vi_ulb/03-LEV.usfm

1665 lines
175 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id LEV
\ide UTF-8
\h LÊ-VI KÝ
\toc1 LÊ-VI KÝ
\toc2 LÊ-VI KÝ
\toc3 lev
\mt LÊ-VI KÝ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va đòi Môi-se đến và phán cùng người từ chỗ nhóm lại như sau:
\v 2 "Hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ: 'Bất kỳ người nào giữa vòng các con đem của lễ đến dâng cho Đức Giê-hô-va, hãy đem một trong các súc vật của các con làm của lễ, hoặc từ trong bầy hay từ trong đàn.
\s5
\v 3 Nếu của lễ của người là của lễ thiêu từ trong đàn, người phải dâng một con đực không tì vít. Người cần phải dâng nó ngay lối vào của nơi nhóm lại, hầu cho của lễ ấy được nhậm trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 4 Người ấy cần phải đặt tay trên đầu của của lễ thiêu, và khi ấy nó sẽ được nhậm vì ích của người ấy, làm sự chuộc tội cho mình.
\s5
\v 5 Khi ấy, người sẽ giết con bò đực trước mặt Đức Giê-hô-va. Các con trai của A-rôn, những thầy tế lễ, sẽ trình huyết ra rồi rải huyết ấy trên bàn thờ ở ngay lối vào của nơi nhóm lại.
\v 6 Rồi người phải lột da của lễ thiêu rồi sả nó ra từng mảnh.
\s5
\v 7 Tiếp đến, các con trai của thầy tế lễ A-rôn sẽ châm lửa lên bàn thờ rồi chất củi chụm lửa lên.
\v 8 Các con trai A-rôn, những thầy tế lễ, cần phải đặt những miếng thịt, đầu và mỡ, lên trên củi đã châm lửa trên bàn thờ.
\v 9 Nhưng bộ lòng và hai cái giò của nó người phải dùng nước rửa. Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ thiêu mọi thứ trên bàn thờ làm một của lễ thiêu. Điều đó sẽ tạo ra của lễ có mùi thơm cho ta; đó sẽ là một của lễ dâng lên cho ta bằng lửa.
\s5
\v 10 Nếu của lễ của người là của lễ thiêu lấy từ bầy, một trong các con chiên hay một trong các con dê, người phải dâng một con đực không tì vít.
\v 11 Người phải giết nó ở cạnh phía Bắc của bàn thờ trước mặt Đức Giê-hô-va. Các con trai của A-rôn, những thầy tế lễ, sẽ rưới huyết nó trên từng cạnh của bàn thờ.
\s5
\v 12 Tiếp đến, người phải cắt thịt nó thành nhiều mảnh, với đầu và mỡ nó, và thầy tế lễ sẽ đặt chúng trên củi đã chụm lửa trên bàn thờ,
\v 13 nhưng bộ lòng và hai cái giò người ấy phải dùng nước mà rửa. Khi ấy, thầy tế lễ sẽ dâng cả thảy, và thiêu nó trên bàn thờ. Đây là một của lễ thiêu, và nó sẽ tạo ra một mùi thơm dâng lên cho Đức Giê-hô-va; nó sẽ là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ngài.
\s5
\v 14 Nếu của lễ của người dâng lên cho Đức Giê-hô-va cần phải làm của lễ thiêu là các loài chim, khi ấy người phải đem của lễ ấy, một là chim bồ câu hay bồ câu con.
\v 15 Thầy tế lễ phải đem nó đến bàn thờ, rứt đầu nó ra, rồi thiêu nó trên bàn thờ. Khi ấy, huyết của nó phải được rưới lên cạnh của bàn thờ.
\s5
\v 16 Người phải gỡ lấy cái diều với lông của nó, rồi liệng nó cạnh bàn thờ về phía Đông, trong chỗ dành cho tro.
\v 17 Người phải xé nó ra nơi hai cánh, nhưng người không được tách rời ra thành hai phần. Khi ấy, thầy tế lễ sẽ thiêu nó trên bàn thờ, lên củi có châm lửa trên bàn thờ. Nó sẽ trở thành một của lễ thiêu, và nó tạo ra một mùi thơm dâng lên cho Đức Giê-hô-va; nó sẽ trở thành một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ngài.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Khi có ai dâng của lễ chay cho Đức Giê-hô-va, của lễ của người ấy phải là bột tốt nhứt, và người sẽ đổ dầu và đặt hương lên đó.
\v 2 Người đem của lễ đến cho các thầy tế lễ con trai của A-rôn, và ở đó thầy tế lễ sẽ lấy một nắm bột tốt nhứt với dầu và hương trên nó. Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ thiêu của lễ trên bàn thờ với lòng biết ơn suy nghĩ đến sự nhân từ của Đức Giê-hô-va. Làm thế sẽ tạo ra một mùi thơm ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va; đó sẽ là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ngài.
\v 3 Bất cứ thứ chi còn lại của của lễ chay sẽ thuộc về A-rôn cùng các con trai người. Của lễ hoàn toàn được dâng lên cho Đức Giê-hô-va từ các của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Khi nào anh em dâng lên của lễ chay không có men nướng trong lò, đó phải là bánh làm bằng bột mịn trộn với dầu, hoặc bánh cứng không men, được phủ bằng dầu.
\v 5 Nếu của lễ chay anh em chiên trong chảo làm bằng sắt, thì của lễ phải là bột nhất hạng không men được trộn với dầu.
\s5
\v 6 Anh em cần phải bẻ bánh ra làm hai rồi rưới dầu lên. Đây là của lễ chay.
\v 7 Nếu của lễ chay được chiên trong chảo, của lễ ấy phải được làm bằng bột nhất hạng và dầu.
\s5
\v 8 Anh em phải đem của lễ chay được làm bằng những thứ nầy dâng cho Đức Giê-hô-va, và của lễ phải được trình cho thầy tế lễ, người sẽ đem nó vào bàn thờ.
\v 9 Khi ấy, thầy tế lễ sẽ lấy ra một phần từ của lễ chay với lòng biết ơn suy nghĩ đến sự nhân từ của Đức Giê-hô-va, và người sẽ thiêu nó trên bàn thờ. Đó sẽ là một của lễ làm bằng lửa, và của lễ ấy sẽ tạo ra một mùi thơm ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va.
\v 10 Những gì còn lại của của lễ chay sẽ thuộc về A-rôn cùng các con trai người. Của lễ ấy được dâng lên hoàn toàn cho Đức Giê-hô-va từ các của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 11 Không một của lễ chay nào mà anh em dâng lên cho Đức Giê-hô-va được làm với men, vì anh em không được dùng men, cũng không được dùng mật, làm một của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\v 12 Anh em sẽ dâng chúng lên cho Đức Giê-hô-va làm một của lễ bông trái đầu mùa, nhưng chúng sẽ không được dùng để tạo ra mùi thơm ngạt ngào trên bàn thờ.
\v 13 Anh em phải nêm từng của lẽ chay với muối. Anh em đừng bao giờ để cho muối của giao ước của Đức Chúa Trời bị thiếu mất trong của lễ chay của anh em. Với mọi thứ của lễ, anh em phải dùng đến muối.
\s5
\v 14 Nếu anh em dâng của lễ chay về bông trái đầu mùa lên cho Đức Giê-hô-va, hãy dâng gạo mới dùng lửa chiên lên rồi tán nát ra.
\v 15 Khi ấy, anh em phải thêm dầu và hương lên của lễ ấy. Đây là một của lễ chay.
\v 16 Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ thiêu một phần gạo tán nát ra, dầu cùng hương với lòng biết ơn suy nghĩ đến sự nhân từ của Đức Giê-hô-va. Đây là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Nếu có ai dâng một con sinh làm của lễ tương giao bằng con vật ở trong bầy, dù là con đực hay con cái, người ấy phải dâng một con vật không tì vít ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 2 Người sẽ đặt tay mình lên đầu của lễ vật mình rồi giết nó tại nơi cửa của nơi nhóm lại. Tiếp đến, các con trai của A-rôn, sẽ rải huyết ở bốn bên bàn thờ.
\s5
\v 3 Người sẽ dùng lửa dâng con sinh của lễ tương giao lên cho Đức Giê-hô-va. Mỡ bao lấy với bộ đồ lòng,
\v 4 và hai trái cật cùng mỡ trên chúng cạnh hông, và thùy của gan, với hai trái cật — người sẽ gỡ hết mấy thứ nầy.
\v 5 Các con trai A-rôn sẽ thiêu trên bàn thờ với của lễ thiêu, mọi thứ đặt củi chụm lửa rồi. Làm như vầy sẽ tạo ra mùi thơm ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va; đây sẽ là một của lễ dùng lửa dâng lên cho Ngài.
\s5
\v 6 Nếu con sinh của người là của lễ tương giao dâng lên cho Đức Giê-hô-va được lấy ra từ bầy; đực hay cái, người ấy phải dâng một con sinh không tì vít.
\v 7 Nếu người dâng một con chiên làm con sinh của mình, khi ấy người phải dâng nó lên trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 8 Người sẽ đặt tay mình lên đầu của con sinh rồi giết nó ở trước nơi nhóm lại. Khi ấy, các con trai A-rôn sẽ rải huyết của nó lên bốn cạnh của bàn thờ.
\s5
\v 9 Người sẽ dâng con sinh làm của lễ tương giao làm của lễ được dâng lên bằng lửa cho Đức Giê-hô-va. Mỡ, toàn bộ mỡ và nguyên cái đuôi cắt ra gần xương sống, và mỡ bao lấy bộ đồ lòng và tất cả mỡ ở gần bộ đồ lòng,
\v 10 và hai trái cật cùng mỡ dính sát vào chúng, ở cạnh hông, và thùy của gan, với hai trái cật — người sẽ gỡ hết mọi thứ nầy.
\v 11 Và thầy tế lễ sẽ thiêu hết mọi thứ trên bàn thờ như một của lễ thức ăn dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 12 Và nếu lễ vật của người là một con dê, thế thì người sẽ dâng nó lên trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 13 Người phải đặt tay lên đầu của con dê rồi giết nó trước nơi nhóm lại. Khi ấy, các con trai của A-rôn sẽ rải huyết nó ở bốn bên của bàn thờ.
\v 14 Người sẽ dùng lửa dâng con sinh của mình lên cho Đức Giê-hô-va. Người sẽ gỡ bỏ mỡ bao lấy bộ đồ lòng, và hết thảy mỡ gần bộ đồ lòng.
\s5
\v 15 Người cũng sẽ gỡ hai trái cật và mỡ dính với chúng, ở gần hông, và thùy của gan với hai trái cật.
\v 16 Thầy tế lễ sẽ dùng lửa thiêu hết thảy các thứ ấy trên bàn thờ làm của lễ thức ăn, tạo ra một mùi thơm ngào ngạt. Hết thảy mỡ đều thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 17 Đây sẽ là một luật lệ thường trực xuyên suốt bao thế hệ của dân sự anh em ở từng nơi mà anh em lập làm quê hương của mình, để anh em không được ăn mỡ hay huyết".
\s5
\c 4
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói cho dân Y-sơ-ra-ên biết: 'Khi nào có ai phạm tội mà không cố ý phạm tội, làm bất cứ việc gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền đừng nên làm, và nếu người làm một việc gì bị cấm, thì phải làm như sau:
\v 3 Nếu chính thầy tế lễ thượng phẩm phạm tội, khiến cho tội lỗi phải giáng trên dân sự, khi ấy người phải dâng của lễ vì tội mình đã phạm một con bò tơ không tì vít cho Đức Giê-hô-va làm sinh tế chuộc tội.
\s5
\v 4 Người phải đem con bò đực ra lối vào của nơi nhóm lại trước mặt Đức Giê-hô-va, đặt tay lên đầu nó, rồi giết con bò đực trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 5 Thầy tế lễ đã được xức dầu sẽ lấy một ít huyết của con bò đực đem nó vào nơi nhóm lại.
\s5
\v 6 Thầy tế lễ sẽ nhúng ngón tay mình trong huyết rồi rải một ít huyết bảy lần trước mặt Đức Giê-hô-va, trước bức màn của nơi chí thánh.
\v 7 Rồi thầy tế lễ sẽ bôi một ít huyết vào sừng của bàn thờ xông hương trước mặt Đức Giê-hô-va, bàn thờ ở trong nơi nhóm lại, và người sẽ đổ phần huyết còn lại của con bò nơi chân của bàn thờ làm của lễ thiêu, bàn thờ đặt ngay lối vào nơi nhóm lại.
\s5
\v 8 Người sẽ gỡ mọi lớp mỡ của con bò đực làm sinh tế chuộc tội; mỡ bao quanh bộ đồ lòng, mọi lớp mỡ dính liền với bộ đồ lòng,
\v 9 hai trái cật và lớp mỡ ở trên chúng, gần bên hông, và thùy của gan, với hai trái cật — người sẽ gỡ hết mọi thứ nầy.
\v 10 Người sẽ gỡ hết chúng, giống như người gỡ nó ra khỏi con bò dùng làm con sinh cho của lễ thù ân. Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ thiêu hết các phần nầy trên bàn thờ dành cho của lễ thiêu.
\s5
\v 11 Da của con bò đực và bất kỳ thịt nào còn chừa lại, với cái đầu, hai chân và bộ đồ lòng cùng phân của nó,
\v 12 mọi phần còn lại bộ đồ lòng của con bò đực — người sẽ mang hết các thứ nầy ra ngoài trại quân, đến một chỗ mà chúng được làm sạch cho ta, ở đó họ đổ các thứ tro; họ sẽ thiêu các phần ấy trên củi ở đó. Họ phải thiêu các thứ ấy ở chỗ họ đổ tro.
\s5
\v 13 Nếu cả hội chúng của Y-sơ-ra-ên phạm tội mà không muốn phạm tội, và hội chúng không ý thức được là họ đã phạm tội và đã làm bất cứ việc gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền không nên làm, và nếu họ phạm tội,
\v 14 thế thì, khi tội lỗi họ đã phạm đã được nhận ra, khi ấy hội chúng phải dâng một con bò đực tơ dùng làm sinh tế chuộc tội và đem nó đến trước nơi nhóm lại.
\v 15 Các trưởng lão của hội chúng sẽ đặt tay lên đầu của con bò đực ở trước mặt Đức Giê-hô-va, và con bò đực sẽ bị giết ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 16 Thầy tế lễ đã được xức dầu sẽ đem một ít huyết của con bò vào nơi nhóm lại,
\v 17 và thầy tế lễ sẽ nhúng ngón tay mình vào trong huyết rồi rải nó bảy lần trước mặt Đức Giê-hô-va, ở phía trước bức màn.
\s5
\v 18 Người sẽ bôi một ít huyết lên sừng của bàn thờ ở trước mặt Đức Giê-hô-va, bàn thờ nầy đặt ở trong nơi nhóm lại, và người sẽ đổ huyết đó dưới chân bàn thờ làm của lễ thiêu, bàn thờ đặt ngay lối vào của nơi nhóm lại.
\v 19 Người sẽ gỡ hết mỡ ra khỏi nó rồi thiêu mỡ ấy trên bàn thờ.
\s5
\v 20 Đấy là những gì người phải làm với con bò đực. Giống như người đã làm với con bò đực sinh tế chuộc tội, vì vậy người cũng sẽ làm với con bò đực nầy, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho dân sự, và họ sẽ được tha tội.
\v 21 Người sẽ đem con bò đực ra ngoài trại quân rồi thiêu nó giống như người đã thiêu con bò đực đầu tiên vậy. Đây là của lễ chuộc tội cho hội chúng.
\s5
\v 22 Khi một quan trưởng phạm tội mà không dự định phải phạm tội, khi làm bất cứ những điều gì mà Giê-hô-va Đức Chúa Trời người đã truyền chớ nên làm, và nếu người đã phạm tội,
\v 23 khi ấy tội lỗi mà người đã phạm đã được nhận ra, người phải dâng một con dê làm con sinh, một con đực không tì vít.
\s5
\v 24 Người sẽ đặt tay trên đầu con dê rồi giết nó ở chỗ mà họ giết của lễ thiêu ở trước mặt Đức Giê-hô-va. Đây là một của lễ chuộc tội.
\v 25 Thầy tế lễ sẽ lấy huyết của sinh tế chuộc tội với ngón tay mình rồi bôi nó trên sừng bàn thờ dành cho của lễ thiêu, và người sẽ đổ huyết của nó ra nơi chân bàn thờ của lễ thiêu.
\s5
\v 26 Người sẽ thiêu hết phần mỡ trên bàn thờ, giống như mỡ con sinh của lễ thù ân. Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho quan trưởng về tội lỗi của người, và quan trưởng ấy sẽ được tha tội.
\s5
\v 27 Nếu có thường dân nào phạm tội mà không dự tính phạm tội, làm bất cứ việc gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền không nên làm, và nếu người đã phạm tội,
\v 28 khi ấy nếu tội lỗi mà người đã phạm được nhận ra, khi ấy người sẽ đem một con dê làm con sinh tế, một con cái không tì vít, vì tội lỗi mà người đã phạm.
\s5
\v 29 2Người sẽ đặt tay lên đầu sinh tế chuộc tội rồi giết sinh tế chuộc tội tại nơi của của lễ thiêu.
\v 30 Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết với ngón tay mình rồi bôi nó lên sừng của bàn thờ dâng của lễ thiêu. Người sẽ đổ phần huyết còn lại nơi chân của bàn thờ.
\s5
\v 31 Người sẽ gở bỏ hết lớp mỡ, giống như lớp mỡ bị gỡ ra khỏi sinh tế của lễ thù ân. Thầy tế lễ sẽ thiêu nó trên bàn thờ tạo ra mùi hương ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va. Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người, và người sẽ được tha tội.
\s5
\v 32 Nếu người đem một con chiên làm sinh tế cho của lễ chuộc tội, người sẽ đem đến một con cái không tì vít.
\v 33 Người sẽ đặt tay mình lên đầu sinh tế chuộc tội rồi giết nó để làm của lễ chuộc tội ở chỗ mà họ giết sinh tế làm của lễ thiêu.
\s5
\v 34 Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết sinh tế chuộc tội với ngón tay mình rồi bôi huyết lên sừng của bàn thờ dành cho của lễ thiêu, và người sẽ đổ hết phần huyết của nó nơi chân của bàn thờ.
\v 35 Người sẽ gỡ bỏ hết phần mỡ, giống như mỡ của con chiên bị gỡ ra khỏi sinh tế của lễ thù ân, và thầy tế lễ sẽ thiêu mỡ ấy trên bàn thờ giống như các của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người vì tội lỗi mà người đã phạm, và người sẽ được tha tội.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Nếu người nào phạm tội vì người không làm rõ khi người làm chứng một việc mà người buộc phải làm rõ, trong trường hợp người đã thấy hoặc nghe nói về việc ấy, người sẽ chịu trách nhiệm.
\v 2 Hoặc nếu người nào chạm đến thứ chi Đức Chúa Trời đã ấn định là không sạch, trong trường hợp đó là xác của con thú hoang không sạch hoặc thây của thú rừng hay loài vật đã chết, ngay cả người ấy không có ý chạm đến nó, người ấy là ô uế và phạm tội.
\s5
\v 3 Hoặc nếu người chạm đến sự ô uế của ai đó, bất luận là ô uế nào đi nữa, và nếu người không nhận ra sự ấy, khi đó người sẽ bị xem là phạm tội khi người học biết về sự ấy.
\v 4 Hay nếu có ai dùng môi miệng mình thề phải làm việc ác, hoặc làm việc lành, bất luận điều chi mà một người thề thốt bằng một lời thề, dù người không nhận ra việc ấy, khi người học biết được, khi ấy người đã phạm tội, trong bất kỳ việc nào trong các việc này.
\s5
\v 5 Khi có ai phạm tội việc gì trong những việc nầy, người ấy phải xưng ra bất kỳ tội gì mà người đã phạm.
\v 6 Tiếp đến, người phải đem sinh tế chuộc tội đến với Đức Giê-hô-va vì tội lỗi mà mình đã phạm, một con cái lấy từ trong bầy, dù là chiên hay dê, để làm sinh tế chuộc tội, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người có liên quan đến tội lỗi nầy.
\s5
\v 7 Nếu người không có khả năng mua một con chiên, khi ấy người có thể đem sinh tế chuộc tội vì tội lỗi của mình hai con bồ câu hay hai con chim cu tơ dâng cho Đức Giê-hô-va, một con làm sinh tế chuộc tội và con kia làm của lễ thiêu.
\v 8 Người phải đem chúng đến thầy tế lễ, thầy tế lễ sẽ dâng một con làm sinh tế chuộc tội trước tiên - người sẽ rứt đầu nó lìa khỏi cổ nhưng sẽ không gỡ nó hoàn toàn ra khỏi thân.
\v 9 Khi ấy, người sẽ rải một ít huyết của sinh tế chuộc tội ở một cạnh của bàn thờ, và người sẽ rải phần huyết còn lại ở dưới chân bàn thờ. Đây là của lễ chuộc tội.
\s5
\v 10 Khi ấy, người phải dâng con chim thứ nhì làm của lễ thiêu, như đã được mô tả trong phần hướng dẫn, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người ấy vì tội lỗi mà người đã phạm, và người ấy sẽ được tha tội.
\s5
\v 11 Nhưng nếu người không có khả năng để mua hai con chim bồ câu hay hai con chim cu con, khi ấy người phải đem sinh tế chuộc tội vì cớ tội lỗi mình một phần mười ê-pha bột nhứt hạng để làm sinh tế chuộc tội. Người không phải chế dầu hay hương liệu nào trên nó, vì đó là sinh tế chuộc tội.
\s5
\v 12 Người phải đem nó đến với thầy tế lễ, và thầy tế lễ sẽ lấy một nắm bột đó với lòng biết ơn suy nghĩ đến sự nhân từ của Đức Giê-hô-va và rồi thiêu nó trên bàn thờ, trong các thứ của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Đây là của lễ chuộc tội.
\v 13 Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho bất kỳ tội lỗi nào mà người ấy đã phạm, và người ấy sẽ được tha tội. Bột còn dư lại từ của lễ sẽ thuộc về thầy tế lễ, giống như với của lễ chay vậy'".
\s5
\v 14 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 15 "Nếu ai vi phạm mạng lịnh và phạm tội nghịch lại những thứ thuộc về Đức Giê-hô-va, song không cố ý, thế thì người phải đem sinh tế chuộc tội mình đến với Đức Giê-hô-va. Sinh tế này phải là một con chiên đực không tì vít bắt từ trong bầy; giá trị của nó phải được định bằng những siếc-lơ bạc — siếc-lơ của nơi thánh — giống như sinh tế chuộc tội vậy.
\v 16 Người phải làm hài lòng Đức Giê-hô-va về những gì người đã làm sai trái khi kết nối với những gì là thánh, và người phải phụ thêm một phần năm thứ ấy rồi trao nó cho thầy tế lễ. Tiếp đến, thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người với con chiên đực sinh tế chuộc tội, và người ấy sẽ được tha tội.
\s5
\v 17 Nếu có ai phạm tội và làm việc gì mà Đức Giê-hô-va đã truyền không nên làm, ngay cả nếu người không biết việc ấy, người ấy vẫn là có tội và phải mang lấy chính tội lỗi của mình.
\v 18 Người phải đem một con chiên đực không tì vít bắt lấy từ trong bầy, xứng theo giá đã định, làm sinh tế chuộc tội cho thầy tế lễ. Khi ấy thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người ấy về tội lỗi mà người đã phạm, về việc ấy người không biết, và người ấy sẽ được tha tội.
\v 19 Đây là một của lễ chuộc tội, và người chắc đã phạm tội ở trước mặt Đức Giê-hô-va".
\s5
\c 6
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Nếu có ai phạm tội và phá vỡ một điều răn nghịch cùng Đức Giê-hô-va, tỉ như đối xử giả dối với người lân cận về một vật được giao cho mình, hoặc nếu người lừa đảo hay tước đoạt của người ấy, hoặc lấn lướt kẻ lân cận mình,
\v 3 hay đã tìm được thứ mà người lân cận mình bị thất lạc rồi nói dối về đồ vật ấy, và thề dối, hay trong các vấn đề giống như các việc nầy mà người ta phạm tội trong đó,
\v 4 khi đến lúc đó, nếu người đã phạm tội và mắc lỗi, người phải hồi trả bất cứ thứ chi người đã lấy bằng cách tước đoạt hay áp bức hoặc lấy thứ chi người ta giao cho người hay vật thất lạc mà người đã tìm được.
\s5
\v 5 Hoặc nếu người nói dối không cứ việc gì, người phải hồi trả nó đầy đủ và phải cộng thêm một phần năm để trả cho người mà mình đã mắc, vào ngày người nhận thấy mình mắc lỗi.
\v 6 Tiếp đến, người phải đem của lễ chuộc tội dâng lên cho Đức Giê-hô-va: một con chiên đực không tì vít bắt từ trong bầy với giá trị tương ứng, như một sinh tế chuộc sự mắc lỗi dâng cho thầy tế lễ.
\v 7 Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người ở trước mặt Đức Giê-hô-va, và người sẽ được tha tội về điều người đã mắc lỗi trong việc làm"
\s5
\v 8 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 9 "Hãy truyền cho A-rôn cùng các con trai người như sau: 'Đây là luật về của lễ thiêu: Của lễ thiêu phải ở trên đống lửa của bàn thờ suốt cả đêm cho tới sáng, và lửa của bàn thờ phải được giữ cho cháy luôn.
\s5
\v 10 Thầy tế lễ sẽ mặc y phục bằng vải lanh, và người cũng sẽ mặc đồ lót bằng vải lanh. Người sẽ hốt tro bị chừa lại sau khi lửa đã đốt của lễ thiêu trên bàn thờ, rồi người sẽ đem tro đến cạnh bàn thờ.
\v 11 Người sẽ cởi y phục ra rồi mặc bộ khác để đem tro ra ngoài trại quân đến một chỗ nào sạch sẽ.
\s5
\v 12 Lửa trên bàn thờ sẽ phải giữ cho cháy luôn. Lửa không thể bị tắt đi, và thầy tế lễ sẽ chụm thêm củi mỗi sáng. Người sẽ sắp của lễ thiêu như đã qui định cho nó, và người sẽ thiêu trên đó mỡ của sinh tế thù ân.
\v 13 Lửa phải được giữ cho cháy luôn liên tục trên bàn thờ. Nó không được tắt đi.
\s5
\v 14 Đây là luật về của lễ chay. Các con trai của A-rôn sẽ dâng của lễ ấy trước mặt Đức Giê-hô-va ở trước bàn thờ.
\v 15 Thầy tế lễ sẽ lấy một nắm bột nhất hạng của của lễ chay và dầu cùng hương liệu chế trên của lễ chay, rồi người sẽ thiêu nó trên bàn thờ tạo ra mùi hương ngạt ngào khi suy nghĩ với lòng biết ơn đối với sự nhân từ của Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 16 A-rôn cùng các con trai người sẽ ăn bất kỳ thứ chi còn lại của sinh tế. Họ phải ăn nó không có men trong nơi thánh. Họ sẽ ăn nó trong sân của nơi nhóm lại.
\v 17 Nó không được nấu với men. Ta đã ban nó làm phần của họ trong các sinh tế được dâng lên bằng lửa. Sinh tế ấy là thánh nhất, giống như sinh tế chuộc tội và sinh tế chuộc sự mắc lỗi vậy.
\v 18 Trong mọi thời kỳ sắp đến xuyên suốt các dòng dõi của dân sự, các con trai, bất kỳ người nam nào ra từ A-rôn đều có thể ăn của lễ ấy là phần của người, lấy từ các sinh tế của Đức Giê-hô-va được dâng lên bằng lửa. Hễ ai đụng đến chúng sẽ được nên thánh".
\s5
\v 19 Vậy Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se một lần nữa như sau:
\v 20 "Đây là của lễ của A-rôn cùng của các con trai người, thứ họ dâng lên cho Đức Giê-hô-va nhằm ngày từng người con được xức dầu: một phần mười ê-pha bột nhất hạng làm của lễ chay đều đặn, phân nửa của lễ ban sáng và phân nửa của lễ lúc ban chiều.
\s5
\v 21 Của lễ ấy được chiên sẵn với chảo có dầu. Khi của lễ chín rồi, các con sẽ đem nó đi dâng. Trong những miếng thịt đã chiên, các con sẽ dâng của lễ chay để tạo ra mùi thơm ngào ngạt cho Đức Giê-hô-va.
\v 22 Con trai của thầy tế lễ thượng phẩm nào sắp sửa làm thầy tế lễ thượng phẩm mới từ giữa vòng các con trai người sẽ dâng của lễ đó. Như đã truyền cho đến đời đời, mỗi của lễ ấy sẽ được thiêu trọn cho Đức Giê-hô-va.
\v 23 Từng của lễ chay của thầy tế lễ sẽ phải thiêu hết hoàn toàn. Họ không được ăn nó".
\s5
\v 24 Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se:
\v 25 "Hãy nói với A-rôn cùng các con trai người như sau: 'Đây là luật về của lễ chuộc tội: Sinh tế chuộc tội phải bị giết ở chỗ mà sinh tế của lễ thiêu bị giết trước mặt Đức Giê-hô-va. Của lễ ấy phải là thánh nhất.
\v 26 Thầy tế lễ nào dâng sinh tế chuộc tội ấy sẽ ăn nó. Họ phải ăn nó trong nơi thánh ở sân của nơi nhóm lại.
\s5
\v 27 Bất cứ thứ chi đụng đến thịt đó sẽ được nên thánh, và nếu huyết được rải ra trên bất kỳ y phục nào, các con phải giặt nó, phần dính huyết phải được giặt sạch, trong nơi thánh.
\v 28 Những cái bình bằng đất chứa thịt trong đó phải bị đập bể đi. Nếu thịt được nấu trong nồi bằng đồng, người ta phải cạo nồi ấy và dùng nước rửa cho sạch.
\s5
\v 29 Bất cứ người nam nào giữa vòng các thầy tế lễ sẽ ăn thịt đó vì thịt ấy rất thánh.
\v 30 Và không một sinh tế chuộc tội nào có huyết được đem vào nơi nhóm lại để làm sự chuộc tội trong nơi thánh. Sinh tế ấy phải bị thiêu đi.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Đây là luật về của lễ chuộc sự mắc lỗi. Của lễ nầy là chí thánh.
\v 2 Họ phải giết sinh tế chuộc sự mắc lỗi trong chỗ để giết nó, và họ phải rải huyết nó bốn bên của bàn thờ.
\v 3 Hết thảy mỡ phải được dâng lên: phần đuôi có mỡ, mỡ bao quanh bộ đồ lòng,
\v 4 hai trái cật cùng mỡ trên chúng, ở gần hông, và mỡ bao quanh gan, với hai trái cật — mọi thứ nầy phải được gỡ ra.
\s5
\v 5 Thầy tế lễ phải thiêu các phần nầy trên bàn thờ như một của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Đây là của lễ chuộc sự mắc lỗi.
\v 6 Từng người nam trong vòng thầy tế lễ sẽ ăn phần thịt của sinh tế nầy. Thịt đó họ phải ăn trong nơi thánh vì đó là vật chí thánh.
\s5
\v 7 Sinh tế chuộc tội thì giống như sinh tế chuộc sự mắc lỗi. Cùng một luật lệ áp dụng cho cả hai sinh tế nầy. Chúng thuộc về thầy tế lễ nào làm sự chuộc tội với chúng.
\v 8 Thầy tế lễ nào dâng của lễ thiêu của ai đó sẽ lấy cho mình phần da của sinh tế ấy.
\s5
\v 9 Từng của lễ chay nào được nấu trong lò, và từng sinh tế nào được chiên trên chảo hoặc nướng trên vĩ sẽ thuộc về thầy tế lễ nào dâng lên của lễ đó.
\v 10 Từng của lễ chay, một là khô hay trộn với dầu, sẽ thuộc về hết thảy dòng dõi của A-rôn.
\s5
\v 11 Đây là luật về sinh tế của lễ thù ân mà dân sự sẽ dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\v 12 Nếu ai dâng của lễ đó để cảm tạ, thì người ấy phải dâng nó với bánh sinh tế không có men, nhưng trộn với dầu, về bánh không có men, nhưng rưới dầu lên, và về bánh làm với bột nhất hạng trộn với dầu.
\s5
\v 13 Cũng vì mục đích dâng lên sự cảm tạ, người ấy phải dâng với bánh sinh tế thù ân được làm với men.
\v 14 Người cần phải dâng mỗi thứ sinh tế nầy như một của lễ trình lên cho Đức Giê-hô-va. Của lễ ấy sẽ thuộc về các thầy tế lễ nào rải huyết sinh tế thù ân lên trên bàn thờ.
\s5
\v 15 Người dâng của lễ thù ân vì mục tiêu cảm tạ phải ăn thịt của sinh tế nhằm ngày dâng của lễ. Người không nên chừa lại thứ chi của sinh tế ấy cho tới sáng mai.
\v 16 Nhưng nếu sinh tế của của lễ là vì mục đích thề hứa, hay vì mục đích dâng hiến theo lòng mình muốn, thịt phải được ăn trong ngày người dâng của lễ mình, nhưng thứ chi chừa lại phải được ăn trong ngày hôm sau.
\s5
\v 17 Tuy nhiên, bất cứ thịt nào của con sinh còn lại qua đến ngày thứ ba phải bị thiêu đi.
\v 18 Nếu thịt con sinh của sinh tế thù ân được ăn vào ngày thứ ba, điều đó sẽ không được chấp nhận, sẽ không được kể đến đối với người dâng của lễ đó. Nó sẽ là một thứ ghê tởm, và người nào ăn nó sẽ mang lấy tội lỗi của mình.
\s5
\v 19 Bất cứ thịt nào đụng đến một vật ô uế không nên ăn. Nó phải bị thiêu đi. Đối với phần thịt còn lại, người nào thanh sạch có thể ăn nó.
\v 20 Tuy nhiên, một người ô uế ăn bất kỳ thịt nào từ sinh tế thù ân thuộc về — người đó phải bị truất khỏi dân sự mình.
\s5
\v 21 Nếu người nào đụng đến bất kỳ vật ô uế nào — trong trường hợp ô uế của con người, hay ô uế của loài vật, hoặc một vật ô uế ghê tởm, và nếu người ăn thịt của sinh tế của lễ thù ân thuộc về Đức Giê-hô-va, người đó phải bị truất khỏi dân sự người'".
\s5
\v 22 Khi ấy Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 23 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như sau: 'Các con không nên ăn mỡ của con bò hay chiên hoặc dê.
\v 24 Mỡ của thú vật nào chết mà không phải là con sinh, hay mỡ của thú vật bị thú hoang xé xác, có thể được dùng cho các mục đích khác, nhưng nhất định các con không được ăn nó.
\s5
\v 25 Hễ ai ăn mỡ của con thú nào mà người ta có thể dùng lửa dâng làm con sinh cho Đức Giê-hô-va, người ấy phải bị truất khỏi dân sự mình.
\v 26 Các con không nên ăn huyết trong nhà mình, dù là huyết con chim hay thú vật.
\v 27 Hễ ai ăn bất kỳ huyết nào, người ấy phải bị truất khỏi dân sự mình'".
\s5
\v 28 Thế là Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 29 "Hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Người nào dâng con sinh của lễ thù ân cho Đức Giê-hô-va phải đem một phần con sinh của mình dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 30 Của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va phải được dùng lửa dâng lên, chính hai tay người ấy phải dâng nó lên. Người ấy phải dâng mỡ với cái vú, để cái vú làm của lễ đưa qua đưa lại trước mặt Đức Giê-hô-va rồi trình dâng cho Ngài.
\s5
\v 31 Thầy tế lễ phải thiêu mỡ trên bàn thờ, nhưng cái vú sẽ thuộc về A-rôn cùng dòng dõi của ông.
\v 32 Các con phải dâng cái giò bên phải cho thầy tế lễ làm của lễ lấy từ con sinh dâng lên làm của lễ thù ân của các con.
\s5
\v 33 Thầy tế lễ, một trong các dòng dõi của A-rôn, là người dâng huyết và mỡ sinh tế thù ân — người ấy sẽ có cái giò bên phải của sinh tế làm phần của mình.
\v 34 Vì ta đã nhận cái vú và cái giò của con sinh đưa qua đưa lại và trình dâng cho ta, và ta đã ban chúng cho A-rôn, thầy tế lễ thượng phẩm cùng dòng dõi của người; điều nầy sẽ luôn luôn là phần của họ lấy từ sinh tