và chỉ dẫn cho chúng ta biết đường phải theo khi tiến đánh cũng như cung cấp thông tin về các thành mà chúng ta sẽ đánh.
\v 23 Đề nghị đó tôi thấy rất phải, nên tôi đã chọn mười hai người trong anh em, mỗi bộ tộc một người.
\v 24 Họ lên đường đi đến vùng đồi núi, tới thung lũng Ếch-côn, rồi dọ thám.
\s5
\v 25 Họ hái một số sản vật của xứ trên tay và đem về cho chúng ta. Họ cũng thuật lại cho chúng ta, rằng: Xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta sắp ban cho chúng ta đúng là vùng đất tốt đẹp.
\s5
\v 26 Thế nhưng anh em không chịu tiến đánh, mà lại nổi lên chống lại giới luật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\v 27 Trong lều mình, anh em phàn nàn rằng: “Vì Giê-hô-va ghét chúng ta nên Ngài mới đem chúng ta ra khỏi Ai Cập, để dùng tay dân A-mô-rít mà đánh bại chúng ta, và tiêu diệt chúng ta đi.
\v 28 Chúng ta phải đi đâu đây? Anh em chúng ta đã nói ra lời khiến lòng chúng ta tan chảy, rằng: Dân xứ đó cao lớn hơn chúng ta; thành chúng nó cũng lớn và vách thì cao đến tận trời; hơn nữa, chúng tôi cũng thấy con cháu dân A-na-kim ở đó.’”
\s5
\v 29 Rồi tôi mới nói với anh em: Đừng kinh hãi, cũng đừng sợ chúng nó.
\v 30 Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em đi trước anh em, Ngài sẽ chiến đấu cho anh em, giống như mọi việc Ngài đã làm cho anh em trước mắt anh em trong xứ Ai Cập,
\v 31 cũng như trong hoang mạc, khi anh em chứng kiến thể nào Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã bồng ẵm anh em, như người ta bồng ẵm con trai mình, ở mọi nơi mà anh em đi, cho đến khi anh em đến nơi đây.
\s5
\v 32 Nhưng trong việc này anh em không tin lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình
\v 33 Đấng trên đường đã đi trước anh em để tìm chỗ cho anh em dựng lều, để chỉ cho anh em đường phải theo, ban đêm thì trong đám lửa, còn ban ngày thì trong đám mây.
\s5
\v 34 Giê-hô-va nghe tiếng lời nói của anh em và nổi giận; Ngài thề rằng:
\v 35 Hẳn sẽ chẳng ai trong số những kẻ thuộc thế hệ gian ác này thấy được miền đất tốt đẹp mà Ta đã thề ban cho tổ phụ các ngươi,
\v 36 ngoại trừ Ca-lép, con trai Giê-phu-nê; người sẽ thấy xứ đó. Chỗ đất nào mà người đạp lên thì Ta sẽ ban cho người và con cháu người, vì người đã hết lòng theo Giê-hô-va.
\s5
\v 37 Ngoài ra, vì anh em mà Giê-hô-va cũng nổi giận với tôi; Ngài phán: Cả con cũng sẽ không vào đó;
\v 38 nhưng Giô-suê, con trai Nun, người phụ tá đứng chầu trước mặt con, anh ta sẽ được vào. Hãy khích lệ anh ta, vì anh ta sẽ lãnh đạo Y-sơ-ra-ên vào thừa hưởng đất.
\s5
\v 39 Ngoài ra, con nhỏ các ngươi mà các ngươi cho là sẽ làm mồi cho kẻ thù, tức các cháu mà ngày nay chưa phân biệt đúng sai chúng sẽ được vào đó. Ta sẽ ban xứ ấy cho chúng, và chúng sẽ sở hữu đất.
\v 40 Còn các ngươi, bây giờ hãy quay lại và khởi hành đi đến hoang mạc theo con đường dẫn ra Biển Sậy.
\s5
\v 41 Lúc đó, anh em đáp lại tôi, rằng: Chúng tôi đã phạm tội với Giê-hô-va; chúng tôi sẽ đi lên lâm chiến, và chúng tôi sẽ nghe theo mọi điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi đã truyền bảo chúng tôi làm. Tất cả anh em đều mang khí giới vào và sẵn sàng tiến đánh vùng đồi núi.
\v 42 Nhưng Giê-hô-va phán với tôi: Hãy bảo chúng nó rằng: “Chớ tiến công, cũng đừng chiến đấu, vì Ta sẽ không ở cùng các ngươi đâu, và các người sẽ bị quân thù đánh bại.
\s5
\v 43 Tôi nói lại với anh em như vậy, nhưng anh em không chịu nghe. Anh em cứ chống lại giới luật của Giê-hô-va; anh em kiêu căng và đã tiến đánh vùng đồi núi.
\v 44 Nhưng dân A-mô-rít sống trong vùng đồi núi đó ra đón đánh anh em, đuổi theo anh em như đàn ong, và đánh bại anh em tại Sê-i-rơ, cho đến Họt-ma.
\s5
\v 45 Anh em trở về khóc lóc trước mặt Giê-hô-va, nhưng Ngài không nghe tiếng anh em, cũng chẳng lưu ý đến anh em.
\v 46 Vậy là anh em ở lại Ca-đe trong nhiều ngày, trọn những ngày anh em ở tại đó.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Rồi chúng ta lại quay đầu lên đường hướng về hoang mạc theo con đường đến Biển Sậy, như Giê-hô-va đã truyền bảo tôi; chúng ta đi vòng núi Sê-i-rơ trong nhiều ngày.
\v 2 Giê-hô-va phán với tôi, rằng:
\v 3 Các người đã đi vòng quanh núi này đủ lâu rồi; giờ hãy hướng lên phía bắc.
\s5
\v 4 Hãy ra lệnh cho dân chúng, rằng: “Các người sẽ đi qua địa giới của anh em mình, tức con cháu Ê-sau, sống trong vùng Sê-i-rơ; họ sẽ phát sợ các ngươi. Vậy nên hãy cẩn thận
\v 5 đừng gây chiến với họ, vì Ta sẽ không ban cho các người phần đất nào của họ đâu, cho dù chỉ một thẻo đất vừa đủ cho bản chân các người dẫm lên, vì Ta đã ban núi Sê-i-rơ cho Ê-sau làm sản nghiệp.
\s5
\v 6 Các người sẽ dùng tiền bạc để mua thức ăn cho mình, cũng dùng tiền bạc để mua nước mình uống.
\v 7 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã ban phước cho các ngươi trong mọi việc tay các ngươi làm; Ngài biết hành trình của các ngươi qua hoang mạc rộng lớn này. Suốt bốn mươi năm nay, Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi đã ở cùng các ngươi, và các ngươi chẳng thiếu gì cả.’”
\s5
\v 8 Vậy là chúng ta đi qua địa phận của anh em mình, tức con cháu Ê-sau sống tại Sê-i-rơ, tách khỏi con đường A-ra-ba, vốn xuất phát từ Ê-lát và Ê-xi-ôn Ghê-be. Rồi chúng ta chuyển hướng và đi theo con đường hoang mạc của xứ Mô-áp.
\s5
\v 9 Giê-hô-va nói với tôi: Đừng quấy rối Mô-áp, cũng đừng gây chiến với họ, vì Ta sẽ không ban đất họ cho các ngươi làm cơ nghiệp đâu, bởi Ta đã ban vùng A-rơ cho con cháu Lót làm cơ nghiệp.’”
\s5
\v 10 (Khi trước có dân Ê-mim sống ở đó; giống dân này cao lớn và đông như dân A-na-kim;
\v 11 giống như người A-na-kim, dân này cũng được xem là dân Rê-pha-im, nhưng dân Mô-áp gọi họ là Ê-mim.
\s5
\v 12 Dân Hô-rít trước đó cũng sống tại Sê-i-rơ, nhưng rồi con cháu Ê-sau đến chiếm lấy xứ. Họ tiêu diệt dân đó rồi sống tại xứ ấy, cũng giống như điều Y-sơ-ra-ên làm trong xứ mà Giê-hô-va ban cho họ làm sản nghiệp.)
\s5
\v 13 “Bây giờ, hãy đứng dậy và băng qua rạch Xê-rết. Vậy là chúng ta băng qua rạch Xê-rết.
\v 14 Số ngày từ khi chúng ta khởi đi từ Ca-đe Ba-nê-a cho đến khi băng qua rạch Xê-rết là ba mươi tám năm. Đến lúc ấy thì toàn bộ thế hệ những người có khả năng chiến đấu mới bị diệt hết khỏi giữa dân chúng, như Giê-hô-va đã thề.
\v 15 Tay của Giê-hô-va nghịch với thế hệ đó và Ngài diệt họ khỏi giữa dân chúng, cho đến khi họ chết sạch.
\s5
\v 16 Khi tất cả những người có khả năng chiến đấu đã chết và không còn giữa vòng dân chúng,
\v 17 Giê-hô-va phán với tôi, rằng:
\v 18 Hôm nay các ngươi phải đi qua A-rơ, địa giới của Mô-áp.
\v 19 Khi các ngươi đến gần xứ của dân Am-môn, đừng quấy rối, cũng đừng gây chiến với họ, vì Ta sẽ không cho các người phần đất nào của dân Am-môn để làm cơ nghiệp; Ta đã ban nó cho con cháu của Lót làm cơ nghiệp.’”
\s5
\v 20 (Vùng đất ấy cũng được xem là đất của dân Rê-pha-im. Lúc trước, người Rê-pha-im sống tại đó nhưng dân Am-môn gọi họ là Xam-xu-mim;
\v 21 họ là giống dân cao lớn và đông như dân A-na-kim. Nhưng Giê-hô-va đã tiêu diệt họ trước dân Am-môn, và dân này tiếp nối họ sống tại nơi ấy.
\v 22 Đó cũng giống như Đức Chúa Trời đã làm cho dòng dõi Ê-sau sống tại vùng Sê-i-rơ, khi Ngài diệt hết dân Hô-rít trước mặt họ, rồi con cháu Ê-sau tiếp nối họ sống tại nơi ấy cho đến ngày nay.
\s5
\v 23 Con dân A-vim sống trong các ngôi làng ở tận vùng Ga-xa dân Cáp-tô-rim từ vùng Cáp-tô đã tiêu diệt họ và đến sống tại xứ của họ.)
\s5
\v 24 “Nào, hãy đứng dậy lên đường vượt qua thung lung lũng Ạt-nôn; kìa, Ta đã phó vào tay các ngươi Si-hôn, người A-mô-rít, vua Hết-bôn, và xứ của ông ta. Hãy bắt đầu chiếm hữu xứ và giao chiến với vua ấy.
\v 25 Bữa nay Ta sẽ khởi giáng xuống các dân dưới trời lòng sợ hãi và kinh khiếp đối với các ngươi; họ sẽ nghe tin về các ngươi và sẽ run rẩy, phiền não vì cớ các ngươi.
\s5
\v 26 Từ hoang mạc Kê-đê-mốt, tôi sai người đem tin đến Si-hôn, vua Hết-bôn, với lời lẽ hòa hảo, rằng:
\v 27 Xin cho tôi đi ngang qua xứ vua; tôi sẽ đi theo con đường chính; tôi sẽ không quay qua bên phải hay bên trái.
\s5
\v 28 Xin vua bán thức ăn cho tôi; xin vua bán nước uống cho tôi; chỉ xin phép vua cho tôi đi băng ngang qua thôi;
\v 29 như con cháu của Ê-sau sống tại Sê-i-rơ và như dân Mô-áp sống tại A-rơ đã làm cho tôi; cho đến khi chúng tôi qua sông Giô-đanh để vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi ban cho chúng tôi.
\s5
\v 30 Nhưng Si-hôn, vua Hết-bôn, không để chúng ta đi qua, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã khiến tâm trí vua ấy cứng cõi, tấm lòng ông ta ương ngạnh, để Ngài có thể dùng sức mạnh các ngươi đánh bại ông ta, là điều ngày nay Ngài đã làm.
\v 31 Giê-hô-va phán với tôi: ‘Đó, Ta đã khởi sự phó cho các ngươi Si-hôn và xứ ông ta; hãy chiếm hữu nó, để các ngươi được hưởng lấy xứ ấy.
\s5
\v 32 Rồi Si-hôn cùng toàn thể chiến binh mình kéo ra giao chiến với chúng ta tại Gia-hát.
\v 33 Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta phó vua ấy vào tay chúng ta, và chúng ta đánh bại ông ta; chúng ta giết chết vua ấy, cùng các con trai và toàn bộ đạo binh của ông ta.
\s5
\v 34 Chúng ta chiếm hết các thành của vua ấy vào thời đó và diệt sạch tất cả các thành có người ở, kể cả phụ nữ và trẻ con, chẳng chừa lại một ai.
\v 35 Chỉ có gia súc là chúng ta đoạt lấy làm chiến lợi phẩm cho mình, cùng với chiến lợi phẩm từ các thành mà chúng ta đã chiếm.
\s5
\v 36 Từ A-rô-e ở mé thung lũng Ạt-nôn và từ thành trong trũng, cho đến Ga-la-át chẳng có thành nào cao quá sức chúng ta. Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta giúp chúng ta đánh thắng mọi quân thù trước mặt chúng ta.
\v 37 Chỉ còn lại xứ của con cháu Am-môn là anh em không đụng đến, cũng như toàn thể mé sông Gia-bốc, cùng các thành phố ở vùng đồi núi tức mọi nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta cấm chúng ta đụng đến.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Rồi chúng ta rẽ sang con đường đi lên Ba-san. Óc, vua Ba-san cùng toàn thể chiến binh mình kéo đến giao chiến với chúng ta tại Ếch-rê.
\v 2 Giê-hô-va phán với tôi: Đừng sợ vua ấy, vì Ta đã cho các ngươi thắng hơn ông ta và khiến toàn đạo binh cùng xứ sở ông ta phải phục các ngươi. Các ngươi sẽ xử vua ấy như các ngươi đã xử Si-hôn, vua dân A-mô-rít, sống tại Hết-bôn.
\s5
\v 3 Vậy là Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta cho chúng ta thắng hơn Óc vua Ba-san cùng toàn đạo binh ông ta bị chúng ta đánh bại. Chúng ta giết chết vua ấy, và chẳng có người nào của ông ta còn sống.
\v 4 Chúng ta chiếm hết các thành của ông ta lúc đó; chẳng có thành nào chúng ta không chiếm được tức toàn thể vùng Ạt-gốp, vương quốc của Óc tại Ba-san.
\s5
\v 5 Đó đều là các thành kiên cố có tường cao, với cổng và then cài; ngoài ra còn có rất nhiều làng mạc không có tường thành.
\v 6 Chúng ta tiêu diệt họ hoàn toàn, như chúng ta đã làm với Si-hôn, vua Hết-bôn, tức tiêu diệt hết mọi thành có người ở, kể các phụ nữ và trẻ nhỏ.
\v 7 Nhưng chúng ta đoạt lấy toàn thể gia súc và của cải của các thành này làm chiến lợi phẩm.
\s5
\v 8 Khi ấy, chúng ta chiếm lấy xứ của hai vua A-mô-rít ở bên kia sông Giô-đanh, từ thung lũng Ạt-nôn đến núi Hẹt-môn
\v 9 (dân Si-đôn gọi núi Hẹt-môn là Si-ri-ôn, còn dân A-mô-rít gọi là Sê-ni-rơ);
\v 10 và tất cả các thành ở vùng đồng bằng, toàn vùng Ga-la-át, cùng toàn vùng Ba-san, cho đến tận Sanh-ca và Ết-rê-I, tức các thành thuộc vương quốc của Óc, vua Ba-san.
\s5
\v 11 (Vì trong dân sót lại của người Rê-pha-im chỉ còn Óc, vua Ba-san; gường của vua này là gường sắt; chẳng phải nó vẫn còn tại Ráp-ba, nơi con cháu Am-môn đang sinh sống đó sao? Gường đó dài chín cu-đê và rộng bốn cu-đê, theo cách người ta tính.)
\s5
\v 12 Xứ mà chúng ta chiếm hữu này từ A-rô-e, cạnh bên trũng Ạt-nôn, và phân nửa vùng đồi núi Ga-la-át, cùng các thành nó lúc ấy tôi chia cho bộ tộc Ru-bên và bộ tộc Gát.
\v 13 Phần còn lại của Ga-la-át cùng toàn thể xứ Ba-san, vương quốc của Óc, thì tôi chia cho phân nửa chỉ tộc Ma-na-se: toàn bộ vùng Ạt-gốp, và cả xứ Ba-san. (Vùng đất này được gọi là xứ của người Rê-pha-im.
\s5
\v 14 Giai-rơ, hậu tự của Ma-na-se, chiếm lấy toàn vùng Ạt-gốp cho đến ranh giới của người Ghê-su-rít và Ma-ca-thít. Ông gọi vùng đất này, tức Ba-san, bằng chính tên mình, là Ha-vốt Giai-rơ, cho đến ngày nay.)
\s5
\v 15 Tôi chia Ga-la-át cho Ma-ki.
\v 16 Với bộ tộc Ru-bên và bộ tộc Gát, tôi chia cho họ phần đất từ Ga-la-át cho đến thung lũng Ạt-nôn với ranh giới ở chính giữa thung lũng và đến sông Gia-bốc, tức là phần giáp ranh với con cháu Am-môn.
\s5
\v 17 Một đoạn ranh giới khác cũng là đồng bằng thung lũng sông Giô-đanh, từ Ki-nê-rết đến biển A-ra-ba (tức Biển Chết), đến sườn núi Phích-ga về phía đông.
\s5
\v 18 Lúc đó, tôi ban lệnh cho anh em, rằng: Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban cho anh em đất này để làm cơ nghiệp; tất cả anh em nào là chiến binh sẽ cầm khí giới đi qua trước anh em mình, tức dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 19 Nhưng vợ và con cái anh em, cùng gia súc (tôi biết anh em có nhiều gia súc), sẽ ở lại trong các thành mà tôi đã chia cho anh em,
\v 20 cho đến khi Giê-hô-va ban sự yên nghỉ cho anh em của anh em, tương tự như Ngài đã làm với anh em, cho đến khi họ cũng chiếm hữu được xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ban cho họ bên kia sông Giô-đanh; lúc đó, anh em, tức mọi người trong vòng anh em, sẽ trở về cơ ngơi mình mà tôi đã phân chia cho.
\s5
\v 21 Lúc đó tôi ban lệnh cho Giô-suê, rằng: Mắt anh đã chứng kiến mọi việc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình đã làm cho hai vua kia; Giê-hô-va sẽ làm tương tự với tất cả các vương quốc mà anh em đi qua.
\v 22 Anh đừng sợ họ, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chiến đấu cho anh em.
\s5
\v 23 Lúc đó, tôi cầu khẩn Giê-hô-va, rằng
\v 24 Ôi, lạy Chúa Giê-hô-va, Ngài đã khởi tỏ cho tôi tớ Ngài thấy sự vĩ đại và tay mạnh mẽ của Ngài; vì có thần nào trên trời hay dưới đất làm được những việc như Ngài làm, và hành động đầy quyền năng giống như Ngài?
\v 25 Con xin Ngài cho con được qua sông để nhìn thấy xứ tốt đẹp bên kia sông, cái xứ sở đồi núi tốt đẹp ấy cùng với Li-ban.
\s5
\v 26 Nhưng, vì anh em, Giê-hô-va nổi giận với tôi; Ngài không nhậm lời tôi. Giê-hô-va nói với tôi: Thế này cũng đủ cho con đừng bao giờ nói đến chuyện này nữa:
\v 27 hãy đi lên đỉnh núi Phích-ga và nhướng mắt nhìn về hướng tây, hướng bắc, hướng nam và hướng đông; hãy nhìn để thấy, vì con sẽ không được qua sông Giô-đanh đâu.
\s5
\v 28 Thay vào đó, hãy chỉ dẫn cho Giô-suê, khích lệ và khiến anh ta vững chí, vì anh ta sẽ qua sông Giô-đanh trước mặt dân này, và anh ta sẽ cho họ kế thừa xứ mà con sẽ thấy.
\v 29 Như vậy, chúng ta cứ ở trong thung lũng đối ngang Bết Phê-ô.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Giờ đây, hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe các luật lệ và quy định tôi sẽ chỉ dạy anh em mà làm theo, để anh em được sống và bước vào chiếm hữu xứ mà Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh, ban cho anh em.
\v 2 Anh em không được thêm thắt gì vào lời tôi truyền dạy, cũng đừng cắt xén bớt đi, nhưng phải tuân giữ trọn các giới luật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà tôi sắp truyền dạy anh em.
\s5
\v 3 Chính mắt anh em đã thấy việc Giê-hô-va làm trong vụ Ba-anh Phê-ô; những kẻ theo Ba-anh Phê-ô đều bị Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em diệt hết khỏi giữa anh em.
\v 4 Nhưng mọi kẻ trung tín với Giê-hô-va Đức Chúa Trời giữa vòng anh em đến nay vẫn sống.
\s5
\v 5 Ấy, tôi đã dạy cho anh em các luật lệ và quy định, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời tôi đã truyền bảo tôi, để anh em thực hiện trong xứ mà anh em sẽ đi vào nhận lãnh làm cơ nghiệp.
\v 6 Vậy nên anh em phải gìn giữ và vâng theo các luật lệ ấy; vì đó chính là sự khôn ngoan, sự hiểu biết của anh em trước mặt các dân sẽ nghe về mọi luật lệ này và nói: Quả hẳn dân tộc vĩ đại này thật khôn ngoan và hiểu biết.
\s5
\v 7 Vì có dân tộc nào khác có một vị thần ở rất gần mình như Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta bất cứ lúc nào chúng ta kêu cầu Ngài?
\v 8 Có nước lớn nào có được những luật lệ và quy định thật công chính như cả luật pháp mà tôi đang đặt để trước mặt anh em ngày nay?
\s5
\v 9 Anh em chỉ cần chú ý giữ lấy mình, để khỏi quên những điều mắt anh em đã thấy, sao cho trọn những ngày của cuộc đời mình các điều đó sẽ không lìa khỏi lòng anh em. Thay vào đó, anh em phải thuật lại cho con, cháu mình
\v 10 ngày mà anh em đứng trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại Hô-rếp, khi Giê-hô-va bảo tôi: Hãy tập họp dân chúng lại, rồi Ta sẽ cho họ nghe được lời Ta phán, để họ học tập kính sợ Ta trọn những ngày họ sống trên đất, cũng như để họ dạy lại cho con cái mình.
\s5
\v 11 Anh em đến gần và đứng ở chân núi. Hòn núi bùng cháy với ngọn lửa bốc lên đến giữa trời, có sự tối tăm, mây đen dày đặc.
\v 12 Giê-hô-va từ giữa đám lửa phán với anh em; anh em nghe được tiếng nói chẳng thấy hình dạng nào, mà chỉ nghe tiếng.
\s5
\v 13 Ngài tuyên đọc cho anh em giao ước Ngài, tức mười điều răn, mà Ngài truyền cho anh em phải thực hiện. Ngài viết các điều răn trên hai bảng đá.
\v 14 Vào lúc đó, Giê-hô-va truyền bảo tôi dạy cho anh em các luật lệ và quy định, để anh em làm theo trong xứ anh em sẽ vào chiếm hữu.
\s5
\v 15 Vậy nên chính anh em phải rất cẩn thận, vì anh em chẳng thấy bất kỳ hình dạng nào vào ngày mà Giê-hô-va từ trong đám lửa phán dạy anh em tại Hô-rếp.
\v 16 Hãy cẩn thận kẻo anh em khiến mình đồi bại mà đi chạm khắc một pho tượng giống sinh vật nào đó, có hình dạng của đàn ông hay phụ nữ,
\v 17 hoặc hình dạng loài thú nào trên mặt đất, hoặc hình dạng loài chim nào bay trên trời,
\v 18 hoặc hình dạng loài bò sát nào dưới đất, hay hình dạng loài cá nào trong nước dưới đất.
\s5
\v 19 Hãy cẩn thận khi anh em ngước mắt lên trời và ngắm nhìn mặt trời, mặt trăng hoặc các ngôi sao tức toàn bộ các thiên thể hãy cẩn thận kẻo anh em sẽ bị dẫn dụ tôn thờ và sùng bái chúng, vốn chỉ là những vật thể mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã cắt đặt ở đó cho toàn thể loài người dưới trời.
\v 20 Giê-hô-va đã chọn và đem anh em ra khỏi lò lửa sắt, tức xứ Ai Cập, để anh em làm một dân trước mặt Ngài, làm cơ nghiệp thuộc riêng về Ngài, như ngày nay.
\s5
\v 21 Hơn nữa, Giê-hô-va đã nổi giận với tôi vì cớ anh em; Ngài đã thề rằng tôi sẽ không được qua sông Giô-đanh, không được vào vùng đất tốt đẹp mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ ban cho anh em làm cơ nghiệp.
\v 22 Thay vì vậy, tôi phải chết tại xứ này; tôi không được qua sông Giô-đanh, nhưng anh em sẽ qua và chiếm hữu xứ tốt đẹp đó.
\s5
\v 23 Hãy canh giữ mình để anh em khỏi quên giao ước của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, là giao ước Ngài lập với anh em, để rồi chạm khắc cho mình một hình tượng có hình dạng như bất kỳ vật gì mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã cấm.
\v 24 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em là đám lửa thiêu đốt, là Đức Chúa Trời ghen tương.
\s5
\v 25 Khi anh em đã sinh con đẻ cháu, và khi anh em đã vào ở trong xứ ấy lâu ngày, nếu anh em khiến mình đồi bại và đi làm một tượng chạm có hình dạng của vật gì bất kỳ, tức làm ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, để chọc giận Ngài
\v 26 thì ngày nay tôi kêu gọi trời và đất làm chứng chống lại anh em, rằng anh em sẽ sớm bị diệt vong khỏi xứ mà anh em sắp đi qua sông Giô-đanh để chiếm hữu; anh em sẽ không ở dài lâu trong xứ đó, nhưng sẽ bị tận diệt.
\s5
\v 27 Giê-hô-va sẽ khiến anh em bị tan tác giữa các dân, và anh em sẽ chỉ còn lại số ít trong các nước mà Giê-hô-va dẫn anh em đến.
\v 28 Ở đó, anh em sẽ phục vụ các thần khác, vốn là sản phẩm bằng gỗ, bằng đá bởi tay người ta, chẳng thấy, chẳng nghe, chẳng ăn, cũng chẳng ngửi.
\s5
\v 29 Rồi ở đó, anh em sẽ tìm kiếm Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, và anh em sẽ gặp được Ngài, khi anh em tìm kiếm Ngài hết lòng, hết linh hồn.
\s5
\v 30 Giữa cảnh khốn cùng, khi mọi điều đó đã xảy đến cho anh em trong những ngày về sau này, anh em sẽ trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và chịu nghe tiếng Ngài.
\v 31 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em là Đức Chúa Trời hay thương xót; Ngài không bỏ anh em hoặc diệt mất anh em, cũng không quên giáo ước mà Ngài đã thề với tổ phụ anh em.
\s5
\v 32 Vì, anh em cứ hỏi về những ngày đã qua, tức những ngày trước đây, kể từ thời Đức Chúa Trời tạo dựng con người trên đất, từ góc trời này đến góc trời kia anh em cứ hỏi xem đã từng có bất kỳ việc nào giống như việc lớn lao này, hoặc có ai từng nghe việc gì tương tự hay không?
\v 33 Đã từng có dân tộc nào nghe tiếng Đức Chúa Trời phán từ giữa đám lửa như anh em đã nghe mà vẫn còn sống chăng?
\s5
\v 34 Hoặc Đức Chúa Trời có bao giờ dùng thử nghiệm, dùng dấu hiệu, dùng phép lạ, dùng chiến tranh, dùng tay quyền năng, dùng sự bày tỏ quyền phép lớn lao, dùng sự kinh hãi ra đi và cứu về cho mình một dân từ giữa một dân khác, như mọi điều mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã làm cho anh em trước mặt anh em tại Ai Cập chăng?
\s5
\v 35 Những việc đó đã được tỏ ra cho anh em, để anh em biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời, ngoài Ngài chẳng có ai khác.
\v 36 Từ trên trời Ngài khiến anh em nghe tiếng Ngài, để Ngài chỉ dạy anh em; dưới đất, Ngài khiến anh em thấy đám lửa lớn; anh em nghe lời Ngài phán ra từ giữa đám lửa.
\s5
\v 37 Vì Ngài yêu mến các tổ phụ anh em, nên Ngài đã chọn hậu tự của họ, và đem anh em ra khỏi Ai Cập bằng sự hiện diện, bằng quyền năng vĩ đại,
\v 38 để đuổi khỏi trước mặt anh em các nước lớn hơn, mạnh hơn anh em, để đem anh em vào và ban đất của họ cho anh em làm cơ nghiệp.
\s5
\v 39 Vì vậy, ngày nay anh em phải biết và phải tạc ghi vào lòng, rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời trên trời cao lẫn dưới đất này; chẳng có ai khác.
\v 40 Anh em phải giữ lấy các luật lệ và giới luật Ngài mà tôi truyền dạy anh em ngày nay, để anh em và con cháu anh em sau này được phước, và để anh em được sống lâu ngày trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ban cho anh em mãi mãi.”
\s5
\v 41 Rồi Môi-se chọn ba thành phố trên bờ phía đông sông Giô-đanh,
\v 42 để người nào cũng có thể chạy vào ẩn náu nếu lỡ tay giết chết ai đó không phải do có tư thù từ trước. Khi chạy đến một trong các thành này thì người đó có thể được sống.
\v 43 Đó là thành Bê-xe trong hoang mạc, là vùng đồng bằng, cho người thuộc bộ tộc Ru-bên; thành Ra-mốt tại Ga-la-át cho người thuộc bộ tộc Gát; và thành Gô-lan ở Ba-san cho người thuộc bộ tộc Ma-na-se.
\s5
\v 44 Đây là luật pháp mà Môi-se đặt trước mặt dân Y-sơ-ra-ên;
\v 45 đây là các quy định giao ước, luật lệ và các quy định khác mà ông truyền cho dân Y-sơ-ra-ên khi họ ra khỏi Ai Cập,
\v 46 khi họ ở phía đông sông Giô-đanh, trong thung lũng đối ngang Bết Phê-ô, trong xứ của Si-hôn, vua dân A-mô-rít, sống tại Hết-bôn, vốn bị Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên đánh bại khi ra khỏi Ai Cập.
\s5
\v 47 Họ chiếm hữu xứ của vua này, cùng xứ của Óc, vua Ba-san tức hai vua A-mô-rít ở bên kia sông Giô-đanh về phía đông.
\v 48 đất này bắt đầu từ A-rô-e, cạnh thung lũng Ạt-nôn, trải dài đến núi Si-ôn (hay núi Hẹt-môn),
\v 49 gồm toàn thể đồng bằng thung lũng sông Giô-đanh, về phía đông bên kia sông Giô-đanh, cho đến biển A-ra-ba, dưới các sườn núi Phích-ga.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Môi-se triệu tập toàn dân Y-sơ-ra-ên, rồi nói với họ: “Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe các luật lệ và quy định mà tôi sẽ nói cho anh em ngày nay, để anh em học biết và gìn giữ những điều ấy.
\v 2 Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã lập một giao ước với chúng ta tại Hô-rếp.
\v 3 Giê-hô-va không lập giao ước đó với tổ phụ chúng ta, mà là với chúng ta, toàn thể những người còn sống tại đây hôm nay.
\s5
\v 4 Từ trong đám lửa trên núi, Giê-hô-va đã phán với anh em mặt đối mặt.
\v 5 (Khi đó, tôi ở giữa Giê-hô-va và anh em để tỏ lại cho anh em lời của Ngài; vì anh em sợ hãi đám lửa và không dám đi lên núi). Giê-hô-va phán:
\v 6 Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi, đã đem ngươi ra khỏi xứ Ai Cập, tức khỏi nhà nô lệ.
\s5
\v 7 Trước mặt Ta người không được thờ thần nào khác.
\v 8 Ngươi không được làm cho mình tượng chạm hoặc bất kỳ ảnh tượng nào của bất kỳ vật gì trên trời kia, hoặc dưới dất này, hoặc trong nước dưới đất.
\s5
\v 9 Ngươi không được sấp mình xuống trước chúng nó hoặc phục vụ chúng nó, vì Ta, Giê-hô-va, Đức Chúa Trời ngươi, là Đức Chúa Trời hay ghen tuông. Ta hình phạt sự gian ác của tổ phụ bằng cách giáng hình phạt lên con cháu những kẻ ghét ta đến đời thứ ba, thứ tư,
\v 10 nhưng tỏ lòng thành tín đến ngàn đời cho những kẻ yêu mến Ta và giữ các điều răn Ta.
\s5
\v 11 Ngươi không được dùng danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình một cách bất kính, vì Giê-hô-va sẽ chẳng kể là vô tội kẻ dùng danh Ngài cách bất kính.
\s5
\v 12 Hãy tôn trọng ngày Sa-bát và giữ cho ngày ấy được thánh, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã truyền dạy ngươi.
\v 13 Ngươi sẽ ra sức làm mọi công việc mình trong sáu ngày;
\v 14 nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi. Trong ngày đó ngươi không được làm bất kỳ việc gì ngươi, con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hay bất kỳ súc vật gì của ngươi, hoặc bất kỳ người ngoại quốc nào trong nhà ngươi. Làm vậy là để tôi trai, tớ gái của ngươi cũng được nghỉ ngơi giống như ngươi.
\s5
\v 15 Ngươi phải nhớ rằng mình đã từng làm đầy tớ trong xứ Ai Cập, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã đem ngươi ra khỏi đó bằng bàn tay mạnh sức và sự thể hiện quyền năng. Vậy nên Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã truyền bảo ngươi phải giữ ngày Sa-bát.
\s5
\v 16 Hãy tôn kính cha mẹ mình, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi đã truyền dạy ngươi, để ngươi có thể sống lâu ngày trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ngươi ban cho, và để ngươi được phước.
\s5
\v 17 Ngươi không được giết người.
\v 18 Ngươi không được phạm tội gian dâm.
\v 19 Ngươi không được trộm cắp.
\v 20 Ngươi không được làm chứng dối hại người.
\s5
\v 21 Ngươi không được tham vợ người khác; ngươi không được tham nhà cửa, ruộng đồng, tôi trai, tớ gái, bò, lừa, hay bất kỳ vật gì của họ.
\s5
\v 22 Đó là những điều mà Giê-hô-va đã dùng tiếng lớn phán với cả hội anh em trên núi từ giữa đám lửa, đám mây và bóng tối đen kịt; Ngài chẳng thêm điều gì khác. Ngài viết các điều ấy ra trên hai bảng đá và trao cho tôi.
\s5
\v 23 Khi anh em nghe tiếng từ trong bóng tối phát ra, trong lúc ngọn núi đang bùng cháy, thì anh em đến gần tôi toàn thể các trưởng lão và lãnh đạo các bộ tộc anh em.
\v 24 Anh em bảo: “Kìa, Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi đã tỏ cho chúng tôi thấy vinh quang cùng sự vĩ đại của Ngài, và chúng tôi đã nghe tiếng Ngài phán từ giữa đám lửa; ngày nay chúng tôi thấy được rằng người ta vẫn có thể còn sống cho dù nghe tiếng Đức Chúa Trời phán với mình.
\s5
\v 25 Nhưng vì sao chúng tôi phải chết? Vì đám lửa lớn này sẽ thiêu hủy chúng tôi mất; nếu chúng tôi cứ nghe tiếng Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi thêm nữa, thì chúng tôi sẽ chết.
\v 26 Vì giữa mọi loài xác thịt, ngoài chúng tôi ra, có ai từng nghe tiếng của Đức Chúa Trời hằng sống phán ra từ giữa đám lửa mà vẫn sống, như chúng tôi đây?
\v 27 Về phần ông, ông hãy đi nghe mọi lời Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi phán, rồi nói lại cho chúng tôi mọi điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng tôi phán với ông; chúng tôi sẽ nghe theo và vâng giữ.
\s5
\v 28 Giê-hô-va nghe lời của anh em khi anh em nói với tôi. Ngài bảo tôi: Ta đã nghe lời của dân này, những gì họ nói với con. Điều họ nói đó cũng đúng.
\v 29 Phải chi họ có tấm lòng như vậy, để họ biết tôn kính Ta và luôn vâng giữ mọi điều răn Ta, nhờ đó họ và con cháu họ được phước mãi mãi!
\v 30 Con hãy đi nói với họ: “Hãy quay trở về lều mình.”
\s5
\v 31 Riêng phần con, con hãy cứ đứng đây với Ta, rồi Ta sẽ cho con biết mọi điều răn, luật lệ và quy định mà con sẽ dạy lại cho họ, để họ giữ lấy các điều ấy trong xứ mà Ta sẽ ban cho họ sở hữu.
\s5
\v 32 Vậy nên anh em phải vâng giữ mọi điều mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã phán bảo anh em; anh em không được quay sang phải hoặc sang trái.
\v 33 Anh em phải bước đi trong mọi đường lối mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã truyền dạy, để anh em được sống, để anh em được phước, và để anh em được ở lâu dài trong xứ mà anh em sẽ nhận được.
\s5
\c 6
\p
\v 1 là các điều răn, luật lệ và quy định mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã truyền bảo tôi dạy cho anh em, để anh em vâng giữ trong xứ mà anh em sẽ vượt qua sông Giô-đanh chiếm hữu;
\v 2 để anh em cùng con cháu biết tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, vâng giữ mọi luật lệ và điều răn mà tôi truyền dạy anh em, trọn những ngày của đời sống anh em, nhờ đó anh em được sống lâu.
\s5
\v 3 Vậy nên, hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe những điều này và giữ lấy, để anh em được phước, để anh em được đông thêm lên trong xứ đượm sữa và mật, như điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em đã hứa với anh em.
\s5
\v 4 Này, Y-sơ-ra-ên, hãy nghe đây: Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta là duy nhất.
\v 5 Anh em phải yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình với cả tấm lòng, cả linh hồn, cả sức lực mình.
\s5
\v 6 Những điều mà tôi truyền dạy cho anh em ngày nay phải ở trong lòng anh em;
\v 7 anh em phải ân cần dạy những điều ấy cho con cháu mình; anh em phải nói đến những điều ấy khi ngồi trong nhà, khi đi ngoài đường, khi nằm xuống ngủ, và khi thức dậy.
\s5
\v 8 Anh em phải đeo chúng như một dấu trên tay mình, và chúng phải được dùng như một vật nhắc nhớ đeo giữa hai mắt anh em.
\v 9 Anh em phải viết chúng trên cột cửa và cổng nhà mình.
\s5
\v 10 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đem anh em vào xứ mà Ngài đã thề hứa với tổ phụ anh em, tức với Áp-ra-ham, với Y-sác, với Gia-cốp, rằng Ngài sẽ ban cho anh em, là nơi có những thành to lớn, tốt đẹp không do anh em xây nên,
\v 11 những ngôi nhà với đủ thứ vật tốt không do anh em tạo ra, những bể chứa nước không do anh em đào, những vườn nho và cây ô liu không do anh em trồng, khi anh em ăn uống và no nê—
\v 12 lúc đó anh em phải cẩn thận để khỏi quên Giê-hô-va, Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai Cập, tức khỏi nhà nô lệ.
\s5
\v 13 Anh em phải tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, phải thờ phượng Ngài và phải chỉ danh Ngài mà thề hứa.
\v 14 Anh em không được đi theo các thần khác, tức thần của các dân tộc chung quanh
\v 15 vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, Đấng ở giữa anh em, là Đức Chúa Trời ghen tương e Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ nổi giận với anh em và diệt mất anh em khỏi mặt đất chăng.
\s5
\v 16 Anh em không được thử Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình như đã thử Ngài tại Ma-sa.
\v 17 Anh em phải sốt sắng vâng giữ các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cùng các giới mạng và luật lệ mà Ngài đã truyền dạy anh em.
\s5
\v 18 Anh em phải làm những việc phải lẽ, thiện lành trước mặt Giê-hô-va, để anh em được phước, và anh em được đi vào chiếm hữu xứ tốt đẹp mà Giê-hô-va đã thề hứa với tổ phụ anh em,
\v 19 và đuổi hết mọi kẻ thù khỏi trước mặt mình, như Giê-hô-va đã phán.
\s5
\v 20 Khi con cái anh em sau này hỏi anh em, rằng: Những thứ này là thế nào tức các quy định giao ước, các luật lệ cùng các quy định khác mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta đã truyền dạy cha đó?
\v 21 thì anh em phải trả lời cho con mình, rằng: Chúng ta trước đây làm nô lệ cho Pha-ra-ôn tại Ai Cập, nhưng Giê-hô-va đã dùng tay quyền năng đem chúng ta khỏi Ai Cập;
\v 22 trước mặt chúng ta, Ngài đã thực hiện các dấu hiệu, phép lạ lớn lao và kinh khiếp để hình phạt Ai Cập, Pha-ra-ôn và cả nhà ông ta;
\v 23 rồi Ngài đem chúng ta ra khỏi đó, để đưa chúng ta vào xứ mà Ngài đã thề hứa với tổ phụ chúng ta.
\s5
\v 24 Ghê-hô-va truyền dạy chúng ta phải luôn vâng giữ mọi luật lệ này, và kính sợ Đức Chúa Trời mình để được phước, và được Ngài cho sống còn như ngày nay.
\v 25 Nếu chúng ta vâng giữ mọi giới luật này trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình như Ngài đã truyền dạy, thì đó sẽ là sự công chính của chúng ta.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đem anh em vào xứ mà anh em đi chiếm hữu, và trục xuất nhiều dân tộc trước mặt anh em, tức các dân Hê-tít, Ghi-rê-ga-sít, A-mô-rít, Ca-na-an, Phê-rê-sít, Hê-vít, và Giê-bu-sít, bảy dân tộc lớn mạnh hơn anh em;
\s5
\v 2 và khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em giúp anh em thắng hơn họ lúc giao chiến, thì anh em phải đánh rồi diệt sạch họ đi. Anh em không được lập giao ước với họ, cũng đừng thương xót họ.
\v 3 Anh em không được kết sui gia cùng họ; anh em không được gả con gái mình cho con trai họ, cũng không được cưới con gái họ cho con trai mình.
\s5
\v 4 Vì họ sẽ khiến con trai anh em xây bỏ Giê-hô-va để thờ lạy các thần khác. Khi đó, Giê-hô-va sẽ nổi giận với anh em, và Ngài sẽ nhanh chóng tiêu diệt anh em.
\v 5 Anh em phải đãi họ thế này: anh em phải phá đổ bàn thờ, đập nát các tượng đá, đánh hạ các thần tượng A-sê-ra, và thiêu đốt các tượng đúc của họ.
\s5
\v 6 Vì anh em là dân được biệt riêng ra cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Ngài đã chọn anh em làm một dân thuộc riêng về Ngài giữa vòng mọi dân tộc khác trên mặt đất.
\s5
\v 7 Giê-hô-va đem lòng yêu mến anh em hay chọn lựa anh em không phải do anh em đông hơn các dân tộc khác vì anh em có số dân ít ỏi nhất trong mọi dân
\v 8 nhưng chỉ vì Ngài yêu thương anh em và Ngài muốn giữ lời Ngài đã thề hứa với tổ phụ anh em. Đó là lý do vì sao Giê-hô-va đã dùng tay mạnh mẽ đem anh em ra và giải cứu anh em khỏi nhà nô lệ, khỏi tay Pha-ra-ôn, vua Ai Cập.
\s5
\v 9 Vì vậy, hãy biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình chính là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời chung thủy, Đấng giữ giao ước và lòng thành tín đến cả ngàn đời với kẻ yêu mến Ngài và vâng giữ điều răn Ngài,
\v 10 nhưng ra mặt báo trả những kẻ ghét Ngài, để diệt họ đi; Ngài sẽ không nương tay với bất kỳ người nào ghét Ngài; Ngài sẽ báo trả họ ra mặt.
\v 11 Vậy nên anh em phải giữ các điều răn, luật lệ và quy định mà tôi đã truyền dạy anh em ngày nay, mà thực hiện.
\s5
\v 12 Nếu anh em nghe theo các quy định này, giữ lấy và thực hiện, thì đối cùng anh em, Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ giữ giao ước và lòng thành tín mà Ngài đã thề hứa với tổ phụ anh em.
\v 13 Ngài sẽ yêu thương anh em, ban phước cho anh em, và khiến anh em đông thêm lên; Ngài cũng sẽ ban phước cho con cháu anh em, cho thổ sản, ngũ cốc, rượu mới, và dầu của anh em, đồng thời khiến cho gia súc và con của đàn chiên anh em thêm đông đúc trong xứ mà Ngài thề hứa với các tổ phụ là sẽ ban cho anh em.
\s5
\v 14 Anh em sẽ được phước hơn mọi dân tộc khác; giữa vòng anh em sẽ chẳng có ai không con, dù là nam hay nữ, mà đàn gia súc anh em cũng vậy.
\v 15 Giê-hô-va sẽ cất đi mọi tật bệnh khỏi anh em; anh em sẽ chẳng phải chịu chứng bệnh quái ác nào tại Ai Cập mà anh em đã biết, nhưng Ngài sẽ giáng các bệnh đó trên mọi kẻ thù ghét anh em.
\s5
\v 16 Anh em phải diệt hết các dân mà Đức Chúa Trời giúp cho anh em thắng hơn, và mắt anh em không được thương xót họ. Anh em không được thờ lạy thần tượng của họ, vì đó sẽ là cái bẫy cho anh em.
\s5
\v 17 Anh em có thể nói trong lòng: Các dân này đông hơn mình; làm sao mình đánh đuổi họ được?
\v 18 nhưng đừng sợ họ; anh em phải nhớ lại những điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm cho Pha-ra-ôn và cho Ai Cập;
\v 19 các tai vạ mà mắt anh em đã chứng kiến, các dấu hiệu, các phép lạ, tay mạnh mẽ và sự thể hiện quyền năng mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em thi thố để giải cứu anh em. Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ làm tương tự đối với mọi dân tộc mà anh em sợ đó.
\s5
\v 20 Hơn nữa, Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ sai ong bắp cày đến giữa họ, cho đến khi những kẻ sót lại đang ẩn mình cũng sẽ bị diệt hết trước mặt anh em.
\v 21 Anh em không được kinh sợ họ, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời ở giữa anh em là Đức Chúa Trời vĩ đại và đáng sợ.
\v 22 Giê-hô va Đức Chúa Trời sẽ dần dần đuổi các dân đó khỏi trước mặt anh em. anh em sẽ không cùng lúc đánh bại họ, vì như vậy thú hoang sẽ thêm nhiều lên mà làm hại anh em.
\s5
\v 23 Nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời cho anh em được thắng khi anh em giao chiến với họ; Ngài sẽ khiến họ vỡ trận cho đến khi họ bị tiêu diệt.
\v 24 Ngài sẽ phó các vua họ vào tay anh em, và anh em sẽ khiến danh họ bị diệt mất dưới trời. Sẽ chẳng có ai đứng nổi được trước mặt anh em, cho đến khi anh em đã tiêu diệt họ.
\s5
\v 25 Anh em sẽ thiêu đốt các tượng chạm thần của họ; đừng tham muốn bạc hay vàng bọc dát chúng và tìm cách chiếm đoạt cho mình, để rồi vì đó mà sa vào bẫy, vì vật đó thật kinh tởm đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em.
\v 26 Anh em không được đem bất kỳ vật kinh tởm nào vào nhà mình và thờ lạy nó. Anh em phải gớm ghê và khinh ghét nó, vì nó chỉ đáng bị diệt.
\s5
\c 8
\p
\v 1 Anh em phải vâng giữ tất cả giới luật mà tôi truyền cho anh em ngày nay, để anh em được sống và trở nên đông đúc, cũng như được vào chiếm hữu xứ mà Giê-hô-va đã thề hứa với tổ phụ anh em.
\v 2 Anh em phải nhớ lại mọi nẻo đường mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã dẫn dắt anh em đi qua suốt bốn mươi năm nay trong hoang mạc, để Ngài hạ anh em xuống và thử anh em, để biết lòng anh em như thế nào liệu anh em có vâng giữ các điều răn Ngài hay không.
\s5
\v 3 Ngài hạ anh em xuống, khiến anh em phải đói, để rồi nuôi sống anh em bằng ma-na, là thứ anh em trước đó chưa biết, mà cả cha ông anh em cũng chưa từng biết. Ngài làm vậy để khiến anh em hiểu rằng người ta sống chẳng phải chỉ nhờ bánh thôi đâu; đúng hơn, ấy là nhờ mọi lời ra từ miệng Giê-hô-va mà người ta được sống.
\s5
\v 4 Trong bốn mươi năm ấy, áo quần trên người anh em không cũ mòn, chân anh em không phù sưng lên.
\v 5 Anh em phải hiểu trong lòng rằng người cha sửa phạt con mình thể nào thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em cũng sửa phạt anh em thể ấy.
\v 6 Anh em phải vâng giữ các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, để bước đi trong các đường lối Ngài và tôn kính Ngài.
\s5
\v 7 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sắp đem anh em vào một xứ tốt đẹp, một xứ có nhiều khe, suối, mạch nước, tuôn tràn trong các thung lũng và vùng núi đồi,
\v 8 xứ sở của lúa mì, lúa mạch, cây nho, cây vả, cây lựu; một xứ đượm dầu ô liu và mật ong.
\s5
\v 9 Đó là xứ nơi anh em được ăn bánh no nê, được sống sung túc; là xứ mà sắt thì nhiều như đá và anh em có thể đào được đồng từ các đồi, núi.
\v 10 Anh em sẽ ăn và được no nê, rồi anh em sẽ chúc tụng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình về xứ tốt đẹp mà Ngài ban cho anh em.
\s5
\v 11 Phải cẩn thận để anh em đừng quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình hoặc xao lãng các điều răn, quy định và luật lệ của Ngài mà tôi truyền cho anh em ngày nay.
\v 12 Để khi anh em ăn và được no nê, khi anh em xây nhà đẹp và được sống trong đó,
\s5
\v 13 khi đàn bò, đàn chiên của anh em sinh sôi, khi bạc, vàng của anh em và mọi thứ anh em có thêm nhiều lên
\v 14 thì lòng anh em khỏi tự cao và quên mất Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, Đấng đã đem anh em ra khỏi Ai Cập, tức khỏi nhà nô lệ.
\s5
\v 15 Có thể lắm anh em sẽ quên Đấng đã dẫn dắt mình băng qua hoang mạc rộng lớn, kinh khiếp, nơi có rắn lửa và bọ cạp, qua vùng đất khô hạn chẳng có chút nước; lúc đó Giê-hô-va đã khiến nước từ hòn đá lửa tuôn ra cho anh em.
\v 16 Giê-hô-va đã nuôi sống anh em trong hoang mạc bằng ma-na, là thứ mà tổ phụ anh em chưa từng biết, để hạ anh em xuống và để thử nghiệm anh em, để rồi cuối cùng ban phước cho anh em;
\v 17 nếu không, anh em có thể tự nhủ trong lòng rằng: Chính năng lực và sức mạnh của bàn tay ta đã làm nên cơ nghiệp này.
\s5
\v 18 Nhưng anh em phải nhớ đến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, vì chính Ngài ban cho anh em năng lực để tạo ra những của cải ấy, để Ngài làm thành giao ước mà Ngài đã thề với các tổ phụ anh em, như anh em thấy ngày nay.
\v 19 Nếu anh em quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và đi theo các thần khác, thờ lạy chúng nó, tôn kính chúng nó, thì ngày nay tôi cảnh cáo anh em, rằng anh em hẳn sẽ bị diệt mất.
\v 20 Các dân tộc kia bị Giê-hô-va diệt mất trước mặt anh em thể nào, thì anh em cũng sẽ bị diệt mất y như vậy, vì anh em không chịu nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Hỡi Y-sơ-ra-ên, hãy nghe đây; ngày nay anh em sắp đi qua sông Giô-danh, để vào đánh đuổi các dân tộc lớn, mạnh hơn mình, chiếm lấy những thành lớn, vách cao đến tận trời,
\v 2 một giống dân cao lớn, tức các con cháu A-na-kim mà anh em đã biết; về giống dân ấy anh em đã nghe người ta nói: Ai có thể địch lại con cháu A-nác?
\s5
\v 3 Vậy nên hãy biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em là Đấng đi trước anh em như đám lửa thiêu nuốt; Ngài sẽ hủy diệt họ, và hạ họ xuống trước mặt anh em; nhờ đó anh em sẽ đánh đuổi được họ và tiêu diệt họ nhanh chóng.
\s5
\v 4 Khi Giê-hô-va đã trục xuất họ khỏi trước mặt anh em, thì anh em đừng tự nhủ trong lòng, rằng: Nhờ mình công chính mà Giê-hô-va đã đem mình vào chiếm hữu xứ này, vì ấy là do sự gian ác của các dân tộc kia mà Giê-hô-va đánh đuổi họ trước mặt anh em.
\s5
\v 5 Chẳng phải nhờ sự công bình của anh em hoặc nhờ lòng chính trực mà anh em sẽ được vào chiếm hữu xứ của họ; nhưng là do sự gian ác của các dân tộc đó mà Đức Chúa Trời anh em đánh đuổi họ trước mặt anh em, để Ngài làm thành lời Ngài đã thề hứa với các tổ phụ anh em, tức với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp.
\s5
\v 6 Vì vậy, phải biết rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em không ban cho anh em xứ tốt đẹp này vì sự công chính của anh em; anh em vốn là một dân ương ngạnh.
\s5
\v 7 Phải nhớ, và không được quên, rằng anh em đã từng chọc giận Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình trong hoang mạc; từ ngày anh em ra khỏi Ai Cập cho đến khi anh em vào nơi này, anh em vẫn thường phản nghịch Giê-hô-va.
\v 8 Ngoài ra, tại Hô-rếp, anh em cũng chọc giận Giê-hô-va, khiến Giê-hô-va nổi thạnh nộ muốn diệt mất anh em.
\s5
\v 9 Khi tôi lên núi để nhận các bảng đá, tức các bảng ghi chép giao ước mà Giê-hô-va lập với anh em, tôi đã ở lại trên núi bốn mươi ngày bốn mươi đêm; tôi chẳng ăn, cũng chẳng uống.
\v 10 Giê-hô-va trao cho tôi hai bảng đá do chính ngón tay Ngài viết ra; trên đó ghi lại một thứ, y như các lời mà Giê-hô-va đã rao báo cho anh em từ trong đám lửa vào ngày anh em nhóm hiệp.
\s5
\v 11 cuối bốn mươi ngày bốn mươi đêm đó thì Giê-hô-va trao cho tôi hai bảng đá, là các bảng đá giao ước.
\v 12 Giê-hô-va nói với tôi: Hãy đứng dậy và mau đi xuống núi, vì dân mà con đem ra khỏi Ai Cập đã bị băng hoại. Họ đã nhanh chóng tẻ tách khỏi con đường mà Ta đã truyền dạy. Họ đã đúc tượng cho mình.
\s5
\v 13 Ngoài ra, Giê-hô-va cũng nói với tôi: Ta đã thấy dân này rồi; chúng là một dân ương ngạnh.
\v 14 Con hãy để mặc Ta, để Ta tiêu diệt chúng và xóa sạch tên tuổi chúng khỏi dưới trời, rồi Ta sẽ khiến con trở nên một dân mạnh hơn, lớn hơn chúng.
\s5
\v 15 Vậy là tôi quay lại và đi xuống núi, trong lúc ngọn núi đang cháy.
\v 16 Tôi nhìn thì thấy anh em đã phạm tội với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Anh em đã tự đúc cho mình một bò con. Anh em đã từ bỏ con đường mà Giê-hô-va đã truyền dạy anh em.
\s5
\v 17 Tôi cầm hai bảng đá và ném khỏi tay mình, khiến chúng vỡ ra trước mặt anh em.
\v 18 Tôi lại sấp mình xuống trước Giê-hô-va trong bốn mươi ngày bốn mươi đêm; tôi chẳng ăn, cũng chẳng uống, vì mọi tội mà anh em đã phạm, khi anh em làm điều ác trước mặt Giê-hô-va, để chọc giận Ngài.
\s5
\v 19 Vì tôi sợ Giê-hô-va nổi thạnh nộ và tức giận với anh em, khiến Ngài tiêu diệt anh em. Nhưng lần này Giê-hô-va cũng chịu nghe tôi.
\v 20 Giê-hô-va nổi giận với A-rôn, muốn tiêu diệt anh ấy; lúc đó tôi cũng cầu thay cho A-rôn.
\s5
\v 21 Còn vật tội lỗi của anh em, tức tượng bò con mà anh em đã làm ra, thì tôi lấy đem đi đốt, đập và nghiền ra, cho đến khi nó mịn như bụi. Tôi đổ bụi đó xuống suối nước từ trên núi chảy xuống.
\s5
\v 22 Tại Tha-bê-ra, tại Ma-sa, và tại Kíp-rốt Ha-tha-va, anh em cũng chọc giận Giê-hô-va.
\v 23 Khi Giê-hô-va sai anh em từ Ca-đe Ba-nê-a ra đi và dặn rằng: Hãy đi lên chiếm hữu xứ mà Ta đã ban cho các ngươi, thì anh em đã nổi lên chống lại giới luật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, và anh em không chịu tin, cũng không chịu nghe tiếng Ngài.
\v 24 Anh em cứ luôn phản nghịch Giê-hô-va từ ngày tôi biết anh em.
\s5
\v 25 Vậy nên tôi nằm sấp mình xuống trước Giê-hô-va trong bốn mươi ngày bốn mươi đêm, vì Ngài nói sẽ tiêu diệt anh em.
\v 26 Tôi cầu nguyện với Giê-hô-va, rằng: Ôi, lạy Chúa Giê-hô-va, xin Ngài đừng hủy diệt dân Ngài, là cơ nghiệp mà Ngài đã dùng ơn lớn giải cứu, đã dùng tay mạnh sức mà đem ra khỏi Ai Cập.
\s5
\v 27 Xin hãy nhớ lại các đầy tớ Ngài là Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp; xin đừng chấp sự ngang bướng của dân này, cũng như sự gian ác và tội lỗi họ,
\v 28 e rằng xứ mà Ngài đã đem chúng tôi ra khỏi, sẽ nói: “Vì Giê-hô-va không thể đem chúng vào đất mà Ngài đã hứa cho chúng, và vì Ngài ghét bỏ chúng, nên Ngài đã đưa chúng vào hoang mạc rồi giết đi.”
\v 29 Nhưng họ là dân Chúa và cơ nghiệp của Ngài, đã được Ngài giải cứu bằng sức mạnh lớn và bằng sự thể hiện quyền năng Ngài.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Lúc đó, Giê-hô-va nói với tôi: Con hãy đục hai bảng đá giống lúc đầu, rồi đi lên trên núi đây với Ta. Cũng hãy đóng một cái rương bằng cây.
\v 2 Ta sẽ viết lên các bảng đá ấy những lời trên hai bảng mà con đã làm vỡ kia, rồi con sẽ đặt chúng vào trong rương.
\s5
\v 3 Vậy là tôi làm một chiếc rương bằng cây keo và đục ra hai bảng đá giống lúc ban đầu, rồi tôi lên núi, tay cầm hai bảng đá ấy.
\v 4 Ngài viết lên các bảng đó lời Ngài đã viết lúc trước, tức mười điều răn mà Giê-hô-va đã tuyên phán với anh em từ trong đám lửa trên ngọn núi, vào ngày anh em nhóm hiệp; rồi Giê-hô-va trao lại cho tôi.
\s5
\v 5 Tôi quay trở xuống núi và để hai bảng đá ấy vào chiếc rương mình đã làm; hiện nó vẫn ở trong đó, như Giê-hô-va đã dặn bảo tôi.”
\s5
\v 6 (Dân Y-sơ-ra-ên đi từ Bê-rốt Bê-nê Gia-can đến Mô-sê-ra. A-rôn qua đời tại đó và cũng được chôn cất tại đó; con trai ông là Ê-lê-a-sa thay ông đảm nhận chức tế lễ.
\v 7 Từ đó, họ đi đến Gút-gô-đa, rồi từ Gút-gô-đa đến Dốt-ba-tha, là vùng có nhiều sông, suối.
\s5
\v 8 Lúc đó, Giê-hô-va chọn bộ tộc Lê-vi khiêng rương chứng cớ của Giê-hô-va, để đứng chầu trước Giê-hô-va, phục vụ Ngài, và nhân danh Ngài chúc phước cho dân chúng, như ngày nay.
\v 9 Vì vậy bộ tộc Lê-vi không được chia sản nghiệp cùng anh em mình. Giê-hô-va là sản nghiệp của họ, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã phán dạy họ.)
\s5
\v 10 “Tôi lưu lại trên núi như lần đầu, trong bốn mươi ngày bốn mươi đêm. Lần này Giê-hô-va cũng chịu nghe tôi; Giê-hô-va không còn muốn tiêu diệt anh em.
\v 11 Giê-hô-va nói với tôi: Hãy đứng dậy đi trước dân chúng và lãnh đạo họ lên đường; họ sẽ tiến vào chiếm hữu xứ mà Ta đã thề hứa với các tổ phụ là sẽ ban cho họ.
\s5
\v 12 Giờ đây, hỡi Y-sơ-ra-ên, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em có đòi hỏi anh em điều gì khác chăng, ngoài việc kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bước đi trong mọi đường lối Ngài, yêu mến Ngài, và hết lòng, hết linh hồn tôn thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình,
\v 13 vâng giữ các điều răn của Giê-hô-va cùng các luật lệ Ngài mà tôi truyền dạy anh em ngày nay để anh em được phước?
\s5
\v 14 Kìa, trời và trời của các tầng trời, đất với muôn vật trong đó, tất cả đều thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em.
\v 15 Chỉ vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời vui thích về các tổ phụ anh em và yêu mến họ, nên Ngài chọn anh em, tức con cháu họ, thay vì bất kỳ dân tộc nào khác, như Ngài làm ngày nay.
\s5
\v 16 Vậy nên hãy cắt bì tấm lòng anh em, và đừng ương ngạnh nữa.
\v 17 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em là Thần của các thần, Chúa của các chúa, là Đức Chúa Trời vĩ đại, là Đấng quyền năng và đáng sợ; Ngài không thiên vị ai, cũng chẳng nhận của hối lộ.
\s5
\v 18 Ngài thi hành công lý cho các cô nhi, quả phụ, và Ngài thể hiện tình thương đối với khách ngoại kiều, cho họ bánh ăn, áo mặc.
\v 19 Vậy nên anh em phải yêu thương khách ngoại kiều, vì anh em cũng từng là khách ngoại kiều tại xứ Ai Cập.
\s5
\v 20 Anh em phải kính sợ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình; anh em phải thờ phượng Ngài. Anh em phải gắn bó với Ngài, và anh em phải chỉ danh Ngài mà thề hứa.
\v 21 Ngài là Đấng anh em chúc tụng; Ngài là Đức Chúa Trời của anh em, Đấng đã thực hiện những việc vĩ đại, đáng sợ cho anh em mà chính mắt anh em đã chứng kiến.
\s5
\v 22 Các tổ phụ anh em khi xuống Ai Cập chỉ có bảy mươi người; giờ đây Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã khiến anh em đông như sao trời.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Vì vậy, anh em phải yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và phải luôn vâng giữ lời chỉ dạy, các luật lệ, các quy định, và các điều răn Ngài.
\s5
\v 2 Hãy lưu ý là không phải tôi đang nói với con cái anh em, vốn chưa từng biết hay chứng kiến hình phạt của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, sự vĩ đại, tay quyền phép, sự thể hiện quyền năng Ngài,
\v 3 tức các dấu hiệu và công việc Ngài làm tại Ai Cập cho Pha-ra-ôn, vua Ai Cập, và cho toàn xứ của vua ấy.
\s5
\v 4 Chúng cũng không thấy việc Ngài làm cho quân đội Ai Cập, cho ngựa và xe của họ; thể nào Ngài đã khiến cho nước biển Sậy nhấn chìm họ khi họ đuổi theo anh em, và thể nào Giê-hô-va đã hủy diệt họ cho đến ngày nay;
\v 5 hay những việc Ngài làm cho anh em trong hoang mạc cho đến khi anh em đến nơi này.
\s5
\v 6 Chúng cũng không chứng kiến việc Giê-hô-va làm cho Đa-than và A-bi-ram, các con trai của Ê-li-áp, con trai Ru-bên; thể nào đất đã há miệng nuốt chửng họ, cả nhà họ, lều trại họ, cùng mọi sinh vật theo họ, ngay giữa Y-sơ-ra-ên.
\v 7 mắt anh em đã chứng kiến mọi công việc vĩ đại mà Giê-hô-va đã làm.
\s5
\v 8 Vậy nên anh em phải vâng giữ mọi điều răn mà tôi truyền bảo cho anh em ngày nay, để anh em được nên mạnh mẽ đi vào nhận lấy xứ mà anh em sẽ vào để chiếm hữu;
\v 9 và để anh em được sống lâu ngày trong xứ mà Giê-hô-va đã thề hứa với các tổ phụ sẽ ban cho họ và cho con cháu họ, là xứ đượm sữa và mật.
\s5
\v 10 Vì đất mà anh em sẽ vào chiếm hữu đó không giống như xứ Ai Cập mà anh em từ đó ra đi, nơi anh em gieo giống và dùng chân mình mà tưới, giống như vườn rau cỏ;
\v 11 nhưng xứ mà anh em sẽ vào chiếm hữu là xứ nhiều đồi núi và thung lũng, được nhuần tưới nhờ nước mưa từ trời,
\v 12 là xứ Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em chăm sóc, nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em luôn để mắt đến, từ đầu năm đến cuối năm.
\s5
\v 13 Nếu các ngươi chăm chỉ nghe theo các điều răn mà Ta truyền cho các ngươi ngày nay, yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và phục vụ Ngài hết lòng, hết linh hồn,
\v 14 thì Ta sẽ ban mưa đúng mùa cho xứ các ngươi, cả mưa sớm lẫn mưa trễ, để các ngươi thu hoạch ngũ cốc, rượu mới và dầu mình.
\v 15 Ta sẽ ban cỏ trong đồng ruộng để nuôi gia súc các ngươi; các ngươi sẽ ăn và được no nê.
\s5
\v 16 Anh em phải cẩn thận, e lòng mình bị dụ dỗ xây bỏ Chúa mà phụng thờ các thần khác và quỳ lạy chúng,
\v 17 khiến Giê-hô-va nổi thạnh nộ với anh em mà đóng các tầng trời lại, không cho mưa xuống và đất không sinh sản hoa màu, và anh em sẽ nhanh chóng bị diệt mất khỏi xứ tốt đẹp mà Giê-hô-va ban cho mình chăng.
\s5
\v 18 Vì vậy, anh em hãy ghi tạc vào lòng và trí mình những lời mà tôi truyền cho anh em đây; hãy buộc chúng như một dấu trên tay, và đeo nó giữa hai mắt mình như một vật nhắc nhớ.
\v 19 Anh em phải dạy nó cho con cái mình và nói về nó khi ngồi trong nhà, khi đi ngoài đường, khi nằm xuống ngủ và khi thức dậy.
\s5
\v 20 Anh em phải viết nó lên các cột cửa trong nhà và lên cổng thành,
\v 21 để ngày của anh em cũng như của con cháu anh em, được thêm lên nhiều trong xứ mà Giê-hô-va đã thề với các tổ phụ rằng sẽ ban cho họ, nhiều giống như trời cao hơn đất vậy.
\s5
\v 22 Vì nếu anh em chăm chỉ giữ lấy mọi điều răn mà tôi truyền cho anh em, để làm theo, yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bước đi trong mọi đường Ngài, và gắn bó với Ngài,
\v 23 thì Giê-hô-va sẽ đuổi hết các dân tộc kia khỏi trước mặt anh em, và anh em sẽ trục xuất các dân lớn mạnh hơn mình.
\s5
\v 24 Mọi nơi nào bàn chân anh em dẫm lên sẽ thuộc về anh em; từ vùng hoang mạc cho đến Li-ban, từ sông, tức sông Ơ-phơ-rát, cho đến biển phía tây sẽ là ranh giới của anh em.
\v 25 Sẽ chẳng có ai đứng nổi trước anh em; Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ giáng sự sợ hãi lên toàn xứ mà anh em sẽ đặt chân lên, y như Ngài đã phán với anh em.
\s5
\v 26 Kìa, ngày nay tôi đặt trước anh em lời chúc phước và lời nguyền rủa;
\v 27 lời chúc phước, nếu anh em nghe theo các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà tôi truyền dạy anh em ngày nay;
\v 28 còn lời rủa sả, nếu anh em không nghe theo các điều răn của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, mà xây bỏ con đường tôi đã truyền dạy anh em ngày nay, đi theo các thần khác mà anh em chưa biết.
\s5
\v 29 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đem anh em vào trong xứ mà anh em sẽ đi chiếm hữu thì anh em phải rao ra lời chúc lành trên núi Ga-ri-xim và lời nguyền rủa trên núi Ê-banh.
\v 30 Chẳng phải hai núi ấy ở bên kia sông Giô-đanh, về phía tây của con đường đi về hướng tây, trong xứ của những người Ca-na-an sống trong vùng A-ra-ba, đối ngang Ghinh-ganh, cạnh các cây sồi của Mô-rê, đó sao?
\s5
\v 31 Vì anh em phải vượt qua sông Giô-đanh để đi vào chiếm hữu xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em ban cho anh em; anh em sẽ sở hữu xứ đó và sống tại đó.
\v 32 Anh em phải vâng giữ mọi luật lệ và quy định mà tôi đặt trước anh em ngày nay.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đây là các luật lệ và quy định mà anh em phải giữ trong xứ mà Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ anh em, đã cho anh em sở hữu, trọn những ngày anh em sống trên đất.
\v 2 Anh em phải phá bỏ hết mọi nơi phụng thờ của các dân tộc mà anh em sẽ đánh đuổi, trên các núi cao, trên các ngọn đồi, dưới mọi cây xanh,
\s5
\v 3 và anh em phải phá đổ hết bàn thờ, đập nát các trụ đá thiêng, và thiêu hủy các tượng thần A-sê-ra của họ; anh em phải đốn hạ tượng chạm các thần của họ và phải xóa tên chúng khỏi nơi đó.
\v 4 Anh em không được thờ phượng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình giống như họ.
\s5
\v 5 Nhưng nơi nào Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chọn từ giữa mọi bộ tộc anh em để đặt danh Ngài, thì đó sẽ là nơi Ngài ngự và là nơi anh em sẽ đến.
\v 6 Đó mới là nơi anh em đem đến của lễ thiêu, các sinh tế, của dâng phần mười, của lễ anh em dùng tay dâng lên, của lễ hứa nguyện, của lễ lạc ý, và con đầu lòng của bầy bò, bầy chiên.
\s5
\v 7 Đó mới là nơi anh em ăn uống trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời và vui vẻ cùng cả nhà mình về mọi việc tay mình làm và được Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban phước cho anh em.
\s5
\v 8 Anh em không được làm những việc mà anh em làm ở đây ngày nay, khi mà ai cũng làm điều tự mình cho là phải;
\v 9 vì anh em vẫn chưa được hưởng sự yên nghỉ, tức cơ nghiệp mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\s5
\v 10 Nhưng khi anh em đã qua sông Giô-đanh và sống trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em cho anh em được hưởng, và khi Ngài đã cho anh em được yên nghỉ đối với mọi kẻ thù chung quanh mình, và anh em được sống bình yên,
\v 11 thì địa điểm Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chọn làm nơi đặt danh Ngài mới là nơi anh em đem đến mọi thứ mà tôi đã truyền bảo anh em: của lễ thiêu, các sinh tế, của dâng phần mười, của lễ dùng tay dâng lên, cùng mọi lễ vật tốt nhất anh em dâng cho Giê-hô-va khi khấn hứa với Ngài.
\s5
\v 12 Anh em sẽ hoan hỉ trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình anh em, con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, cùng những người Lê-vi trong thành của anh em, vì họ không được chia phần sản nghiệp giữa vòng anh em.
\s5
\v 13 Phải coi chừng, chớ đi dâng của lễ thiêu tại mọi nơi mình nhìn thấy;
\v 14 mà anh em phải dâng của lễ thiêu tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn từ giữa một trong các bộ tộc của anh em; đó mới là nơi anh em sẽ làm mọi việc tôi truyền bảo.
\s5
\v 15 Tuy nhiên, anh em có thể tùy ý giết thịt và ăn các loài thú trong mọi thành mình, hưởng lấy phước lành của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình về mọi điều Ngài đã ban cho anh em; kẻ không thanh sạch lẫn người thanh sạch đều được ăn thịt của những loài như hoàng dương và nai.
\v 16 Nhưng anh em không được ăn máu, mà phải đổ máu đó ra đất như đổ nước vậy.
\s5
\v 17 Riêng phần mười ngũ cốc, rượu mới, dầu, hay con đầu lòng của đàn bò, đàn chiên, thì anh em không được ăn trong các thành mình; anh em cũng không được ăn thịt mà anh em dâng lên khi hứa nguyện, mà của lễ lạc ý hoặc lễ vật dùng tay dâng lên cũng vậy.
\s5
\v 18 Thay vào đó, anh em phải ăn nó trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, tại nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chọn anh em, cùng con trai, con gái, tôi trai, tớ gái và người Lê-vi trong thành mình; anh em sẽ vui vẻ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời về mọi việc mình làm.
\v 19 Phải lưu ý, đừng quên người Lê-vi trong lúc anh em còn sống trên đất.
\s5
\v 20 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em mở rộng lãnh thổ của anh em như Ngài đã hứa, và anh em bảo: Mình sẽ ăn thịt, vì anh em thèm thịt, thì anh em có thể ăn theo như linh hồn mình muốn.
\s5
\v 21 Nếu địa điểm mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em chọn làm nơi đặt danh Ngài xa quá, thì anh em sẽ giết bò hoặc chiên trong đàn mà Giê-hô-va đã ban cho anh em, theo như tôi đã truyền bảo; anh em có thể ăn trong các thành mình, như linh hồn anh em ước muốn.
\v 22 Anh em sẽ ăn thịt ấy giống như ăn thịt con hoàng dương hoặc con nai; kẻ không thanh sạch lẫn người thanh sạch đều có thể ăn.
\s5
\v 23 Nhưng nhất định anh em không được ăn máu, vì máu là sự sống; anh em không được ăn thịt cùng với sự sống.
\v 24 Anh em không được ăn máu, mà phải đổ nó ra đất như đổ nước vậy.
\v 25 Anh em đừng ăn máu, để anh em và con cháu anh em được phước khi anh em làm điều phải trước mặt Giê-hô-va.
\s5
\v 26 Nhưng những thứ mà anh em hứa dâng cho Giê-hô-va và các lễ vật anh em dâng khi khấn nguyện thì anh em đem đến nơi mà Giê-hô-va đã chọn.
\v 27 Ở đó anh em sẽ dâng của lễ thiêu, cả thịt và máu, trên bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình; máu của sinh tế phải được đổ ra trên bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, còn thịt thì anh em sẽ ăn.
\s5
\v 28 Hãy giữ và nghe theo mọi lời này mà tôi truyền cho anh em, để anh em và con cái anh em được phước mãi mãi, nhờ anh em làm điều phải và thiện lành trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 29 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em diệt hết các dân đó khỏi trước mặt anh em, khi anh em vào để tống xuất họ, rồi thế chỗ họ mà sống trong xứ họ,
\v 30 thì anh em phải lưu ý để khỏi bị dẫn dụ mà bắt chước họ, sau khi họ đã bị diệt mất khỏi trước mặt anh em tức bị dụ đi tìm hiểu các thần chúng nó, rằng: Các dân ấy phụng thờ thần của họ thế nào? Tôi muốn làm giống như vậy.
\s5
\v 31 'Anh em không được làm vậy với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của mình, vì mọi việc họ làm cho thần của họ thật kinh tởm đối với Ngài, và Ngài rất ghét họ thậm chí thiêu sống con trai, con gái mình để tế thần.
\v 32 Mọi điều mà tôi truyền bảo anh em thì anh em phải thực hiện, không được thêm thắt hoặc cắt xén bất kỳ điều gì.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Nếu giữa vòng anh em xuất hiện một tiên tri hay kẻ nằm mộng, nếu nó cho anh em một dấu hiệu hoặc phép lạ,
\v 2 và nếu dấu hiệu hay phép lạ ấy xảy ra, rồi hắn nói với anh em: Chúng ta hãy theo các thần khác mà anh em chưa biết, và hãy phụng thờ các thần ấy,
\v 3 thì anh em đừng nghe theo lời của tiên tri hay kẻ nằm mộng ấy; vì đó là Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đang thử anh em, để biết anh em có hết lòng, hết linh hồn yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình hay không.
\s5
\v 4 Anh em phải theo Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, tôn kính Ngài, giữ các điều răn Ngài, vâng theo tiếng Ngài; anh em cũng phải thờ phượng Ngài và gắn bó với Ngài.
\v 5 Nhà tiên tri hay kẻ nằm mộng đó phải bị xử tử, vì hắn đã xúi giục anh em phản nghịch Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai Cập và cứu anh em ra khỏi nhà nô lệ. Nhà tiên tri đó muốn lôi kéo anh em ra khỏi con đường mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã truyền dạy anh em bước đi trong đó. Cho nên hãy trừ bỏ điều ác khỏi giữa anh em.
\s5
\v 6 Giả dụ anh hay em ruột của anh em, hoặc con trai, con gái, hay người vợ yêu quý của anh em, hoặc bạn chí thiết của anh em âm thầm dụ dỗ anh em đi phụng thờ các thần khác mà anh em lẫn các tổ phụ mình đều không biết
\v 7 dầu các thần đó là của các dân tộc chung quanh hoặc gần với anh em, hay của các dân tộc ở xa anh em, thậm chí ở tận góc bể chân trời.
\s5
\v 8 Đừng thuận theo hay nghe lời họ. Mắt anh em chớ thương xót họ, mà anh em cũng đừng bỏ qua hay che giấu họ.
\v 9 Trái lại, anh em nhất định phải giết chết kẻ đó; anh em phải ra tay trước tiên, và sau đó mọi người khác sẽ tiếp tay xử tử nó.
\s5
\v 10 Anh em phải ném đá kẻ đó cho đến chết, vì nó đã tìm cách lôi kéo anh em từ bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai Cập, tức khỏi nhà nô lệ.
\v 11 Cả Y-sơ-ra-ên sẽ nghe và sợ, và sẽ không dám tiếp tục phạm tội ác như vậy giữa vòng anh em.
\s5
\v 12 Nếu anh em nghe bất kỳ ai nói về một trong các thành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em để sống tại đó, đại ý:
\v 13 Có những kẻ ác ra từ giữa anh em đã quyến dụ cư dân trong thành, rằng: Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần khác mà anh em chưa biết,
\v 14 thì anh em phải xem xét chứng cớ, truy cứu, điều tra cặn kẽ. Nếu lời đó đúng và chắc chắn có việc đáng kinh tởm như vậy giữa vòng anh em,
\s5
\v 15 thì anh em nhất định phải dùng lưỡi gươm mà tiến đánh dân thành ấy, tận diệt nó cùng với mọi người trong đó, và gia súc nó, cũng bằng lưỡi gươm.
\v 16 Anh em phải gom toàn bộ tài sản trong thành lại nơi chính giữa đường phố nó, rồi thiêu hủy thành đó cùng với mọi tài sản nó vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em. Thành đó mãi mãi phải là một phế tích và không bao giờ được xây lại.
\s5
\v 17 Đừng để một vật nào trong những thứ cần phải hủy diệt đó dính vào tay anh em. Anh em phải làm vậy để Giê-hô-va sẽ xây khỏi cơn giận phừng phừng của Ngài mà đoái đến anh em, thương xót anh em, và khiến số anh em được thêm lên nhiều, như Ngài đã hứa với các tổ phụ anh em.
\v 18 Ngài sẽ làm vậy khi anh em nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời, vâng giữ mọi điều răn Ngài mà tôi truyền cho anh em ngày nay, làm điều phải trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Anh em là dân của Giê-hô-va Đức Chúa Trời. Đừng vì người chết mà tự cắt mình hoặc cạo bất kỳ phần nào trên mặt mình.
\v 2 Vì anh em là dân biệt riêng ra cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời, và Giê-hô-va đã lựa chọn anh em như một dân làm cơ nghiệp cho Ngài, đặc biệt hơn mọi dân tộc trên mặt đất.
\s5
\v 3 Anh em không được ăn bất kỳ thứ gì ghê tởm.
\v 4 Những loài thú mà anh em có thể ăn là bò, chiên, dê,
\v 5 nai, hoàng dương, hươu, dê rừng, sơn dương, bò rừng và linh dương,
\s5
\v 6 Anh em được ăn bất kỳ động vật nào có móng rẽ ra, tức móng nó chia hai, và nhai lại.
\v 7 Tuy nhiên, có một số động vật nhai lại hoặc có móng rẽ mà anh em không được ăn, đó là lạc đà, thỏ, và chồn núi, vì các con này nhai lại nhưng không có móng rẽ, nên chúng không thanh sạch cho anh em.
\s5
\v 8 Con heo cũng không thanh sạch cho anh em vì nó có móng rẽ, nhưng không nhai lại; nó không thanh sạch đối với anh em. Đừng ăn thịt heo, và cũng đừng đụng đến xác chúng.
\s5
\v 9 Trong những loài sống dưới nước, anh em được phép ăn bất kỳ con gì có vây và có vảy,
\v 10 nhưng con gì không có vây và vảy thì anh em không được ăn; các loài này không thanh sạch cho anh em.
\s5
\v 11 Tất cả các loài chim sạch anh em đều ăn được.
\v 12 Nhưng đây là những loài chim anh em không được ăn: đại bàng, kên kên, ưng biển,
\v 13 diều đỏ, diều đen, các loài chim ưng,
\s5
\v 14 các loài chim quạ
\v 15 đà điểu, ó đêm, hải âu, các loài diều hâu,
\v 16 cú vọ, cú mèo, chim lợn,
\v 17 bồ nông, còng cộc, chim cốc,
\s5
\v 18 cò, các loài diệc, chim đầu rìu, và dơi.
\v 19 Mọi loài côn trùng có cánh di chuyển thành đàn đều không thanh sạch cho anh em; anh em không được ăn các loài đó.
\v 20 Anh em có thể ăn mọi loài chim thanh sạch.
\s5
\v 21 Anh em không được ăn bất kỳ con gì chết tự nhiên; nhưng anh em có thể đem cho người ngoại quốc sống trong thành mình ăn; anh em cũng có thể bán cho người ngoại quốc. Vì anh em là dân được biệt riêng ra cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình. Anh em không được nấu dê con bằng sữa của mẹ nó.
\s5
\v 22 Anh em nhất định phải nộp một phần mười mọi huê lợi từ hạt giống, do đồng ruộng sinh ra hằng năm.
\v 23 Anh em phải ăn uống phần mười ngũ cốc, rượu mới, dầu, con đầu lòng của đàn bò, đàn chiên trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời tại nơi mà Ngài sẽ chọn làm nơi thánh Ngài, để anh em học biết phải luôn tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 24 Nếu phải đi đường xa vì nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài ở quá xa anh em, khiến anh em không thể đem lễ vật theo, thì, khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban phước cho anh em,
\v 25 anh em phải quy lễ vật ấy ra tiền, để riêng tiền đó trong tay anh em, và đi đến nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em sẽ chọn.
\s5
\v 26 Ở đó anh em sẽ dùng tiền ấy mua bất kỳ thức gì mình ước ao: bò, chiên, rượu vang hay một loại rượu nào đó, tức bất cứ món nào anh em muốn. Anh em sẽ ăn uống và vui vẻ tại đó trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời, cùng với cả nhà mình.
\v 27 Đừng bỏ bê người Lê-vi trong thành của anh em, vì họ không có phần hoặc cơ nghiệp gì cùng với anh em.
\s5
\v 28 Cứ mỗi ba năm, anh em phải bày ra tất cả phần mười của mọi sản vật mình trong năm đó và trữ ở một nơi trong thành;
\v 29 rồi người Lê-vi, vốn chẳng có phần hoặc cơ nghiệp gì cùng anh em, khách ngoại kiều, và các cô nhi quả phụ trong thành anh em sẽ đến ăn uống thỏa thích. Hãy làm như vậy để Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ban phước cho anh em trong mọi việc tay anh em làm.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Cứ đến năm thứ bảy thì anh em phải xóa nợ.
\v 2 Đây là cách anh em thực hiện việc tha nợ: mọi chủ nợ phải xóa món nợi mà mình đã cho người khác vay; người ấy không được đòi người vay hoặc anh em mình trả lại món nợ đó, vì lệnh xóa nợ của Giê-hô-va đã được công bố.
\v 3 Anh em có thể đòi nợ người ngoại quốc; nhưng bất kỳ thứ gì người anh em khác mượn mình thì tay anh em phải buông ra.
\s5
\v 4 Tuy nhiên, không được có người nghèo giữa vòng anh em (vì Giê-hô-va nhất định sẽ ban phước cho anh em trong xứ mà Ngài ban cho anh em sở hữu làm cơ nghiệp),
\v 5 nếu anh em chăm chỉ nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và giữ lấy mọi điều răn tôi truyền cho anh em ngày nay.
\v 6 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em như Ngài đã hứa; anh em sẽ cho nhiều dân khác vay mượn, nhưng anh em sẽ không đi vay mượn; anh em sẽ cai trị nhiều dân, nhưng họ sẽ không cai trị anh em.
\s5
\v 7 Nếu có người nghèo giữa vòng anh em, tức một người trong số anh em, tại trong thành của xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, thì đừng rắn lòng và nắm chặt tay lại trước người anh em nghèo khó của mình;
\v 8 mà anh em nhất định phải sè tay mình ra cho người đó và phải cho họ mượn những gì họ cần.
\s5
\v 9 Anh em phải cẩn thận để lòng mình khỏi mang ác tưởng: Năm thứ bảy, là năm tha nợ, đã gần, để rồi trở nên keo kiệt trước người anh em nghèo thiếu đó và từ chối giúp đỡ; biết đâu người ấy sẽ kêu thấu đến Giê-hô-va về anh em, và anh em bị mắc tội.
\v 10 Anh em nhất định phải cho họ, và lòng anh em không được tiếc của khi cho họ như vậy vì, để báo lại, Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em trong mọi công việc của anh em và mọi điều tay anh em làm.
\s5
\v 11 Vì sẽ luôn có kẻ nghèo trong xứ, cho nên tôi mới truyền bảo anh em rằng: Anh em nhất định phải sè tay ra cho anh em mình, cho những người thiếu thốn và nghèo khó trong xứ.
\s5
\v 12 Nếu một anh em hay chị em Hê-bơ-rơ của anh em bị bán cho anh em và phục vụ anh em được sáu năm, thì sang năm thứ bảy anh em phải phóng thích họ.
\v 13 Khi trả tự do cho họ thì anh em không được để họ ra đi tay không.
\v 14 Anh em phải lấy từ trong bầy chiên, từ sân đạp lúa và từ bàn ép rượu mình mà cung ứng cho họ cách rộng rãi. Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban phước cho anh em thể nào thì anh em cũng phải ban phát lại cho họ thể ấy.
\s5
\v 15 Anh em phải nhớ rằng mình đã từng làm nô lệ trong xứ Ai Cập, và nhờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời giải cứu mình; vậy nên ngày nay tôi truyền bảo anh em phải làm như vậy.
\v 16 Nếu người đó nói với anh em, rằng: Tôi không muốn rời xa chủ, vì họ yêu mến anh em và gia đình anh em, và vì họ thấy hạnh phúc khi sống với anh em,
\v 17 thì anh em phải kê tai người đó vào cửa và lấy một cây dùi xỏ qua tai họ, rồi người đó sẽ là tôi tớ của anh em mãi mãi. Đối với một đầy tớ nữ thì anh em cũng làm như vậy.
\s5
\v 18 Anh em không được miễn cưỡng khi trả tự do cho họ, vì họ đã phục vụ anh em sáu năm và làm gấp đôi công việc của người làm thuê. Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em trong mọi việc anh em làm.
\s5
\v 19 Mọi con đực đầu lòng trong đàn bò, đàn chiên của anh em phải biệt riêng ra cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời; anh em không được bắt con bò đực đầu lòng làm việc, cũng đừng hớt lông con chiên đực đầu lòng.
\v 20 Anh em, cùng cả nhà mình, phải ăn con vật đầu lòng đó trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn.
\v 21 nó có khuyết tật nào, chẳng hạn, nếu nọ bị què hay mù, hoặc có bất kỳ tì vít gì thì anh em không được dâng nó cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 22 Anh em phải ăn nó trong thành mình; kẻ không thanh sạch lẫn người thanh sạch đều phải ăn, giống như anh em ăn con hoàng dương hay con nai.
\v 23 Chỉ có điều anh em không được ăn máu nó, mà phải đổ máu đó ra đất giống như đổ nước vậy.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Anh em phải giữ tháng A-bíp, và cũng giữ lễ Vượt Qua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, vì trong tháng A-bíp Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã đem anh em ra khỏi Ai Cập vào ban đêm.
\v 2 Anh em phải dâng sinh tế lễ Vượt Qua cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình bằng chiên và bò từ trong đàn, tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn làm nơi thánh Ngài.
\s5
\v 3 Anh em không được ăn bánh có men với sinh tế; trong bảy ngày, anh em phải ăn bánh không men, là bánh hoạn nạn; vì anh em đã ra khỏi Ai Cập một cách vội vàng. Hãy giữ lễ như vậy trọn cuộc đời anh em trên đất để anh em nhớ lại ngày mình ra khỏi xứ Ai Cập.
\v 4 Suốt bảy ngày đó, trong khắp cả xứ phải trừ bỏ hết men đi; thịt sinh tế anh em dâng vào lúc chiều tối cũng không được để qua sáng hôm sau.
\s5
\v 5 Anh em không được dâng sinh tế lễ Vượt Qua trong bất kỳ thành nào mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\v 6 Thay vì vậy, anh em phải dâng lễ tại nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài. Tại đó, anh em sẽ thực hiện việc dâng sinh tế lễ Vượt Qua vào buổi chiều lúc mặt trời lặn, theo ngày tháng mà anh em ra khỏi Ai Cập.
\s5
\v 7 Anh em phải nướng thịt đó và ăn tại nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn; đến sáng, anh em sẽ trở về lều của mình.
\v 8 Trong sáu ngày anh em phải ăn bánh không men; và ngày thứ bảy sẽ có buổi hội hiệp trọng thể cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em: vào ngày đó, anh em không được làm việc.
\s5
\v 9 Anh em phải tính bảy tuần cho mình; từ lúc anh em đưa lưỡi hái bắt đầu vụ gặt thì anh em phải tính bảy tuần lễ.
\v 10 Anh em phải giữ lễ Các Tuần Lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời bằng cách tự tay mình dâng một của lễ tự nguyện mà anh em muốn dâng, theo như Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban phước cho anh em.
\s5
\v 11 Anh em sẽ ăn mừng trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình cùng với con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, người Lê-vi trong thành anh em, khách ngoại kiều, cô nhi, quả phụ giữa vòng anh em tại nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài.
\v 12 Anh em hãy nhớ lại mình đã từng làm nô lệ tại Ai Cập; anh em phải giữ và thực hiện các luật lệ này.
\s5
\v 13 Anh em phải giữ lễ Lều Trại trong bảy ngày sau khi anh em đã thu hoạch xong lúa trên sân và rượu trong bàn ép.
\v 14 Anh em sẽ vui vẻ trong suốt kỳ lễ - cùng với con trai, con gái, tôi trai, tớ gái, người Lê-vi, khách ngoại kiều, cô nhỉ, quả phụ ở trong thành anh em.
\s5
\v 15 Trong bảy ngày, anh em phải giữ lễ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em trong suốt vụ thu hoạch cũng như trong mọi việc anh em làm, nên anh em phải thật vui mừng.
\s5
\v 16 Mỗi năm ba lần, toàn bộ nam giới trong anh em phải ra mắt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại nơi Ngài sẽ chọn: vào dịp lễ Bánh Không Men, lễ Các Tuần Lễ, và lễ Lều Trại; và anh em không được đi tay không khi ra mắt Giê-hô-va;
\v 17 trái lại, mỗi người sẽ dâng lễ theo khả năng mình có, để anh em hiểu được phước lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban cho mình.
\s5
\v 18 Anh em phải lập các quan xử kiện và viên chức trong mọi thành mình mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em; họ sẽ được cử ra từ mỗi bộ tộc và họ phải xét xử dân chúng một cách công minh.
\v 19 Anh em không được bẻ cong công lý; anh em không được thiên vị hay nhận của hối lộ, vì của hối lộ làm mờ mắt kẻ khôn sáng và làm thiên lệch lời nói của người công chính.
\v 20 Anh em phải theo đuổi công lý, và chỉ công lý thôi, để anh em được sống và thừa hưởng xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\s5
\v 21 Anh em không được dựng cho mình tượng thần A-sê-ra, bất kỳ loại trụ tượng nào, ngoài bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà anh em sẽ làm cho mình.
\v 22 Anh em cũng không được dựng cho mình bất kỳ trụ đá thiêng nào, là thứ Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em ghét.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Anh em không được dâng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời con bò hay con chiên bị tì vết hay bất kỳ khuyết tật nào, vì đó là điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời ghê tởm.
\s5
\v 2 Nếu giữa vòng anh em, bên trong thành nào của anh em mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, có bất kỳ người nào, dầu là nam hay nữ, làm điều tà ác trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời và vi phạm giao ước Ngài
\v 3 bất kỳ ai đi thờ phụng các thần khác, sấp mình trước chúng nó, dầu là mặt trời, mặt trăng hay bất kỳ thiên thể nào là việc tôi chẳng truyền dạy,
\v 4 và nếu anh em được ai mách bảo hoặc nghe biết chuyện như vậy thì anh em phải thẩm tra cho kỹ. Nếu đúng và chắc chắn đã có chuyện ấy xảy ra tại Y-sơ-ra-ên
\s5
\v 5 thì anh em phải đem người đàn ông hay phụ nữ đã làm việc tà ác đó ra cổng thành, rồi anh em phải ném đá nó cho chết đi.
\v 6 Dựa vào lời của hai hay ba nhân chứng thì người phải chết đó sẽ bị xử tử; nhưng nếu chỉ có lời của một nhân chứng thì không được xử tử.
\v 7 Các nhân chứng phải là người đầu tiên xử tử người ấy, sau đó mọi người sẽ tham gia; anh em phải trừ diệt việc tà ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 8 Nếu xuất hiện một vấn đề quá khó cho anh em phân xử - có thể là một trường hợp sát nhân hay ngộ sát, hoặc người này đúng hay người kia đúng, hoặc về một thiệt hại nào đó xảy ra, hay một vấn đề nào khác tức các vấn đề gây tranh cãi trong thành anh em, thì anh em phải đi lên địa điểm mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài.
\v 9 Anh em phải đến gặp các thầy tế lễ con cháu dòng Lê-vi, và gặp quan xử kiện đương chức vào thời điểm đó; anh em phải vấn ý họ, và họ sẽ cho anh em biết bản án.
\s5
\v 10 Anh em phải làm theo luật pháp họ tỏ cho mình, tại nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn làm nơi thánh Ngài. Anh em phải cẩn thận thực hiện mọi việc họ chỉ thị cho anh em.
\v 11 Hãy tuân theo luật pháp họ dạy cho, và làm theo quyết định mà họ đưa ra cho anh em. Đừng bỏ qua điều họ tỏ ra cho anh em mà đi chệch sang bên phải hay bên trái.
\s5
\v 12 Kẻ nào kiêu ngạo không nghe theo thầy tế lễ đứng phục vụ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, hoặc không chịu nghe quan xử kiện thì kẻ đó phải chết; anh em phải trừ diệt điều ác khỏi Y-sơ-ra-ên.
\v 13 Mọi người sẽ nghe và sợ, và sẽ không dám kiêu ngạo nữa.
\s5
\v 14 Khi anh em đã vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình, khi anh em đã chiếm hữu xứ ấy và bắt đầu sống tại đó, và rồi anh em nói: Mình sẽ lập một vua để cai trị mình, giống như mọi dân tộc chung quanh,
\v 15 thì anh em nhất định phải lập người mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn lên làm vua cai trị mình. Anh em phải lập vua cho mình từ trong số những người anh em mình. Anh em không được lập một người ngoại quốc, vốn không phải là anh em mình, lên cai trị mình.
\s5
\v 16 Nhưng vua đó không được lo gia tăng số ngựa cho mình, cũng không được vì muốn có nhiều ngựa mà khiến dân chúng quay trở về Ai Cập, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời có phán với anh em: Từ rày trở đi, các ngươi không bao giờ được trở lại con đường đó nữa.
\v 17 Vua ấy không được cưới nhiều vợ, để khỏi trở lòng bỏ Giê-hô-va; vua cũng không được lo chất chứa bạc, vàng cho mình.
\s5
\v 18 Khi vua ngồi trên ngai cai trị vương quốc mình, vua phải sao chép ra sách cho mình một bản luật pháp này, chiếu theo bản luật pháp trước mặt các thầy tế lễ người Lê-vi.
\v 19 Cuốn sách luật pháp đó phải ở bên vua, và vua phải đọc trong đó trọn những ngày vua sống trên đất, để học biết tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và giữ lấy mọi lời trong luật pháp cùng các luật lệ ấy, mà thực hiện.
\s5
\v 20 Vua phải làm vậy để lòng vua khỏi tự nhấc mình lên trên anh em mình, và để vua khỏi quay qua bên phải hay bên trái mà lìa bỏ các điều răn, nhờ đó vua cùng con cháu được tại vị lâu dài giữa vòng Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Các thầy tế lễ người Lê-vi, cùng toàn thể bộ tộc Lê-vi, sẽ không có phần hay sản nghiệp gì với Y-sơ-ra-ên; họ phải ăn các của lễ dùng lửa dâng lên cho Giê-hô-va như là phần của mình.
\v 2 Họ không được hưởng sản nghiệp gì giữa vòng anh em mình; Giê-hô-va chính là cơ nghiệp của họ, như Ngài đã phán với họ.
\s5
\v 3 Đây là phần các thầy tế được hưởng từ những người dâng sinh tế, dầu là bò hay chiên: họ phải nộp cho thầy tế lễ cái vai, hai má, và bộ lòng.
\v 4 Sản phẩm đầu mùa là ngũ cốc, rượu mới, và dầu, cũng như mẻ lông cừu đầu tiên, anh em phải nộp cho thầy tế lễ.
\v 5 Vì từ trong mọi bộ tộc anh em Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã chọn họ, để họ cùng các con trai họ luôn ứng trực và phục vụ, nhân danh Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Nếu một người Lê-vi từ bất kỳ thành nào trong toàn cõi Y-sơ-ra-ên, tức từ nơi người ấy đang sinh sống, hết lòng muốn đến nơi mà Giê-hô-va sẽ chọn,
\v 7 thì người ấy phải nhân danh Giê-hô-va Đức Chúa Trời mà phục như mọi anh em khác thuộc dòng Lê-vi của mình, ứng trực tại đó trước Giê-hô-va.
\v 8 Họ phải được ăn một phần tương tự như những người kia, không kể tiền bán gia sản của họ.
\s5
\v 9 Khi anh em đã vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình thì anh em không được học theo các việc làm kinh tởm của các dân ở đó.
\v 10 Giữa vòng anh em không ai được phép đưa con trai hay con gái mình qua lửa, không ai được xem quẻ, bói toán, thôi miên, làm ma thuật,
\v 11 ếm chú, đồng bóng, hay thông linh.
\s5
\v 12 Vì người nào làm các việc đó đều bị Giê-hô-va ghê tởm; chính vì các việc ghê tởm ấy mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đuổi các dân tộc kia khỏi trước mặt anh em.
\v 13 Anh em phải trọn lành trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\v 14 Vì các dân tộc mà anh em sẽ tống xuất đó đã nghe theo giới thuật sĩ và bói toán; nhưng phần anh em, Giê-hô-va Đức Chúa Trời không cho phép anh em làm vậy.
\s5
\v 15 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ lập một người trong anh em, từ giữa vòng anh em, một nhà tiên tri giống như tôi. Anh em phải nghe theo người.
\v 16 Đây là điều anh em đã cầu xin Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại Hô-rếp vào ngày hội hiệp, rằng: Xin đừng bắt chúng tôi lại phải nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và nhìn thấy đám lửa lớn này nữa, e chúng tôi phải chết.
\s5
\v 17 Giê-hô-va đã phán với tôi: Họ nói đúng đó.
\v 18 Ta sẽ lập lên một nhà tiên tri cho họ từ giữa vòng anh em họ, giống như con vậy. Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng người ấy, và người ấy sẽ nói lại cho họ mọi điều Ta truyền bảo.
\v 19 Nếu kẻ nào không nghe theo lời Ta mà người ấy nhân danh Ta nói ra, thì Ta sẽ buộc kẻ đó phải nghe.
\s5
\v 20 Nhưng nhà tiên tri ngạo mạn tự ý nhân danh Ta phát biểu, không phải là lời Ta truyền bảo họ nói ra, hoặc nhân danh các thần khác mà phát biểu, thì chính tiên tri đó phải chết.
\v 21 Anh em có thể thắc mắc trong lòng, rằng: Làm sao chúng tôi nhận biết sứ điệp không phải do Giê-hô-va phán ra?
\s5
\v 22 khi nhà tiên nhân danh Giê-hô-va phát biểu, nếu việc không xảy ra, thì đó không phải là lời Giê-hô-va phán; tiên tri ấy đã kiêu ngạo nói ra lời đó, và anh em không được sợ nó.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã diệt hết các dân đang sống trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, và khi anh em kế thừa họ sống trong các thành cũng như nhà cửa của họ,
\v 2 thì anh em phải chọn ra ba thành cho mình ở chính giữa xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em sở hữu.
\v 3 Anh em phải đắp một con đường và chia địa phận xứ mình thành ba phần, tức xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em thừa hưởng, để mọi kẻ sát nhân có thể chạy đến ẩn náu tại đó.
\s5
\v 4 Luật dành cho kẻ giết người chạy đến đó để được sống là thế này: bất kỳ ai vô tình giết chết người khác không phải do tư thù sẵn có
\v 5 chẳng hạn như ai đó đi vào rừng đốn cây cùng một người khác, nhưng khi vung rìu lên chặt cây thì đầu rìu vụt khỏi cán văng trúng người kia, gây tử vong lúc đó người này phải chạy đến một trong các thành này để được sống.
\s5
\v 6 Nếu không, kẻ đòi nợ máu có thể đuổi theo kẻ sát nhân, và trong cơn giận sôi sục đuổi kịp anh ta vì đường xa, rồi đánh giết đi, dầu anh này không đáng chết vì trước khi vụ việc xảy ra anh ta không có tư thù gì với người bị giết.
\v 7 Vậy nên tôi truyền bảo anh em chọn ra ba thành cho mình.
\s5
\v 8 Nếu Giê-hô-va Đức Chúa Trời mở rộng bờ cõi của anh em, như Ngài đã thề hứa với các tổ phụ anh em, và ban cho anh em toàn bộ xứ mà Ngài đã thề hứa ban cho các tổ phụ anh em;
\v 9 nếu anh em giữ và làm theo mọi điều răn này mà tôi truyền bảo cho anh em ngày nay như phải yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời và luôn bước đi trong các đường lối Ngài, thì anh em phải chọn thêm ba thành nữa cho mình, ngoài ba thành kia.
\v 10 Phải làm như vậy để máu vô tội không bị đổ ra trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em làm cơ nghiệp và anh em khỏi mắc tội làm đổ máu.
\s5
\v 11 Nhưng nếu có ai thù ghét một người khác, rình rập rồi xông vào đánh người đó, gây thương tích trầm trọng khiến anh ta tử vong, sau đó chạy đến ẩn nấp tại một trong các thành này,
\v 12 thì các trưởng lão trong thành kẻ sát nhân phải cho người đến giải hắn về, rồi giao hắn cho người đòi nợ máu, để giết chết hắn đi.
\v 13 Mắt anh em không được thương xót hắn, mà phải trừ diệt kẻ phạm tội đổ máu khỏi Y-sơ-ra-ên, để anh em được phước.
\s5
\v 14 Anh em không được di dời mốc địa giới của người lân cận mà họ đã đặt tại chỗ nó từ lâu về trước, trên phần đất anh em được thừa hưởng, trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em sở hữu.
\s5
\v 15 Một nhân chứng duy nhất không đủ để quy kết một ai đó về bất kỳ vi phạm hoặc tội lỗi nào trong bất kỳ trường hợp nào; bất cứ vụ việc nào cũng cần phải có hai nhân chứng hoặc ba nhân chứng mới xác định được.
\v 16 Già sử có một nhân chứng gian đứng lên làm chứng rằng người nào đó đã làm điều sai trái để cáo tội người này.
\s5
\v 17 Lúc ấy, cả hai bên liên quan đến cuộc tranh tụng phải ra hầu Giê-hô-va trước mặt các thầy tế lễ và quan xử kiện đương chức tại thời điểm đó.
\v 18 Quan xử kiện sẽ xét hỏi kỹ càng; nếu nhân chứng đó cáo gian và đã làm chứng dối về người anh em kia,
\v 19 thì anh em phải xử kẻ đó theo như cách hắn muốn xử anh em mình; và anh em sẽ trừ bỏ điều ác khỏi giữa vòng anh em.
\s5
\v 20 Như vậy, những ai nghe sẽ sợ và từ đó sẽ không dám phạm điều ác như vậy giữa vòng anh em nữa.
\v 21 Mắt anh em không được thương xót; mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Khi anh em xung trận để giao chiến với quân thù, nhưng lại thấy họ có nhiều ngựa, xe, và người đông hơn mình, thì anh em cũng đừng sợ; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời, Đấng đem anh em ra khỏi Ai Cập, vẫn ở cùng anh em.
\s5
\v 2 Khi gần đến lúc giao chiến thì thầy tế lễ phải sẽ bước tới phát biểu trước mọi người,
\v 3 rằng: Này, Y-sơ-ra-ên, hãy nghe đây. Hôm nay anh em sắp giao chiến với quân thù; anh em không được nao núng tinh thần; đừng hoang mang, đừng run rẩy, cũng đừng kinh sợ chúng;
\v 4 vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi cùng anh em để chiến đấu với quân thù thay cho anh em, và giải cứu anh em.
\s5
\v 5 Các quan tướng sẽ phải nói với mọi người, rằng: ‘Ở đây có ai mới cất nhà mà chưa vào ở không? Người đó hãy trở về nhà, vì biết đâu mình sẽ chết trận và một người khác sẽ được ở nhà đó.
\s5
\v 6 Có ai trồng vườn nho mà chưa được ăn trái nó không? Người đó hãy trở về nhà, vì biết đâu mình sẽ chết trận và người khác được ăn trái.
\v 7 Có ai đã hứa hôn với một phụ nữ mà chưa kịp làm lễ cưới không? Người ấy hãy trở về nhà, vì biết đâu mình sẽ chết trận, và một người khác sẽ cưới vợ hứa của mình.
\s5
\v 8 Các quan tướng phải nói thêm với mọi người, rằng: Có ai sợ hãi hoặc sờn lòng không? Người đó hãy trở về nhà để khỏi khiến lòng anh em bị nao sờn giống như mình.
\v 9 'Khi các quan tướng đã phát biểu với mọi người như vậy rồi thì họ phải chỉ định các viên chỉ huy binh lính
\s5
\v 10 Khi anh em tiến đánh một thành nào thì trước tiên hãy nghị hòa với thành đó.
\v 11 Nếu họ chấp nhận đề nghị của anh em và mở cửa thành đón tiếp anh em, thì toàn thể cư dân trong thành phải chịu lao động cưỡng bách phục dịch anh em.
\s5
\v 12 Nhưng nếu họ không chịu nghị hòa với anh em, mà lại khai chiến với anh em, thì anh em phải công thành;
\v 13 một khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã cho anh em được thắng và khiến họ phải khuất phục anh em, thì anh em phải giết hết đàn ông trong thành.
\s5
\v 14 Nhưng phụ nữ, trẻ con, gia súc cùng mọi thứ trong thành, tức toàn bộ tài sản nó, thì anh em sẽ đoạt lấy làm chiến lợi phẩm cho mình. Anh em sẽ hưởng chiến lợi phẩm từ quân thù mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\v 15 Anh em phải xử như vậy với tất cả các thành cách xa mình, tức các thành không thuộc trong số thành của các dân tộc dưới đây.
\s5
\v 16 Tại các thành của những dân tộc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em làm sản nghiệp thì anh em không được chừa lại bất kỳ thứ gì có hơi thở.
\v 17 Trái lại, anh em phải diệt sạch hết bọn họ: dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã truyền bảo anh em.
\v 18 Hãy làm vậy để họ đừng dạy anh em hành xử theo những lề thói đáng kinh tởm như họ làm cho các thần của mình.
\s5
\v 19 Khi anh em vây thành nào lâu ngày, hãm đánh để chiếm lấy nó, anh em không được dùng rìu để hủy hoại cây cối nó. Vì anh em có thể hưởng hoa quả từ cây, nên anh em không được đốn hạ nó. Vì phải chăng cây ngoài đồng là quân thù nên anh em phải công hãm?
\v 20 Chỉ những cây nào anh em biết là không phải cây ăn quả thì anh em mới được đốn hạ để dựng công sự tiến đánh thành đang lâm chiến với mình, cho đến khi nó thất thủ.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Nếu trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em sở hữu người ta phát hiện một xác chết nằm ngoài đồng mà không biết bị ai giết chết,
\v 2 thì các trưởng lão và quan xử kiện của anh em phải ra đồng và họ phải đo khoảng cách từ xác người chết đến các thành chung quanh.
\s5
\v 3 Thành nào gần xác chết nhất thì các trưởng lão thành đó phải lấy từ trong đàn ra một con bò cái tơ chưa bị bắt cày kéo, tức chưa từng mang ách.
\v 4 Các trưởng lão của thành phải đem con bò cái tơ đó xuống một thung lũng có dòng nước chảy, chỗ chưa có ai gieo trồng gì, rồi đánh gãy cổ con bò tại chỗ đó.
\s5
\v 5 Các thầy tế lễ là con cháu Lê-vi phải đến, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã chọn họ để phục vụ Ngài và nhân danh Giê-hô-va chúc phước cho dân chúng; hãy nghe theo lời chỉ bảo của họ, vì lời họ sẽ là phán quyết trong mọi cuộc tranh tụng và mọi trường hợp đả thương.
\s5
\v 6 Tất cả các trưởng lão của thành gần chỗ xác chết nhất phải rửa tay mình trên con bò cái tơ đã bị đánh gãy cổ trong thung lũng;
\v 7 họ phải lên tiếng về vụ việc ấy, rằng: Tay chúng tôi không làm đổ máu này, chúng tôi cũng không chứng kiến vụ việc.
\s5
\v 8 Lạy Giê-hô-va, xin hãy tha tội cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, là dân Ngài đã chuộc, và xin đừng kể tội làm đổ máu vô tội này cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài. Lúc đó, họ sẽ được tha tội làm đổ máu.
\v 9 Như vậy, khi anh em làm điều phải trước mặt Giê-hô-va, thì anh em sẽ giũ sạch máu vô tội khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 10 Khi anh em ra đi giao chiến với quân thù và Giê-hô-va Đức Chúa Trời cho anh em đánh thắng, bắt chúng phải khuất phục anh em, thì anh em phải bắt chúng làm tù binh.
\v 11 Nếu anh em thấy trong số tù binh có một phụ nữ xinh đẹp mà anh em ưa thích và muốn lấy làm vợ mình,
\v 12 thì anh em phải đưa cô ta về nhà mình, và cô ta phải cạo đầu cũng như cắt hết móng tay, móng chân đi.
\s5
\v 13 Cô ta phải lột bỏ y phục mặc trên người khi bị bắt làm tù binh, và sẽ ở luôn trong nhà anh em đúng một tháng, khóc thương cha mẹ mình. Sau đó, anh em có thể ăn ở với cô ta như chồng, và cô ta sẽ là vợ anh em.
\v 14 Nhưng nếu anh em không còn ưa thích cô ta nữa, thì anh em phải để cô ta ra đi tự do. Anh em dứt khoát không được đem bán, cũng không được cư xử với cô ta như nô lệ, vì anh em đã khiến cô ta bẽ mặt rồi.
\s5
\v 15 Nếu người nào có hai vợ, nhưng lại yêu thương người này và ghét bỏ người kia, trong khi cả hai người vợ được yêu thương lẫn người vợ bị ghét bỏ đều sinh con cho mình, và nếu con trai trưởng là con của người vợ bị ghét,
\v 16 thì vào ngày người đó chia sản nghiệp mình lại cho các con trai thừa hưởng, người đó không được đưa con trai của người vợ được thương lên làm con trai trưởng thay cho con trai của người vợ bị ghét, là con trai trưởng đích thực.
\v 17 Trái lại, người đó phải nhận con trai của người vợ bị ghét là trưởng nam bằng cách chia cho con trai ấy phần gấp đôi trong mọi thứ mình sở hữu; vì nó là bông trái đầu tiên của sức lực người đó, nên quyền trưởng nam phải thuộc về nó.
\s5
\v 18 Nếu người nào có đứa con ngang bướng, ngỗ nghịch, không nghe lời cha mẹ mình, và cho dù họ đã sửa phạt nhưng nó vẫn không chịu vâng lời;
\v 19 khi đó, người cha và người mẹ phải bắt nó dẫn đến các trưởng lão của thành mình, tại nơi cổng thành.
\s5
\v 20 Họ phải trình với các trưởng lão của thành mình, rằng: Thằng con này của chúng tôi thật ngang bướng và ngỗ nghịch; nó không chịu vâng lời chúng tôi; nó tham ăn, mê uống.
\v 21 Rồi mọi người trong thành phải ném đá nó cho chết đi; và anh em sẽ loại bỏ điều ác khỏi giữa vòng anh em.
\s5
\v 22 Nếu người nào phạm một tội đáng chết và phải bị xử tử bằng cách treo lên trụ hình,
\v 23 thì thây của nó không được để treo qua đêm. Thay vào đó, anh em nhất định phải chôn cất nó trong ngày; vì bất kỳ ai bị treo lên như vậy thì bị Đức Chúa Trời rủa sả. Hãy tuân theo giới mạng này để anh em không làm ô uế xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em làm sản nghiệp.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Khi thấy bò hay chiên của anh em người Y-sơ-ra-ên mình đi lạc thì anh em không được làm ngơ; anh em nhất định phải dắt nó trở về với chủ.
\v 2 Nếu người anh em Y-sơ-ra-ên đó không ở gần anh em, hoặc nếu anh em không biết người đó, thì anh em phải đem con vật về nhà mình, và phải giữ nó cho đến khi người kia đến tìm, rồi anh em sẽ giao lại cho anh ta.
\s5
\v 3 Anh em phải làm tương tự với lừa của họ; anh em phải làm tương tự với áo quần của họ; anh em phải làm tương tự với mọi vật mà anh em người Y-sơ-ra-ên làm thất lạc, tức mọi thứ họ bị mất mà anh em tìm gặp; anh em không được làm ngơ.
\v 4 Khi thấy lừa hay bò của anh em người Y-sơ-ra-ên mình ngã quỵ dọc đường, thì anh em không được làm ngơ, mà anh em phải giúp họ đỡ nó dậy.
\s5
\v 5 Phụ nữ không được mặc áo quần của nam giới, mà nam giới cũng không được mặc đồ phụ nữ, vì bất kỳ ai làm vậy thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đều ghê tởm.
\s5
\v 6 Nếu anh em tình cờ bắt gặp một tổ chim trên đường đi, trên cây, hay dưới đất, trong tổ có chim con hay trứng, và chim mẹ đang ấp, thì anh em không được bắt cả mẹ lẫn con.
\v 7 Anh em có thể bắt chim con cho mình, nhưng nhất định phải thả chim mẹ đi. Hãy vâng theo giới luật này đề anh em được phước và để anh em được sống lâu.
\s5
\v 8 Khi làm nhà mới, thì anh em phải làm thanh chắn trên mái, để anh em không khiến máu vô tội đổ trên nhà mình khi có ai đó trên mái té xuống.
\s5
\v 9 Anh em không được trồng vườn nho mình bằng hai loại hạt giống, vì làm vậy thì toàn bộ vụ thu hoạch đều bị sung vào nơi thánh, cả hạt giống mà anh em gieo lẫn hoa lợi của vườn nho.
\v 10 Anh em không được cho con bò cày chung với con lừa
\v 11 Anh em không được mặc áo quần dệt bằng lông chiên chung với sợi lanh.
\s5
\v 12 Anh em phải kết tua cho bốn góc áo choàng mình mặc.
\s5
\v 13 Giả sử một người đàn ông cưới vợ, ăn ở với vợ, nhưng rồi lại ghét bỏ vợ,
\v 14 và đi phao vu cô ấy đã làm những chuyện xấu hổ, khiến cô ấy bị tai tiếng, rằng: Tôi đã lấy người phụ nữ này, nhưng khi đến gần tôi chẳng thấy có gì chứng tỏ cô ta còn trinh trắng.
\s5
\v 15 Khi đó, cha mẹ của người thiếu nữ phải trưng ra bằng cớ về sự trinh trắng của con mình cho các trưởng lão tại cổng thành.
\s5
\v 16 Cha của người thiếu nữ phải nói với các trưởng lão, rằng: Tôi đã gả con gái cho cậu này làm vợ, nhưng cậu ta lại ghét bỏ nó.
\v 17 Đó, cậu ta đã phao vu cho nó, rằng: “Tôi thấy con gái ông bà không còn trinh trắng nữa” nhưng đây là chứng cớ về sự trinh tiết của con gái tôi. Và rồi họ sẽ trải áo choàng của cô gái ra trước mặt các trưởng lão của thành đó.
\s5
\v 18 Các trưởng lão trong thành phải bắt người chồng để trừng phạt;
\v 19 họ phải buộc anh ta nộp phạt một trăm miếng bạc vì đã gây tai tiếng cho một trinh nữ Y-sơ-ra-ên, và trao số bạc đó cho cha cô gái. Người chồng phải nhận thiếu nữ này làm vợ; trọn đời mình anh ta không được ruồng bỏ.
\s5
\v 20 Nhưng nếu lời người chồng nói là đúng, tức cô gái không chứng minh được sự trinh trắng của mình,
\v 21 thì người ta phải đem cô gái đến cửa nhà cha cô ta, và người trong thành đó phải ném đá cô ta cho chết đi, vì cô ta đã phạm một việc nhơ nhuốc trong Y-sơ-ra-ên, khi làm điếm ngay trong nhà cha mình. Anh em phải trừ bỏ điều ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 22 Nếu người ta bắt gặp một người đàn ông ngủ với một phụ nữ đã có chồng, thì cả hai tức người đàn ông ngủ với người phụ nữ và chính người phụ nữ - đều phải chết. Anh em phải trừ bỏ điều ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 23 Nếu một cô gái vốn là trinh nữ đã hứa hôn với một người đàn ông, nhưng một người đàn ông khác gặp cô gái trong thành rồi ăn nằm với cô ta,
\v 24 thì phải đem cả hai người ra cổng thành và ném đá họ cho chết đi. Anh em phải ném đá cô gái, vì ở trong thành mà cô ta không kêu cứu. Anh em phải ném đá người đàn ông vì hắn đã hãm hiếp vợ của người khác. Anh em phải trừ bỏ điều ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 25 Nhưng nếu người đàn ông thấy cô gái đã hứa hôn kia ngoài đồng, và nếu người đó bắt ép cô gái và ăn nằm với cô gái, thì chỉ người đàn ông đã ăn nằm với cô gái đó phải chết.
\v 26 Còn với cô gái thì anh em đừng hình phạt gì cả; cô ta chẳng phạm tội gì đáng chết. Trường hợp này cũng giống như khi một người tấn công người đồng loại rồi giết chết người đó.
\v 27 Vì kẻ đó gặp cô gái ngoài đồng; cô gái đã hứa hôn có kêu cứu, nhưng chẳng có ai cứu giúp.
\s5
\v 28 Nếu một người đàn ông gặp một cô gái là trinh nữ chưa đính hôn, và nếu người này bắt ép rồi ăn nằm với cô gái, và họ bị phát hiện,
\v 29 thì người đàn ông đã ăn nằm với cô gái phải trả cho cha cô gái năm mươi miếng bạc, và phải lấy cô gái làm vợ, vì người đó đã làm nhục cô ta. Trọn đời mình người đó không được ruồng bỏ vợ.
\s5
\v 30 Không ai được lấy vợ của cha mình làm vợ, người đó không được tước mất quyền làm chồng của cha.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Bất kỳ người nam nào có tinh hoàn bị giập hay bị cắt bỏ đều không được vào hội của Giê-hô-va.
\v 2 Người nào vốn là con hoang không được vào hội của Giê-hô-va; con cháu của người đó dầu đến đời thứ mười cũng không được vào đó.
\s5
\v 3 Người Am-môn và người Mô-áp không thể vào hội của Giê-hô-va; con cháu họ dù cho đến đời thứ mười cũng không được vào.
\v 4 Sở dĩ như vậy là vì họ đã không đem bánh, nước tiếp đón anh em lúc đi đường, sau khi anh em ra khỏi Ai Cập, và vì họ đã mướn Ba-la-am, con trai Bê-ô người Phê-thô-rơ ở A-ram Na-ha-ra-im, rủa sả anh em.
\s5
\v 5 Nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em không nghe theo Ba-la-am; thay vào đó, Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã đổi lời rủa sả thành lời chúc phước cho anh em, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời yêu thương anh em.
\v 6 Trọn đời sống anh em không được mưu cầu sự bình an hay thịnh vượng gì cho họ.
\s5
\v 7 Anh em không được khinh ghét người Ê-đôm, vì họ cũng là anh em mình; anh em không được khinh ghét người Ai Cập, vì anh em từng làm khách ngoại kiều trong xứ sở họ.
\v 8 Con cháu đời thứ ba của họ có thể vào hội của Giê-hô-va.
\s5
\v 9 Khi anh em xung trận tiến đánh quân thù, thì anh em phải giữ mình khỏi mọi điều ác.
\v 10 Nếu giữa vòng anh em có ai không thanh sạch vì việc đã xảy ra cho mình lúc ban đêm thì người đó phải ra ngoài trại, không được trở vào.
\v 11 Đến chiều tối, người đó phải tắm mình trong nước; khi mặt trời lặn, thì người đó sẽ được trở vào bên trong trại.
\s5
\v 12 Anh em cũng phải dành một nơi bên ngoài trại để ra mà đi ngoài;
\v 13 và anh em phải có một vật dụng để đào; khi anh em đi ngoài thì anh em sẽ dùng vật đó để đào lỗ, xong sẽ đùa đất lấp phân lại.
\v 14 Vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời đi lại giữa doanh trại anh em để cho anh em chiến thắng và giao quân thù vào tay anh em, cho nên doanh trại anh em phải thánh để Ngài chẳng thấy điều gì không thanh sạch giữa vòng anh em khiến Ngài từ bỏ anh em.
\s5
\v 15 Anh em không được giao trả kẻ nô lệ đã bỏ trốn lại cho người chủ.
\v 16 Hãy để anh ta sống với anh em, tại bất kỳ thành nào anh ta chọn. Đừng áp bức anh ta.
\s5
\v 17 Giữa vòng các con gái Y-sơ-ra-ên không ai được hành nghề mãi dâm trong các đền miếu; mà giữa vòng các con trai Y-sơ-ra-ên cũng vậy.
\v 18 Đừng đem vào nhà Giê-hô-va Đức Chúa Trời tiền công của một gái điếm hay tiền công của một trai điếm để làm vật khấn hứa, vì cả hai thứ tiền này đều ghê tởm đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\s5
\v 19 Anh em không được cho người anh em Y-sơ-ra-ên mình vay lấy lãi dầu là tiền bạc, thức ăn, hay bất kỳ vật gì người ta cho vay lấy lãi.
\v 20 Đối với khách ngoại kiều thì anh em có thể cho vay lấy lãi, nhưng với anh em người Y-sơ-ra-ên của mình thì anh em không được cho vay lấy lãi, để Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban phước cho anh em trong mọi việc tay anh em làm trong xứ mà anh em sẽ vào chiếm hữu.
\s5
\v 21 Khi anh em hứa nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình thì anh em không được chậm thực hiện, vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời hẳn sẽ đòi anh em phải hoàn nguyện; anh em sẽ phạm tội nếu không hoàn nguyện.
\v 22 Nhưng nếu anh em không khấn hứa thì anh em không mắc tội.
\v 23 Lời nào anh em nói ra thì anh em phải tuân giữ và thực hiện, theo như anh em đã hứa nguyện với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bất kỳ điều gì mà anh em đã tự nguyện thề hứa bằng miệng mình.
\s5
\v 24 Khi anh em vào vườn nho của kẻ khác, anh em được ăn tùy thích, nhưng không được bỏ vào giỏ đem về.
\v 25 Khi anh em vào đồng lúa chín của người khác, anh em được phép dùng tay bứt bông lúa, nhưng không được dùng lưỡi hái cắt lúa chín của người ta.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Khi người nào lấy vợ và đã cưới rồi, nếu chị ta không được lòng người chồng vì người này thấy chị có điều gì đó không tương xứng, thì người đó phải viết cho chị một giấy chứng nhận ly hôn, rồi bảo chị ra khỏi nhà.
\v 2 Khi đã ra khỏi nhà người này thì chị có thể về làm vợ một người đàn ông khác.
\s5
\v 3 Nếu người chồng sau này lại ghét bỏ chị và viết chứng nhận ly hôn trao cho chị, rồi đuổi chị ra khỏi nhà; hay nếu người chồng sau qua đời, thì người đàn ông lúc đầu đã lấy chị làm vợ
\v 4 tức người chồng trước đó đã đuổi chị đi người này không được lấy chị làm vợ lại, vì chị đã bị ô uế. Đó là điều kinh tởm đối với Giê-hô-va. Anh em không được làm cho ô uế xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình làm sản nghiệp.
\s5
\v 5 Khi một người mới cưới vợ thì người đó khỏi phải ra trận, và cũng không bị buộc thi hành bổn phận nào có tính cưỡng bách; người đó được thong thả ở nhà một năm để đem lại niềm vui cho người vợ mình đã cưới.
\s5
\v 6 Không ai được giữ cối xay hay thớt cối trên như vật thế chấp, vì đó chẳng khác nào nhận cầm mạng sống của người khác.
\s5
\v 7 Nếu kẻ nào bắt cóc một người anh em mình từ giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên, và đối xử với người đó như nô lệ rồi đem bán, thì kẻ bắt người đó phải chết. Anh em phải diệt trừ việc ác khỏi giữa vòng mình.
\s5
\v 8 Hãy coi chừng về nạn dịch phung hủi, để cẩn thận tuân thủ và làm theo mọi hướng dẫn mà các thầy tế lễ dòng Lê-vi đã chỉ dạy cho anh em; anh em phải thực hiện đúng như tôi đã dặn bảo họ.
\v 9 Hãy nhớ lại điều Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em đã làm cho Mi-ri-am, khi anh em ra khỏi Ai Cập.
\s5
\v 10 Khi anh em cho người khác vay mượn thứ gì thì cũng đừng vào nhà họ mà lấy vật thế chấp.
\v 11 Anh em cứ đứng bên ngoài và người đi vay mượn anh em đó sẽ đem vật thế chấp ra cho anh em.
\s5
\v 12 Nếu đó là người nghèo thì anh em không được đi ngủ khi vẫn còn giữ vật thế chấp đó.
\v 13 Đến lúc mặt trời lặn thì anh em nhất định phải trả lại món đồ thế chấp cho họ, để họ có áo mà đắp khi ngủ và chúc phước cho anh em; đó sẽ là sự công chính của anh em trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 14 Anh em không được áp bức người làm thuê nghèo khổ, thiếu thốn, dầu đó là người anh em Y-sơ-ra-ên của mình hay là khách ngoại kiều đang ở trong xứ anh em, bên trong các thành của anh em.
\v 15 Mỗi ngày anh em phải trả công cho họ ngay; không được để vấn đề này tồn đọng sau khi mặt trời lặn, vì họ nghèo thiếu và phải cậy vào đó để sống.
\s5
\v 16 Không được xử tử cha mẹ vì tội của con cái, cũng không được xử tử con cái vì tội của cha mẹ. Trái lại, ai phạm tội thì chính người đó phải bị xử tử.
\s5
\v 17 Anh em không được xử bất công đối với khách ngoại kiều hay kẻ mồ côi, cũng đừng nhận áo của góa phụ làm vật thế chấp.
\v 18 Anh em phải nhớ lại mình đã từng làm nô lệ tại Ai Cập, và nhờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời giải cứu mình khỏi đó. Vậy nên tôi chỉ thị cho anh em phải vâng theo giới luật này.
\s5
\v 19 Khi anh em gặt lúa ngoài đồng, và nếu anh em lỡ bỏ quên bó lúa nào ngoài đó, thì anh em không được quay trở lại lấy. Anh em phải để cho khách ngoại kiều, cho kẻ mồ côi, hoặc cho người góa bụa, để Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban phước cho anh em trong mọi việc tay anh em làm.
\v 20 Khi anh em rung lắc cây ô-liu mình, thì anh em không được mót lại những trái còn sót trên nhánh; đó sẽ là phần của khách ngoại kiều, kẻ mồ côi, hoặc người góa bụa.
\s5
\v 21 Khi anh em thu hoạch trái của vườn nho mình, anh em không được quay lại mót; đó sẽ là phần của khách ngoại kiều, kẻ mồ côi, hay người góa bụa.
\v 22 Anh em phải nhớ lại rằng mình từng là nô lệ trong xứ Ai Cập; vì vậy tôi chỉ thị anh em phải tuân giữ giới luật này.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Khi có tranh chấp và hai bên đưa nhau ra tòa để quan tòa xét xử, thì quan tòa sẽ tha bổng cho người công bình và tuyên phạt kẻ ác.
\v 2 Nếu kẻ có tội đáng bị đánh đòn, thì quan tòa sẽ bảo họ nằm xuống trước mặt mình và chịu đánh số gậy đòn tương xứng với tội đã gây ra.
\s5
\v 3 Quan tòa có thể phạt kẻ ấy bốn mươi đòn, nhưng không được vượt quá số đó, vì nếu quan tòa xử quá số đó để rồi đánh họ nhiều thêm thì người anh em Y-sơ-ra-ên kia sẽ bị nhục trước mặt anh em,
\s5
\v 4 Anh em không được khớp mõm con bò đang đạp lúa.
\s5
\v 5 Trong trường hợp các anh em ở chung nhà mà một người chết đi không con, thì người vợ của kẻ chết đó không được đi lấy người khác bên ngoài gia đình. Thay vì vậy, anh hay em trai của người đã chết phải ăn ở với người vợ góa như là vợ mình và làm bổn phận của người anh em chồng đối với chị.
\v 6 Làm vậy là để người con trưởng mà chị sinh ra sẽ nối danh cho người anh em đã chết của mình và danh đó không bị mất đi trong Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 7 Nhưng nếu người đó không muốn lấy chị hay em dâu mình làm vợ, thì người vợ góa đó phải đến gặp các trưởng lão tại cổng thành trình báo, rằng: Người anh/em chồng của tôi không chịu lưu danh cho em/anh mình trong Y-sơ-ra-ên, và từ chối thi hành bổ phận của anh/em chồng đối với tôi.
\v 8 Khi đó, các trưởng lão trong thành phải gọi anh này đến để nói chuyện. Nhưng giả sử anh ta khăng khăng từ chối, rằng: Tôi không muốn lấy người này.
\s5
\v 9 Lúc ấy, người em dâu hay chị dâu kia phải đến gần anh này trước sự hiện diện của các trưởng lão, lột dép ở chân anh ta ra, rồi nhổ vào mặt anh ta. Chị phải đáp lại anh ta, rằng: Người không chịu gây dựng gia đình cho em/anh mình thì phải xử thế này.
\v 10 Trong Y-sơ-ra-ên, anh này sẽ bị mang danh là Nhà của kẻ bị lột dép.
\s5
\v 11 Nếu có hai người đàn ông đánh nhau, và vợ của một người đến để tiếp cứu chồng, nhưng lại dùng tay nắm vào chỗ kín của người kia,
\v 12 thì anh em phải chặt tay của chị ta đi; mắt anh em không được thương xót.
\s5
\v 13 Trong túi anh em không được có hai loại trái cân, một già và một non.
\v 14 Trong nhà anh em không được có hai loại lường, một lớn và một nhỏ.
\s5
\v 15 Anh em phải dùng trái cân đúng, chính xác; anh em phải dùng thứ lường đúng và đủ, để anh em được sống lâu trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\v 16 Vì mọi kẻ làm những việc kia, tức mọi kẻ hành động không công chính, đều đáng ghê tởm đối với Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\s5
\v 17 Hãy nhớ lại việc mà dân A-ma-léc đã làm cho anh em trong lúc đi đường, sau khi anh em ra khỏi Ai Cập
\v 18 họ không tôn kính Đức Chúa Trời, nên đã đón đường anh em và đánh tập hậu vào những kẻ yếu sức đi sau cùng, khi anh em yếu mỏn, mỏi mệt.
\v 19 Vậy nên khi Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã cho anh em được thảnh thơi trước mọi kẻ thù chung quanh mình, trong xứ mà Ngài ban cho anh em sở hữu làm cơ nghiệp, thì anh em không được quên rằng mình phải xóa sạch ký ức về A-ma-léc dưới trời.
\s5
\c 26
\p
\v 1 Khi anh em đã vào trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình làm sản nghiệp, khi anh em được sở hữu xứ ấy và sống ở đó rồi,
\v 2 thì anh em phải lấy một phần hoa màu đầu mùa thu hoạch được từ mảnh đất mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho mình bỏ vào một chiếc giỏ rồi đem đến nơi mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ chọn làm nơi thánh Ngài.
\s5
\v 3 Anh em phải đến gặp thầy tế lễ đương chức tại thời điểm đó và nói với ông: Hôm nay đây, tôi xin xác nhận với Giê-hô-va Đức Chúa Trời của ông là tôi đã vào trong xứ mà Giê-hô-va đã thề hứa với các tổ phụ sẽ ban cho chúng ta.
\v 4 Thầy tế lễ sẽ nhận chiếc giỏ từ tay anh em và đặt nó xuống trước bàn thờ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em.
\s5
\v 5 Anh em phải nói trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, rằng: Tổ phụ con vốn là người A-ram sống phiêu bạt. Người xuống Ai Cập rồi ở lại đó, với một số ít người trong gia đình. Tại đó, người trở nên một dân lớn, hùng mạnh, đông đúc.
\s5
\v 6 Người Ai Cập ngược đãi chúng con, khiến chúng con khốn khổ. Họ buộc chúng con làm việc như nô lệ.
\v 7 Chúng con kêu van Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các tổ phụ chúng con, và Ngài nghe tiếng chúng con, nhìn thấy nỗi khốn cùng, nhọc nhằn, áp bức mà chúng con phải chịu.
\s5
\v 8 Giê-hô-va đã dùng bàn tay mạnh mẽ, bày tỏ quyền năng lớn lao, giáng sự kinh khiếp, dùng dấu kỳ, phép lạ để đem chúng con ra khỏi Ai Cập;
\v 9 rồi đưa chúng con đến đây, và ban xứ này cho chúng con, một xứ đượm sữa và mật.
\s5
\v 10 Đây, con có mang theo các sản vật đầu tiên của xứ mà Ngài, tức Giê-hô-va, đã ban cho chúng con. Anh em phải đặt nó xuống trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và thờ phượng trước mặt Ngài;
\v 11 anh em phải vui mừng về mọi việc tốt lành mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã làm cho mình, cho nhà mình anh em, người Lê-vi, và khách ngoại kiều giữa vòng anh em.
\s5
\v 12 Khi anh em đã nộp xong tất cả phần mười từ vụ thu hoạch của mình vào năm thứ ba, tức năm nộp thuế phần mười, thì anh em phải phân phát cho người Lê-vi, cho khách ngoại kiều, cho kẻ mồ côi và người góa bụa trong thành, để họ có mà ăn và được no đủ.
\v 13 Anh em phải nói trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, rằng: Con đã lấy mọi thứ thuộc về Giê-hô-va trong nhà mình phân phân phát cho người Lê-vi, khách ngoại kiều, kẻ mồ côi và người góa bụa, theo như mọi giới luật mà Ngài đã truyền bảo con. Con không vi phạm hoặc bỏ quên giới luật nào.
\s5
\v 14 Con không ăn của đó lúc tang chế, con không dời nó đi khi con ô uế, cũng không dùng nó để cúng kiếng người chết. Con đã nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình; con đã vâng giữ mọi điều Ngài truyền bảo con làm.
\v 15 Từ nơi thánh Chúa đang ngự, tức từ trên trời, xin Ngài đoái đến và ban phước cho dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, cùng với xứ mà Ngài đã ban cho chúng con, một xứ đượm sữa và mật, như Ngài đã thề hứa với các tổ phụ chúng con.
\s5
\v 16 Hôm nay đây, Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em truyền bảo anh em tuân giữ các luật lệ và quy định này; vì vậy anh em phải hết lòng, hết linh hồn mình giữ lấy và thực hiện.
\v 17 Hôm nay, anh em đã nhận Giê-hô-va là Đức Chúa Trời của mình, đồng ý bước đi trong các đường lối Ngài, vâng giữ các luật lệ, giới mạng, cùng các quy định Ngài ban, và nghe theo tiếng Ngài.
\s5
\v 18 Hôm nay, Giê-hô-va đã nhận anh em là dân thuộc riêng về Ngài, như Ngài đã hứa làm cho anh em, và anh em phải giữ hết các giới luật của Ngài.
\v 19 Hôm nay Giê-hô-va đã nhận rằng Ngài sẽ khiến anh em được ca ngợi, danh tiếng và sự tôn trọng trổi hơn mọi dân tộc khác mà Ngài đã tạo dựng. Anh em sẽ là một dân biệt riêng cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, theo như Ngài đã phán.”
\s5
\c 27
\p
\v 1 Môi-se và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên truyền bảo dân chúng rằng: “Hãy giữ tất cả các giới luật mà tôi truyền dạy anh em hôm nay.
\v 2 Trong ngày anh em qua sông Giô-danh để vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, thì anh em phải dựng mấy tảng đá lớn rồi lấy hồ tô lên.
\v 3 Anh em phải viết lên đó mọi lời của luật pháp này khi anh em đã qua sông và vào trong xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em, là xứ đượm sữa và mật, theo như Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của các tổ phụ anh em đã thề hứa với anh em.
\s5
\v 4 Khi anh em đã qua sông Giô-đanh, hãy dựng lên các tảng đá ấy theo như tôi truyền bảo cho anh em hôm nay, trên núi Ê-banh, và dùng hồ mà tô lên.
\v 5 Tại đó anh em phải lập bàn thờ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, là bàn thờ bằng đá; nhưng anh em không được dùng dụng cụ bằng sắt mà đục đẽo đá.
\s5
\v 6 Anh em phải xây bàn thờ cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình bằng đá nguyên khối; trên đó anh em phải dâng của lễ thiêu cho Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình,
\v 7 và anh em cũng sẽ dâng của lễ thù ân và ăn uống tại đó; anh em sẽ vui mừng trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\v 8 Anh em phải viết lên mấy tảng đá đó một cách rõ ràng mọi lời của luật pháp này.”
\s5
\v 9 Môi-se và các thầy tế lễ dòng Lê-vi nói với toàn thể Y-sơ-ra-ên rằng: “Nào, Y-sơ-ra-ên, hãy yên lặng và nghe đây. Hôm nay, anh em đã trở thành dân của Giê-hô-va Đức Chúa Trời.
\v 10 Vậy nên anh em phải vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cũng như vâng giữ các giới mạng cùng luật lệ mà tôi truyền cho anh em bữa nay.”
\s5
\v 11 Môi-se truyền bảo dân chúng trong cùng ngày đó, rằng:
\v 12 “Sau khi anh em đã qua sông Giô-đanh thì các bộ tộc sau đây phải đứng trên núi Ga-ri-xim để chúc phước cho dân chúng: Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-sa-ca, Giô-sép và Bên-gia-min.
\s5
\v 13 Còn các bộ tộc sau đây phải đứng trên núi Ê-banh công bố lời rủa sả: Ru-bên, Gát, A-se, Sa-bu-lôn, Đan và Nép-ta-li.
\v 14 Những người Lê-vi phải lớn tiếng tuyên bố với mọi người Y-sơ-ra-ên, rằng:
\s5
\v 15 Kẻ nào chạm hay đúc tượng, là vật Giê-hô-va ghê tởm, do tay người thợ làm ra, rồi lén lút dựng nó lên, phải bị nguyền rủa. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 16 Kẻ nào sỉ nhục cha mẹ mình phải bị nguyền rủa. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 17 Kẻ nào di dời mốc địa giới của người láng giềng phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 18 Kẻ nào khiến người mù đi lạc đường phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 19 Kẻ nào tước đoạt đi lẽ công bằng của khách ngoại kiều, kẻ mồ côi hoặc người góa bụa, phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 20 Kẻ nào ăn nằm với vợ của cha mình phải bị rủa sả, vì hắn đã tước đoạt quyền của người cha. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 21 'Kẻ nào ngủ với bất kỳ con thú nào phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 22 Kẻ nào ăn nằm với chị hay em gái mình, dầu là cùng mẹ khác cha, hay cùng cha khác mẹ, phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 23 Kẻ nào ngủ với bà gia mình phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 24 Kẻ nào bí mật ám hại người khác phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\v 25 Kẻ nào nhận của hối lộ để giết hại người vô tội phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\v 26 Kẻ nào không thừa nhận các lời của luật pháp này để vâng giữ thì phải bị rủa sả. Và toàn thể dân chúng phải đáp: A-men.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Nếu anh em cẩn thận nghe tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và giữ lấy mọi giới luật của Ngài mà tôi đang truyền dạy anh em hôm nay, thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ đặt anh em cao hơn tất cả các dân khác trên đất.
\v 2 Mọi phước lành này sẽ giáng trên anh em và theo đuổi anh em, nếu anh em nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 3 Anh em sẽ được phước trong thành, mà anh em cũng sẽ được phước ngoài đồng.
\v 4 Con cháu của anh em, hoa màu từ đất ruộng anh em, sản vật từ thú nuôi của anh em, lứa đẻ của đàn bò, đàn chiên anh em đều sẽ được phước.
\s5
\v 5 Cái giỏ và máng nhồi bột của anh em sẽ được phước.
\v 6 Đi vào nhà anh em được phước, mà đi ra đường anh em cũng được phước.
\s5
\v 7 Giê-hô-va sẽ khiến các kẻ thù nào nổi lên chống lại anh em bị đánh hạ trước mặt anh em; họ sẽ từ một hướng đi ra chặn đánh anh em, nhưng sẽ theo bảy hướng mà chạy trốn trước anh em.
\v 8 Giê-hô-va sẽ sai phước lành giáng trên anh em trong vựa lúa và trong mọi việc tay anh em làm; Ngài sẽ ban phước cho anh em trong xứ mà Ngài ban cho anh em.
\s5
\v 9 Giê-hô-va sẽ lập anh em làm một dân biệt riêng cho Ngài, như Ngài đã thề hứa với anh em, nếu anh em vâng giữ các giới mạng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và bước đi trong mọi đường lối Ngài.
\v 10 Tất cả các dân trên đất sẽ thấy rằng anh em được gọi bằng danh của Giê-hô-va, và họ sẽ sợ anh em.
\s5
\v 11 Giê-hô-va sẽ khiến anh em được thịnh vượng trong xứ mà Ngài thề hứa với các tổ phụ sẽ ban cho anh em: con cháu đông đúc, súc vật đầy đàn, hoa màu dư dật.
\v 12 Giê-hô-va sẽ mở vựa lẫm của Ngài trên trời cho anh em, ban mưa đúng mùa xuống đất đai anh em, ban phước cho mọi công việc của tay anh em; anh em sẽ cho nhiều dân tộc vay mượn, còn anh em thì chẳng vay mượn ai.
\s5
\v 13 Giê-hô-va sẽ khiến anh em đứng đầu chứ không phải đứng cuối; anh em sẽ chỉ ở trên chứ chẳng bao giờ ở dưới, nếu anh em nghe theo các giới mạng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà tôi truyền dạy anh em ngày nay, để tuân giữ và thực hiện,
\v 14 và nếu anh em không xây qua bên phải hoặc bên trái rồi lìa bỏ những lời tôi đang truyền dạy hôm nay đây để đi theo phụng thờ các thần khác.
\s5
\v 15 Nhưng nếu anh em không nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình để rồi tuân giữ hết các giới mạng và luật lệ Ngài mà tôi truyền dạy anh em ngày nay, thì mọi tai vạ này sẽ giáng trên anh em và sẽ bắt kịp anh em.
\s5
\v 16 Anh em sẽ bị rủa sả trong thành, và anh em cũng sẽ bị rủa sả ngoài đồng.
\v 17 Cái giỏ và máng nhồi bột của anh em sẽ bị rủa sả.
\s5
\v 18 Con cháu của anh em, thổ sản của anh em, lứa đẻ của đàn bò, đàn chiên anh em đều sẽ bị rủa sả.
\v 19 Bước vào nhà anh em sẽ bị rủa sả, mà đi ra đường anh em cũng bị rủa sả.
\s5
\v 20 Giê-hô-va sẽ giáng họa trên anh em trong mọi việc tay anh em làm, cho đến lúc anh em bị diệt hết, cho đến khi anh em nhanh chóng bị tiêu vong vì những việc ác mình làm khi lìa bỏ Ngài.
\v 21 Giê-hô-va sẽ khiến dịch bệnh đeo bám anh em cho đến khi Ngài diệt sạch anh em khỏi xứ mà Ngài sẽ ban cho anh em sở hữu.
\s5
\v 22 Giê-hô-va sẽ hành hại anh em bằng các bệnh lây nhiễm, bằng chứng viêm sốt, bằng cơn hạn hán và cái nóng cháy da, bằng gió thiêu đốt, và nấm mốc.
\s5
\v 23 Bầu trời trên đầu anh em sẽ như đồng, còn đất dưới chân anh em sẽ như sắt.
\v 24 Thay vì ban mưa trong xứ, Đức Chúa Trời sẽ khiến cát bụi từ trên trời đổ xuống trên anh em cho đến khi anh em bị diệt vong.
\s5
\v 25 Giê-hô-va sẽ khiến anh em bị đánh hạ trước quân thù mình; anh em sẽ từ một hướng đi ra chặn đánh họ, nhưng sẽ theo bảy hướng mà tháo chạy trước mặt họ. Anh em sẽ bị đùa đẩy đi đây đó giữa vòng các nước trên đất.
\v 26 Thây của anh em sẽ làm thức ăn cho mọi chim trời và các loài thú dưới đất; sẽ chẳng có ai xua đuổi chúng.
\s5
\v 27 Giê-hô-va sẽ hành hại anh em bằng ung nhọt xứ Ai Cập, bằng u bướu, hoại huyết, ghẻ ngứa không sao chữa khỏi.
\v 28 Giê-hô-va sẽ khiến anh em bị điên loạn, đui mù và lãng trí.
\v 29 Giữa ban trưa mà anh em sẽ đi mò mẫm như người mù mò mẫm trong bóng tối, và anh em sẽ không được thịnh vượng trong các đường lối mình. Anh em sẽ thường xuyên bị áp bức, cướp bóc mà chẳng có ai giải cứu.
\s5
\v 30 Anh em sẽ đính hôn với một phụ nữ, nhưng kẻ khác sẽ bắt cô ta rồi ăn ở với cô ta. Anh em sẽ xây nhà, nhưng không được sống trong đó; anh em sẽ trồng vườn nho, nhưng không được hưởng trái nó.
\v 31 Bò của anh em sẽ bị giết trước mặt anh em, nhưng anh em không được ăn thịt nó; lừa anh em sẽ bị cướp mất ngay trước mắt anh em, và chẳng bao giờ được trả lại. Chiên anh em sẽ bị nộp cho quân thù, nhưng chẳng ai tiếp cứu anh em.
\s5
\v 32 Con trai, con gái anh em sẽ bị nộp cho các dân; ngày đêm anh em sẽ dõi mắt trông ngóng con, và mắt sẽ mờ yếu vì trông ngóng chúng. Tay anh em chẳng còn sức lực.
\s5
\v 33 Thổ sản bởi công khó anh em làm ra thì một dân anh em chưa từng biết sẽ ăn hết; anh em sẽ luôn bì áp chế, chèn ép,
\v 34 đến nỗi anh em thành ra điên cuồng vì những chuyện mình nhìn thấy.
\v 35 Giê-hô-va sẽ hành hại anh em, khiến đầu gối và chân cẳng anh em bị ung độc không sao chữa khỏi, từ dưới bàn chân cho đến đỉnh đầu.
\s5
\v 36 Giê-hô-va sẽ đày anh em cùng với vị vua mà anh em đã tôn lên cai trị mình đến một nước mà anh em và các tổ phụ chưa từng biết; tại đó, anh em sẽ phụng thờ các tượng thần bằng gỗ, bằng đá.
\v 37 Anh em sẽ trở nên nỗi kinh hoàng, câu tục ngữ và trò cười giữa mọi dân mà Giê-hô-va sẽ đưa anh em đến.
\s5
\v 38 Hạt giống anh em mang ra đồng thì nhiều, nhưng anh em sẽ thu lại ít, vì sẽ bị châu chấu ăn sạch.
\v 39 Anh em sẽ trồng và chăm sóc vườn nho, nhưng sẽ không uống được rượu nho, thậm chí cũng không thu được trái, vì sâu bọ sẽ ăn hết.
\s5
\v 40 Anh em sẽ có cây ô liu trên khắp cả xứ, nhưng anh em lại chẳng có dầu để xoa bóp mình, vì trái cây ô liu sẽ rơi rụng.
\v 41 Anh em sẽ sinh con trai, con gái, nhưng chúng sẽ không còn là của anh em, vì chúng sẽ bị bắt đi.
\s5
\v 42 Toàn bộ cây cối và thổ sản anh em sẽ bị châu chấu phá sạch.
\v 43 Khách ngoại kiều giữa vòng anh em sẽ ngày càng trổi vượt hơn anh em, còn anh em thì ngày càng đi xuống.
\v 44 Họ sẽ cho anh em vay mượn, còn anh em thì chẳng có gì cho họ vay mượn; họ sẽ ở đàng đầu, còn anh em thì ở đàng cuối.
\s5
\v 45 Mọi tai họa này sẽ giáng xuống anh em, sẽ đuổi theo và bắt kịp anh em cho đến khi anh em bị diệt hết. Sở dĩ như vậy là vì anh em không nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và vâng giữ các giới mạng cùng luật lệ Ngài mà Ngài truyền cho anh em.
\v 46 Những tai họa này sẽ giáng trên anh em và trên dòng dõi anh em như những dấu hiệu, phép lạ.
\s5
\v 47 Vì anh em không phụng thờ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình với lòng vui sướng khi được thịnh vượng,
\v 48 nên anh em sẽ phục vụ những kẻ thù mà Giê-hô-va sai đến đánh anh em trong tình trạng đói khát, trần truồng và nghèo thiếu. Ngài sẽ đặt lên cổ anh em cái ách bằng sắt cho đến khi Ngài diệt sạch anh em.
\s5
\v 49 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ sai một dân từ phương xa, từ tận cùng trái đất, đến địch cùng anh em, như chim đại bàng lao vào con mồi, một dân nói thứ tiếng hoàn toàn xa lạ với anh em,
\v 50 là dân có vẻ mặt hung tợn, chẳng biết nể nang người già, cũng chẳng có thiện cảm với người trẻ.
\v 51 Chúng sẽ ăn sạch con nhỏ trong đàn gia súc anh em, cùng thổ sản của anh em, cho đến khi anh em bị diệt hết. Họ sẽ không chừa lại gì cho anh em, từ ngũ cốc, rượu mới, dầu, cho đến bò con, chiên con trong đàn của anh em, cho đến khi khiến anh em tiêu vong.
\s5
\v 52 Họ sẽ vây hãm anh em trong tất cả các thành của anh em khắp nơi trong xứ, cho đến khi các tường thành sừng sững kiên cố mà anh em vẫn trông cậy vào đổ sập xuống. Họ sẽ vây hãm anh em như vậy trong tất cả các thành trên toàn xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời ban cho anh em.
\v 53 Trong khi bị vây hãm và lâm vào cảnh khốn cùng do quân thù gây ra, anh em sẽ ăn bông trái của chính thân thể mình, tức ăn thịt con trai, con gái mình mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã ban cho anh em.
\s5
\v 54 Những người đàn ông hiền hòa, tế nhị giữa vòng anh em thậm chí họ cũng đố kỵ với anh em mình, với chính người vợ yêu dấu của mình, và với con cái còn lại của mình.
\v 55 Trong lúc bị vây hãm và gặp cảnh cùng khốn, họ sẽ không nhường bớt cho ai thịt của chính con mình mà họ sắp ăn, vì họ chẳng còn lại gì để ăn.
\s5
\v 56 Những phụ nữ dịu hiền, nhạy cảm giữa vòng anh em, dịu hiền, nhạy cảm đến độ không dám đặt bàn chân mình xuống đất họ sẽ thèm thuồng người chồng yêu dấu, thèm thuồng con trai, con gái mình,
\v 57 thèm thuồng đứa con sơ sinh ra từ bụng dạ mình, thèm thuồng cả thai nhi mà mình sẽ sinh ra. Họ sẽ lén lút ăn thịt hết đang lúc bị vây hãm và giữa cơn khốn khó do kẻ thù gây ra trong thành anh em, vì chẳng còn gì khác.
\s5
\v 58 Nếu anh em không giữ gìn mọi lời của luật pháp được chép trong sách này, để tôn kính danh vinh hiển và đáng kinh sợ là Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em,
\v 59 thì Giê-hô-va sẽ khiến giáng trên anh em cũng như trên con cháu anh em những tai vạ kinh khiếp; đó sẽ là những tai vạ lớn, kéo dài, cùng các chứng bệnh trầm trọng, dai dẳng.
\s5
\v 60 Ngài sẽ lại giáng trên anh em mọi chứng bệnh của xứ Ai Cập mà anh em vẫn sợ; các chứng bệnh ấy sẽ đeo bám anh em.
\v 61 nữa, mọi chứng bệnh và tai vạ không được chép trong sách luật pháp này Giê-hô-va cũng sẽ giáng trên anh em cho đến khi anh em bị hủy diệt.
\v 62 Vì anh em không nghe theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, nên số anh em sẽ chỉ còn lại ít, mặc dầu trước đó anh em đông như sao trời.
\s5
\v 63 Giê-hô-va đã vui mừng ban phước lành cho anh em và khiến anh em nên đông đúc thể nào, thì Ngài cũng sẽ lấy làm vui khiến anh em tiêu vong và hủy diệt anh em thể ấy. Anh em sẽ bị bứng khỏi xứ mà anh em sẽ vào chiếm hữu.
\v 64 Giê-hô-va sẽ rải anh em ra giữa mọi dân tộc, từ đầu này của đất cho đến đầu kia; ở những nơi đó, anh em sẽ phụng thờ các thần khác mà anh em lẫn các tổ phụ anh em đều chưa từng biết, các thần bằng gỗ, bằng đá.
\s5
\v 65 Sống giữa các nước đó, anh em sẽ không được thảnh thơi, bàn chân anh em cũng chẳng được nghỉ ngơi; trái lại, Giê-hô-va sẽ khiến lòng anh em run sợ, mắt anh em lờ mờ, linh hồn anh em sầu thảm.
\v 66 Mạng sống anh em sẽ bấp bênh trước mặt anh em; anh em sẽ sợ hãi cả ngày lẫn đêm, và chẳng có gì chắc chắn về sự sống của anh em.
\s5
\v 67 Do nỗi sợ hãi trong lòng và những việc mắt anh em phải chứng kiến, buổi sáng, anh em sẽ nói: Ước gì bây giờ là chiều tối! nhưng chiều tối đến, anh em lại bảo: Ước gì bây giờ là buổi mai!.
\v 68 Giê-hô-va sẽ đưa anh em trở lại Ai Cập bằng tàu thuyền, theo con đường mà khi nói về nó, tôi đã bảo: Anh em sẽ không thấy lại Ai Cập nữa. Ở đó anh em sẽ bán mình cho quân thù như những nam, nữ nô lệ, nhưng sẽ chẳng có ai mua.”
\s5
\c 29
\p
\v 1 Đây là những lời mà Giê-hô-va truyền bảo Môi-se phải nói lại cho dân chúng tại xứ Mô-áp, những lời được thêm vào giao ước mà Ngài đã lập với họ tại Hô-rếp.
\s5
\v 2 Môi-se gọi toàn thể Y-sơ-ra-ên và nói với họ: “Mắt anh em đã chứng kiến mọi việc mà Giê-hô-va làm tại Ai Cập cho Pha-ra-ôn, cho toàn thể quần thần, và cho cả xứ ông ta
\v 3 những tai vạ kinh khiếp mà mắt anh em nhìn thấy, là các dấu hiệu, và các phép lạ lớn ấy.
\v 4 Nhưng cho đến hôm nay, Giê-hô-va chưa ban cho anh em tấm lòng hiểu biết, cặp mắt nhìn rõ, đôi tai nghe thấy.
\s5
\v 5 Tôi đã dẫn dắt anh em suốt bốn mươi năm trong hoang mạc; áo quần anh em mặc không sờn rách, giày dép anh em mang chẳng cũ mòn.
\v 6 Anh em không ăn bánh, không uống rượu nho hay bất kỳ thức gì có cồn, để anh em biết rằng Giê-hô-va là Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 7 Khi anh em đến nơi này, Si-hôn, vua Hết-bôn, và Óc, vua Ba-san, xông ra đón đánh chúng ta, nhưng chúng ta đã đánh bại họ.
\v 8 Chúng ta chiếm xứ họ và chia cho bộ tộc Ru-bên, bộ tộc Gát, cùng phân nửa bộ tộc Ma-na-se làm sản nghiệp.
\v 9 Vậy nên hãy gìn giữ các lời của giao ước này và thực hành, để anh em được thịnh vượng trong mọi việc mình làm.
\s5
\v 10 Hôm này, toàn thể anh em đang đứng trước Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình nào tộc trưởng các bộ tộc, giới trưởng lão, các viên chức tức toàn thể nam giới trong Y-sơ-ra-ên,
\v 11 cùng vợ con anh em, khách ngoại kiều sống giữa anh em trong trại anh em, từ người đốn củi đến người kéo nước cho anh em.
\s5
\v 12 Anh em có mặt tại đây để tham gia vào giao ước với Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình và vào lời thề mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời lập với anh em hôm nay,
\v 13 để hôm nay Ngài khiến anh em trở nên một dân cho Ngài, còn Ngài sẽ làm Đức Chúa Trời của anh em, như Ngài đã phán với anh em và thề hứa với các tổ phụ anh em là Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp.
\s5
\v 14 Không phải chỉ riêng với anh em mà tôi lập giao ước và lời thề này
\v 15 tức mọi người đang đứng trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời chung với chúng ta đây, mà còn với những người không có mặt cùng chúng ta hôm nay nữa.
\v 16 Anh em biết chúng ta đã sống tại Ai Cập như thế nào, và chúng ta đã vượt qua các quốc gia mà anh em đã đi qua ra làm sao.
\s5
\v 17 Anh em đã thấy những vật đáng kinh tởm của họ: các tượng bằng gỗ, bằng đá, bằng bạc, bằng vàng ở giữa họ,
\v 18 cho nên trong anh em không được có bất kỳ đàn ông, phụ nữ, gia đình hay bộ tộc nào trở lòng lìa bỏ Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà đi phụng thờ các thần của các dân tộc đó để giữa anh em không có thứ rễ nào sinh ra mật đắng, ngải cứu,
\v 19 để khi người nào nghe các lời rủa sả này, thì họ không nhủ thầm trong lòng, rằng: Mình vẫn sẽ được an bình, cho dù có sống với tấm lòng chai đá. Sống như thế sẽ rước họa cho đất ướt cùng đất khô.
\s5
\v 20 Giê-hô-va sẽ không tha tội cho họ, trái lại, cơn giận của Giê-hô-va và lòng ghen tức Ngài sẽ dồn chứa đối với họ; mọi tai vạ chép trong sách này sẽ giáng trên họ và Giê-hô-va sẽ xóa sạch tên tuổi họ ở dưới trời.
\v 21 Giê-hô-va sẽ tách riêng họ ra khỏi mọi bộ tộc Y-sơ-ra-ên để giáng họa, y theo mọi tai vạ trong giao ước được chép trong sách luật pháp này.
\s5
\v 22 Thế hệ tương lai, tức các con cái anh em lớn lên sau này, và người ngoại quốc từ phương xa đến, sẽ lên tiếng khi nhìn thấy các tai vạ trong xứ này cùng những chứng bệnh mà Giê-hô-va đã khiến nó mắc phải
\v 23 và khi họ thấy khắp cả xứ chỉ toàn là lưu huỳnh với muối cháy, không ai gieo trồng, chẳng chi sinh trái, cây cỏ cũng chẳng mọc, giống cảnh điêu tàn của thành Sô-đôm và Gô-mô-rơ, Át-ma và Sê-bô-im mà Giê-hô-va đã phá hủy trong cơn thạnh nộ và cơn giận Ngài
\v 24 thì họ cùng với mọi dân khác sẽ thắc mắc: Vì sao Giê-hô-va đã đãi xứ này như thế? Do đâu mà có cơn giận phừng phừng như vậy?
\s5
\v 25 Rồi có người sẽ đáp lại: ‘Đó là vì họ đã bỏ giao ước của Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của tổ phụ mình, là giao ước Ngài lập với họ khi đem họ ra khỏi xứ Ai Cập,
\v 26 và vì họ đi phụng thờ các thần khác và quỳ lạy chúng nó, là các thần họ chưa từng biết và Ngài cũng không cho phép họ thờ lạy.
\s5
\v 27 Vì vậy, Giê-hô-va đã nổi giận với xứ ấy, và Ngài giáng xuống đủ thứ tai vạ được chép trong sách này.
\v 28 Trong lúc thạnh nộ và giận dữ, Giê-hô-va đã bứng họ ra khỏi xứ và ném họ vào xứ khác, như ngày nay.
\s5
\v 29 Những việc kín nhiệm hoàn toàn thuộc về Giê-hô-va Đức Chúa Trời chúng ta, nhưng những điều được mặc khải mãi mãi thuộc về chúng ta và con cháu chúng ta, để chúng ta thực hành mọi lời trong luật pháp này.
\s5
\c 30
\p
\v 1 Khi mọi điều này đã xảy đến cho anh em, tức các phước lành và tai họa mà tôi đã đặt trước mặt anh em, và tại tất cả các nước mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã đuổi anh em đến, anh em hồi tưởng lại các việc ấy,
\v 2 trở lại cùng Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, hết lòng, hết linh hồn vâng phục tiếng Ngài, làm theo mọi điều mà tôi truyền dạy anh em ngày nay tức anh em và con cháu anh em
\v 3 lúc đó Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ cứu anh em khỏi cảnh lưu đày và thương xót anh em; Ngài sẽ cho anh em trở về, nhóm anh em lại từ mọi giữa mọi dân tộc mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã rải anh em ra.
\s5
\v 4 Nếu có ai đó trong anh em bị đày đến tận cuối trời thì Giê-hô-va Đức Chúa Trời cũng sẽ nhóm anh em lại và đem anh em về từ nơi đó.
\v 5 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ đem anh em vào trong xứ mà cha ông anh em đã sở hữu, và anh em sẽ được sở hữu lại xứ ấy; Ngài sẽ ban phước cho anh em và sẽ khiến anh em nên đông đúc còn hơn cả khi Ngài làm cho các tổ phụ anh em.
\s5
\v 6 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ cắt bì lòng anh em và lòng con cháu anh em, để anh em hết lòng, hết linh hồn yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, và anh em được sống.
\v 7 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ giáng mọi tai họa này trên kẻ thù của anh em và trên những kẻ căm ghét anh em, bức hại anh em.
\v 8 Anh em sẽ trở lại vâng phục tiếng của Giê-hô-va, và anh em sẽ làm theo mọi giới mạng của Ngài mà tôi truyền dạy cho anh em ngày nay.
\s5
\v 9 Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ khiến anh em được thới thạnh trong mọi việc tay anh em làm; con cái anh em, đàn gia súc anh em, thổ sản của anh em sẽ nên đông đúc, dồi dào; vì Giê-hô-va sẽ lại hoan hỉ ban phước cho anh em, như Ngài đã hoan hỉ về cha ông của anh em.
\v 10 Ngài sẽ làm như vậy nếu anh em vâng theo tiếng của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình mà gìn giữ các giới mạng cùng luật lệ được chép trong sách luật pháp này, nếu anh em hết lòng, hết linh hồn hướng về Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 11 Vì giới luật mà tôi truyền cho anh em ngày nay không quá khó cho anh em, cũng chẳng quá cao đến nỗi anh em không với tới.
\v 12 Nó không ở trên trời để rồi anh em phải hỏi: Ai sẽ lên trời đem nó xuống cho chúng tôi, để chúng tôi nghe được và làm theo?
\s5
\v 13 Nó cũng không ở bên kia đại dương để rồi anh em thắc mắc: Ai sẽ vượt biển mà đem nó về, để chúng tôi có thể nghe và làm theo?
\v 14 Nhưng lời này rất gần anh em, ở ngay trong miệng và trong lòng anh em, để anh em có thể thực hiện.
\s5
\v 15 Đó, bữa nay tôi đã đặt trước mặt anh em sự sống và phước lành, sự chết và tai họa.
\v 16 Nếu anh em vâng giữ các giới luật của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, theo đó tôi truyền cho anh em phải yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bước đi trong mọi đường lối Ngài, gìn giữ các điều răn, luật lệ và quy định của Ngài, thì anh em sẽ được sống và thêm đông đúc, và Giê-hô-va Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho anh em trong xứ mà anh em sắp đi vào để chiếm hữu.
\s5
\v 17 Nhưng nếu anh em trở lòng không chịu nghe, bị quyến dụ quỳ lạy và phụng thờ các thần khác,
\v 18 thì ngày nay tôi công bố cho anh em rằng anh em chắc chắc sẽ bị diệt vong; anh em sẽ không được sống lâu dài trong xứ mà mình sắp qua sông Giô-đanh để vào chiếm hữu.
\s5
\v 19 Tôi kêu gọi trời và đất làm chứng cho anh em, rằng hôm nay tôi đã đặt trước anh em sự sống và sự chết, phước lành và tai họa; vì vậy, anh em hãy chọn sự sống để anh em và con cháu anh em được sống.
\v 20 Hãy làm vậy để tỏ lòng yêu mến Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, vâng theo tiếng Ngài, và gắn bó với Ngài. Vì Ngài chính là sự sống và sự trường thọ của anh em; hãy làm vậy để anh em được sống trong xứ mà Giê-hô-va đã thề hứa với các tổ phụ anh em, với Áp-ra-ham, với Y-sác và với Gia-cốp, là sẽ ban cho họ.”
\s5
\c 31
\p
\v 1 Môi-se ra và công bố những lời sau đây với toàn dân Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Ông nói với họ: “Nay tôi đã được một trăm hai mươi tuổi; tôi không còn sức đi ra đi vào được nữa. Giê-hô-va đã phán với tôi: Con sẽ không được qua sông Giô-đanh này đâu.
\v 3 Nhưng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, Ngài sẽ qua trước anh em; Ngài sẽ diệt hết các dân tộc đó khỏi trước mặt anh em, và sẽ tống xuất họ đi. Và Giô-suê, anh ta cũng sẽ qua trước anh em, như Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã phán dặn.
\s5
\v 4 Giê-hô-va sẽ xử họ như Ngài đã xử Si-hôn và Óc, các vua A-mô-rít, cùng xứ của họ, vốn đều bị Ngài diệt hết.
\v 5 Giê-hô-va sẽ cho anh em thắng hơn họ khi anh em giao chiến với họ, rồi anh em sẽ xử họ theo như tôi đã truyền bảo.
\v 6 Phải mạnh mẽ và can đảm lên, đừng sợ, cũng đừng kinh hãi họ; vì Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, chính Ngài đi cùng anh em; Ngài sẽ không khiến anh em thất vọng, cũng sẽ không lìa bỏ anh em.”
\s5
\v 7 Môi-se gọi Giô-suê và nói với ông trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên: Hãy mạnh mẽ và can đảm lên, vì anh sẽ cùng dân chúng đi vào xứ mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời đã thề hứa với các tổ phụ rằng Ngài sẽ ban cho họ; anh sẽ cho họ thừa hưởng xứ ấy.
\v 8 Giê-hô-va, chính Ngài đi trước anh; Ngài sẽ ở cùng anh; Ngài sẽ không khiến anh thất vọng hoặc lìa bỏ anh; đừng kinh hãi, cũng đừng ngã lòng.”
\s5
\v 9 Môi-se viết lại luật pháp này và phân phát cho các thầy tế lễ, tức các con trai dòng Lê-vi, những người khiêng rương chứng cớ của Giê-hô-va; ông cũng trao một bản cho tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên.
\v 10 Môi-se truyền bảo họ rằng: “Cứ sau bảy năm, tức thời điểm quy định cho việc xóa nợ, trong kỳ lễ Lều Trại,
\v 11 khi toàn thể Y-sơ-ra-ên đã đến ra mắt Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình tại nơi mà Ngài sẽ chọn làm nơi thánh Ngài, thì anh em phải đọc luật này để toàn dân Y-sơ-ra-ên đều nghe.
\s5
\v 12 Hãy nhóm dân chúng lại, từ đàn ông, phụ nữ, con cái họ, cho đến khách ngoại kiều trong các thành của anh em, để họ đều được nghe và học biết tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cùng giữ theo mọi lời trong luật pháp này.
\v 13 Hãy làm như vậy để những con cháu họ, vốn chưa từng nghe biết luật pháp này, cũng được nghe và học biết tôn kính Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, bao lâu mình sống trong xứ mà anh em sắp qua sông Giô-đanh để chiếm hữu.”
\s5
\v 14 Giê-hô-va nói với Môi-se: “Này, ngày con qua đời sắp đến rồi; hãy gọi Giô-suê và cùng anh ta trình diện tại lều hội kiến, để Ta truyền bảo điều này cho anh ta.”
\v 15 Giê-hô-va ra tại lều hội kiến trong một trụ mây; trụ mây dừng ở cửa lều.
\s5
\v 16 Giê-hô-va nói với Môi-se: Này, con sẽ an giấc cùng các tổ phụ mình; dân này sẽ phản loạn và hành xử như phường điếm đĩ, đi theo các thần lạ trong xứ, là nơi họ sẽ sống chung với chúng.
\s5
\v 17 Nên, vào ngày đó, Ta sẽ nổi thạnh nộ với họ, và Ta sẽ lìa bỏ họ. Ta sẽ giấu mặt khỏi họ, và họ sẽ bị hủy diệt. Họ sẽ gặp nhiều tai họa và phiền nhiễu, đến nỗi lúc đó họ sẽ hỏi: Phải chăng tôi gặp các tai họa này là vì Đức Chúa Trời không ở giữa chúng ta?
\v 18 Ta hẳn sẽ giấu mặt khỏi họ trong ngày đó vì mọi điều ác họ làm, vì họ đã đi theo các thần khác.
\s5
\v 19 Vậy nên con hãy viết ra bài ca này cho mình rồi dạy lại cho dân chúng Y-sơ-ra-ên. Hãy đặt nó trong miệng họ, để bài ca làm chứng cho Ta với dân Y-sơ-ra-ên.
\v 20 Vì khi Ta đã đem họ vào trong xứ mà Ta thề hứa ban cho các tổ phụ họ, là xứ đượm sữa và mật; khi họ đã ăn và được no béo, thì họ sẽ quay qua thờ lạy các thần khác; họ sẽ khinh dễ Ta và vi phạm giao ước Ta.
\s5
\v 21 Khi dân này đã gặp nhiều tai ương và phiền toái, thì bài ca này sẽ lên tiếng như một chứng nhân trước mặt họ; con cháu họ sẽ không quên hát bài ca này đâu. Vì Ta biết những việc ngày nay họ đang dự tính, ngay cả trước khi Ta đem họ vào trong xứ Ta đã thề hứa.”
\s5
\v 22 Vậy, Môi-se viết bài ca này trong cùng ngày hôm đó rồi dạy lại cho dân Y-sơ-ra-ên.
\v 23 Giê-hô-va truyền mạng lệnh này cho Giô-suê, con trai của Nun, rằng:Hãy mạnh mẽ và can đảm lên, vì con sẽ đem dân Y-sơ-ra-ên vào xứ mà Ta đã thề hứa với họ, và Ta sẽ ở cùng con.”
\s5
\v 24 Khi Môi-se đã viết xong các lời của luật pháp này vào sách,
\v 25 thì ông truyền lệnh cho những người Lê-vi có trách nhiệm khiêng rương chứng cớ của Giê-hô-va, rằng:
\v 26 "Hãy lấy cuốn sách luật pháp này đặt cạnh rương chứng cớ của Giê-hô-va Đức Chúa Trời anh em, để nó làm chứng cho anh em tại đó.
\s5
\v 27 Vì tôi biết anh em hay phản nghịch và cứng cổ; xem đó, trong lúc tôi vẫn còn sống với anh em ngày nay mà anh em còn phản nghịch Giê-hô-va như vậy, thì anh em sẽ thế nào sau khi tôi qua đời?
\v 28 Hãy triệu tập tất cả trưởng lão của các bộ tộc cùng các viên chức của anh em, để tôi trực tiếp nói cho họ nghe những lời này và kêu gọi trời đất làm chứng cáo tội họ.
\v 29 Vì tôi biết rằng sau khi tôi chết thì anh em sẽ bại hoại và lìa bỏ con đường mà tôi đã truyền dạy anh em; rồi tai họa sẽ giáng trên anh em trong những tháng ngày sau đó. Việc ấy sẽ xảy đến vì anh em sẽ làm ác trước mặt Giê-hô-va, chọc giận Ngài bằng việc làm của tay mình.”
\s5
\v 30 Môi-se hát lời của bài ca này trực tiếp cho toàn thể dân Y-sơ-ra-ên đều nghe cho đến khi hết.
\s5
\c 32
\p
\v 1 Hỡi trời, hãy lắng tai, rồi tôi sẽ nói. Hỡi đất, hãy nghe những lời từ miệng tôi.
\v 2 Hãy để lời giáo huấn của tôi nhỏ xuống như mưa, lời nói tôi giọt xuống như sương móc, như mưa nhẹ rơi trên cỏ non, tựa mưa rào trên cây cỏ.
\s5
\v 3 Vì tôi sẽ xưng tụng danh Giê-hô-va, và nói ra sự vĩ đại của Đức Chúa Trời chúng ta.
\v 4 Công việc Ngài, tức Vầng Đá, là trọn vẹn; mọi đường lối Ngài đều công bình. Ngài là Đức Chúa Trời thành tín, chẳng phạm tội. Ngài công bình và ngay thẳng.
\s5
\v 5 Họ đã tham nhũng chống lại Ngài, không xứng là con Ngài. Thật đáng xấu hổ. Cả một dòng dõi hư hỏng, quanh co.
\v 6 Những kẻ xuẩn ngốc, điên rồ kia, các người báo đáp Giê-hô-va như vậy sao? Chẳng phải Ngài là Cha các người, Đấng tạo thành các người sao? Chính Ngài đã làm ra các người, và lập nên các người.
\s5
\v 7 Hãy nhớ lại những ngày lúc xa xưa, nghĩ đến những năm trong các đời trước. Hãy hỏi cha mình, rồi người sẽ chỉ cho; hãy hỏi các phụ lão, rồi họ sẽ kể cho các người nghe.
\v 8 Khi Đấng Tối Cao ban sản nghiệp cho các nước khi Ngài phân chia toàn nhân loại, và định ranh giới cho các dân, như Ngài cũng đã định số các thần họ.
\s5
\v 9 Vì phần của Giê-hô-va là dân Ngài; Gia-cốp là phần sản nghiệp Ngài.
\v 10 Ngài tìm thấy người trong vùng đất vắng vẻ, trong hoang mạc cằn cõi, buồn thảm; Ngài che chở người và chăm sóc người, bảo vệ người như con ngươi của mắt mình.
\s5
\v 11 Như phượng hoàng canh giữ tổ, vỗ cánh che con nhỏ mình, thì Giê-hô-va cũng xòe cánh đỡ lấy họ, và mang họ trên cánh Ngài.
\v 12 Chỉ một mình Giê-hô-va dẫn dắt họ; chẳng thần ngoại quốc nào đi với họ.
\s5
\v 13 Ngài khiến người cưỡi trên các nơi cao của xứ, Ngài nuôi người bằng hoa quả ngoài đồng; Ngài dưỡng người bằng mật ong từ tảng đá, và dầu từ vách đá cứng.
\s5
\v 14 Người ăn bơ của đàn bò, uống sữa của đàn chiên, với mỡ chiên con, chiên đực vùng Ba-san và dê, cùng lúa mì hảo hạng và anh em uống rượu tràn trề từ nước ép quả nho.
\s5
\v 15 Nhưng Giê-su-run mập lên và tung chân đá, khi đã no tròn, béo tốt, bảnh bao. Người lìa bỏ Đức Chúa Trời đã tạo ra mình, và người khước từ Vầng Đá cứu rỗi mình.
\v 16 Họ khiến Giê-hô-va ghen tương bởi những thần lạ, chọc giận Ngài bằng các hình tượng kinh tởm của mình.
\s5
\v 17 Họ dâng lễ cho các quỷ, vốn không phải là Đức Chúa Trời mà là các thần họ chưa từng biết, các thần chỉ mới có đây, các thần mà cha ông các người chẳng kính sợ.
\v 18 Các người đã lìa bỏ Vầng Đá, là Cha mình, và quên Đức Chúa Trời đã sinh ra mình.
\s5
\v 19 Giê-hô-va nhìn thấy việc ấy, nên Ngài khước từ họ, vì các con trai, con gái Ngài đã khích Ngài làm vậy.
\v 20 Ngài phán: “Ta sẽ giấu mặt khỏi chúng nó, để xem kết cuộc chúng nó sẽ thế nào; vì chúng nó là dòng dõi ương ngạnh, là con cái bất trung.
\s5
\v 21 Chúng trêu Ta ghen tức bằng thứ chẳng phải là thần, và chọc giận Ta bằng các hình tượng chẳng ra gì. Ta sẽ khiến chúng ganh tị vì những kẻ chẳng phải là một dân; Ta sẽ chọc tức chúng bởi một nước thiếu hiểu biết.
\s5
\v 22 Vì cơn thạnh nộ Ta làm bùng lên ngọn lửa, cháy đến tận đáy âm ti; nó thiêu nuốt đất đai cùng hoa màu; nó đốt cháy nền móng các núi.
\s5
\v 23 Ta sẽ chồng chất tai ương trên chúng; Ta sẽ bắn hết tên vào chúng.
\v 24 Chúng sẽ bị hao mòn vì đói, bị thiêu nuốt bởi sức nóng cháy bỏng và sự hủy diệt kinh khiếp; Ta sẽ khiến chúng làm mồi cho thú hoang, cùng loài rắn độc bò trong bụi đất.
\s5
\v 25 Ngoài đường thanh gươm sẽ cướp giết, còn trong buồng thì kinh hãi ngự trị. Thanh niên, thiếu nữ, em bé, người già đều bị diệt sạch.
\v 26 Ta nói sẽ rải chúng ra thật xa, khiến loài người chẳng ai còn nhớ đến.
\s5
\v 27 Nếu không vì Ta sợ kẻ thù khiêu khích, sợ các cừu địch chúng lầm tưởng, sợ chúng nói rằng: Tay mình cao cường, thì Ta đã thi hành mọi việc ấy rồi.
\s5
\v 28 Vì Y-sơ-ra-ên là một dân thiếu khôn ngoan; nơi chúng chẳng có sự hiểu biết.
\v 29 Ôi, ước gì chúng sáng suốt, để hiểu được điều này, và biết suy xét số phận đang chờ đợi mình!
\s5
\v 30 Làm sao một người rượt đuổi cả ngàn, hai người đuổi được cả vạn cao chạy xa bay, nếu Vầng Đá không bán chúng nó, nếu Giê-hô-va không giao nộp chúng nó?
\v 31 Vì vầng đá của kẻ thù chúng ta chẳng giống Vầng Đá chúng ta, đúng như kẻ thù chúng ta phải thừa nhận.
\s5
\v 32 Vì cây nho chúng có gốc là cây nho Sô-đôm, đâm ra từ ruộng đồng Gô-mô-rơ; Trái nho chúng là trái nho độc; chùm nho chúng là chùm nho đắng.
\s5
\v 33 Rượu nho chúng là nọc độc loài rắn, và nọc dữ của rắn hổ.
\v 34 Chẳng phải việc này được Ta giữ kín, được niêm phong giữa các kho tàng Ta đó sao?
\s5
\v 35 Sự báo oán là việc của Ta, Ta sẽ báo trả, lúc chân chúng nó trượt té; vì ngày tai vạ của chúng đã gần, và những việc phải xảy ra cho chúng sẽ chóng đến.
\s5
\v 36 Vì Giê-hô-va sẽ bênh vực dân Ngài, và sẽ đoái thương các tôi tớ Ngài khi Ngài thấy năng lực họ tiêu mất, kẻ nô lệ lẫn người tự do đều chẳng còn.
\s5
\v 37 Rồi Ngài sẽ phán: Đâu cả rồi các thần của chúng, vầng đá mà chúng náu nương?
\v 38 Tức các thần đã ăn lễ vật của chúng, đã uống rượu tế chúng dâng lên. Hãy để nó trổi dậy cứu giúp các ngươi; hãy để nó chở che các ngươi.
\s5
\v 39 Bây giờ, hãy hiểu rằng Ta, chính Ta, là Đức Chúa Trời, ngoài Ta không có thần nào khác; Ta giết cho chết, và Ta làm cho sống; Ta khiến thương tich, và Ta chữa lành; chẳng ai có thể cứu các ngươi khỏi tay Ta.
\v 40 Vì Ta đưa tay lên trời và nói: Vì Ta sống muôn đời, nên Ta sẽ hành động.
\s5
\v 41 Khi Ta mài bén thanh gươm sáng mình, khi tay Ta khởi thi hành sự chính trực, thì Ta sẽ báo thù các cừu địch, Ta sẽ đáp trả những kẻ ghét Ta.
\s5
\v 42 Ta sẽ khiến các mũi tên Ta say máu, còn thanh gươm Ta sẽ ăn thịt với máu những kẻ bị giết lẫn kẻ bị cầm, và từ thủ cấp của các quan tướng kẻ thù.’”
\s5
\v 43 Hỡi muôn dân, hãy vui mừng với dân Đức Chúa Trời, vì Ngài sẽ đòi nợ máu của các tôi tớ Ngài; Ngài sẽ báo oán các kẻ thù mình, và Ngài sẽ chuộc tội cho xứ Ngài, cho dân Ngài.
\s5
\v 44 Môi-se, cùng con trai của Nun là Giô-suê, đến và hát mọi lời của bài ca này trực tiếp cho dân chúng nghe
\v 45 Sau khi hát xong mọi lời này cho toàn dân Y-sơ-ra-ên,
\s5
\v 46 ông nói với họ: “Hãy chú tâm vào mọi lời mà tôi đã làm chứng cho anh em bữa nay, để rồi truyền lại cho con cháu anh em giữ lấy, tức mọi lời của luật pháp này.
\v 47 Đây chẳng phải là việc tầm thường đối với anh em đâu, mà là sự sống của anh em, và nhờ đó anh em sẽ được sống lâu ngày trong xứ mà anh em sắp qua sông Giô-đanh để chiếm hữu.”
\s5
\v 48 Trong cùng ngày đó, Giê-hô-va phán với Môi-se:
\v 49 “Con hãy đi lên đỉnh Nê-bô thuộc dãy núi A-ba-rim, trong xứ Mô-áp, đối diện với Giê-ri-cô. Con cứ nhìn xem xứ Ca-na-an mà Ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên làm sản nghiệp.
\s5
\v 50 Rồi con sẽ qua đời trên ngọn núi mà con lên đó, và được tiếp về với cha ông mình, giống như người anh em Y-sơ-ra-ên của con là A-rôn đã chết trên núi Hô-rơ và được tiếp về với tổ tiên người.
\v 51 Sở dĩ như vậy là vì các con đã bất trung với Ta giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên tại suối nước Mê-ri-ba ở Ca-đe, trong hoang mạc Sin; khi các con tỏ ra bất kính và thiếu tôn trọng Ta giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên.
\v 52 Con sẽ nhìn thấy xứ ấy trước mặt, nhưng sẽ không được vào xứ mà Ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\c 33
\p
\v 1 Đây là lời chúc phước mà Môi-se, người của Đức Chúa Trời, chúc cho dân Y-sơ-ra-ên trước khi qua đời.
\v 2 Ông nói: Giê-hô-va từ Si-nai đến, và từ Sê-i-rơ mọc lên soi trên họ. Từ núi Pha-ran Ngài chiếu sáng ra, và Ngài đến với muôn vàn đấng thánh. Trên tay phải Ngài là các tia chớp.
\s5
\v 3 Thật, Ngài yêu thương dân mình; tất cả thánh đồ Ngài nắm giữ trong tay; họ phủ phục nơi chân Ngài, ai nấy đều tiếp nhận lời Ngài.
\v 4 Tôi, Môi-se, đã truyền cho anh em luật pháp, là di sản cho hội của Gia-cốp.
\s5
\v 5 Rồi Giê-hô-va trở nên vua tại Giê-su-run, khi lãnh đạo của dân chúng đã tập họp mọi bộ tộc Y-sơ-ra-ên lại.
\v 6 Nguyện Ru-bên cứ sống, và chẳng chết; nhưng ước cho con cháu người thật ít oi.
\s5
\v 7 Đây là lời chúc phước cho Giu-đa. Môi-se nói: Hỡi Giê-hô-va, xin hãy nghe tiếng của Giu-đa và đem người về với dân mình. Xin Ngài chiến đấu cho người, giúp người chống lại kẻ thù.
\s5
\v 8 Về Lê-vi, Môi-se nói: “Thu-mim và U-rim của Chúa thuộc về kẻ Ngài vừa ý, người Ngài đã thử luyện tại Ma-sa, và tranh chiến với tại suối nước Mê-ri-ba.
\s5
\v 9 Là người đã nói về cha mẹ mình, rằng: “Tôi chưa từng thấy họ.” Người không nhận anh em mình, hay màng đến con cái của chính mình. Vì người bảo vệ lời Chúa và gìn giữ giao ước Ngài.
\s5
\v 10 Người dạy cho Gia-cốp các quy định của Ngài, dạy cho Y-sơ-ra-ên luật pháp Ngài. Người sẽ dâng hương trước mặt Ngài, và của lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài.
\s5
\v 11 Hỡi Giê-hô-va, xin hãy ban phước cho cơ nghiệp người, và nhậm lấy công việc của tay người. Xin đập vỡ hông kẻ nào chống nghịch người, của kẻ thù ghét người, để chúng không thể đứng lên được nữa.
\s5
\v 12 Về Bên-gia-min, Môi-se nói: Kẻ được Giê-hô-va yêu thương sống bình yên bên cạnh Ngài; Giê-hô-va che chở người, và người sống trong vòng tay Ngài.
\s5
\v 13 Về Giô-sép, Môi-se nói: Nguyện miền đất của người được Giê-hô-va ban phước, bằng các báu vật từ trời, là sương móc, Bằng mạch nước sâu dưới lòng đất.
\s5
\v 14 Bằng báu vật hoa quả tạo ra nhờ mặt trời, bằng báu vật của các tuần trăng.
\v 15 Bằng phẩm vật hảo hạng của núi cổ, Bằng báu vật của đồi gò vĩnh cửu.
\s5
\v 16 Bằng báu vật của đất cùng sự phong phú nó, và bằng thiện ý của Đấng hiện ra trong bụi cây. Nguyện phước lành giáng trên đầu Giô-sép, trên vầng trán của kẻ làm chúa anh em mình.
\s5
\v 17 Là bò đực đầu lòng, người thật oai vệ, và các sừng người là sừng của bò rừng. Bằng các sừng ấy, người đùa hết mọi dân đến các đầu cùng đất. Đó là hàng vạn người Ép-ra-im; đó là hàng ngàn người Ma-na-se.
\s5
\v 18 Về Sa-bu-lôn, Môi-se nói: Sa-bu-lôn, hãy vui mừng lúc đi ra, còn Y-sa-ca, hãy hớn hở trong lều mình.
\v 19 Họ sẽ gọi các dân lên núi. Tại đó họ sẽ dâng tế lễ công bình. Vì họ sẽ hút lấy sự giàu có của biển khơi, và từ nơi cát trên bờ.
\s5
\v 20 Về Gát, Môi-se nói: Đáng chúc tôn Đấng mở rộng bờ cõi của Gát. Người sẽ sống ở đó như một sư tử cái, và sẽ xé lìa cánh tay hay đầu.
\s5
\v 21 Người cấp cho mình phần tốt đẹp nhất, vì có phần đất dành cho lãnh tụ. Người xuất hiện cùng với giới lãnh đạo dân chúng. Người thi hành sự công chính của Giê-hô-va và các quy định Ngài cho Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 22 Về Đan, Môi-se nói: Đan là sư tử tơ từ Ba-san nhảy vọt ra.
\s5
\v 23 Về Nép-ta-li, Môi-se nói: Được no đủ nhờ ân huệ và phước lành của Giê-hô-va, Nép-ta-li chiếm hữu vùng đất phía tây và phía nam.
\s5
\v 24 Về A-se, Môi-se nói: Nguyện A-se được phước hơn các con trai khác; nguyện người được anh em mình chấp nhận, và bàn chân người được dầm trong dầu ô-liu.
\v 25 Nguyện các then của thành người là sắt, là đồng; số ngày người sống lâu dài thể nào thì sự an ninh của người cũng lâu dài thể ấy.
\s5
\v 26 Nào có ai giống như Đức Chúa Trời đâu, Giê-su-run Ngài thật chính trực, cưỡi trên các từng trời, oai vệ trên các đám mây, đến cứu giúp ngươi.
\s5
\v 27 Đức Chúa Trời đời đời là nơi trú ẩn cho dân Ngài, dùng tay đời đời đỡ nâng họ. Ngài sẽ đuổi kẻ thù khỏi trước mặt ngươi, và hô lên: “Hãy diệt đi!”
\s5
\v 28 Nguyện Y-sơ-ra-ên được ở bình an. Suối Gia-cốp được an ninh trong miền đất ngũ cốc và rượu mới; thật, hãy để các tầng trời giọt nhỏ sương móc trên nó.
\s5
\v 29 Hỡi Y-sơ-ra-ên, ngươi thật có phước! Ai giống như ngươi, dân được cứu bởi Giê-hô-va, thuẫn giúp đỡ ngươi, gươm của sự vinh hiển ngươi? Các kẻ thù ngươi sẽ đến run rẫy trước người, và ngươi sẽ giẫm đạp các nơi cao của chúng nó.
\s5
\c 34
\p
\v 1 Môi-se từ đồng bằng Mô-áp đi đến núi Nê-bô, lên đỉnh Phích-ga, đối ngang Giê-ri-cô. Giê-hô-va chỉ cho ông thấy toàn xứ Ga-la-át tận cho đến Đan,
\v 2 cùng toàn vùng Nép-ta-li, miền đất của Ép-ra-im và Ma-na-se, toàn miền đất của Giu-đa, cho đến biển tây,
\v 3 vùng Nê-ghép, đồng bằng thung lũng Giê-ri-cô, thành Cây Cọ, cho đến tận Xoa.
\s5
\v 4 Giê-hô-va nói với ông: “Đây là xứ Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, với Y-sác, với Gia-cốp, rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng dõi con. Ta đã cho con tận mắt nhìn thấy, nhưng con sẽ không vào đó.”
\v 5 Vậy, Môi-se, tôi tớ của Giê-hô-va, qua đời tại đó, trong xứ Mô-áp, như lời của Giê-hô-va đã hứa.
\v 6 Giê-hô-va chôn ông trong thung lũng thuộc xứ Mô-áp, đối ngang Bết Phê-ô, nhưng cho đến tận ngày nay chẳng ai biết mộ của ông đâu cả.
\s5
\v 7 Môi-se được một trăm hai mươi tuổi lúc ông qua đời; mắt ông không mờ, sức ông không giảm.
\v 8 Dân Y-sơ-ra-ên thương khóc Môi-se ba mươi ngày trong đồng bằng Mô-áp, và sau đó thời gian thương khóc Môi-se kết thúc.
\s5
\v 9 Giô-suê, con trai Nun, được đầy dẫy thần trí khôn ngoan, vì Môi-se đã đặt tay trên ông. Dân Y-sơ-ra-ên nghe theo ông và thực hiện những gì Giê-hô-va đã truyền bảo Môi-se.
\s5
\v 10 Từ đó đến nay trong Y-sơ-ra-ên chưa xuất hiện tiên tri nào giống như Môi-se, người được Giê-hô-va biết mặt đối mặt.
\v 11 Chưa bao giờ có tiên tri nào được như ông về các dấu và phép lạ mà Giê-hô-va đã sai ông thực hiện trong xứ Ai Cập, cho Pha-ra-ôn, cho toàn thể quần thần, cùng toàn xứ của ông ta.
\v 12 Chưa từng có tiên tri nào làm được mọi việc lớn lao, đáng sợ như Môi-se đã làm trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên.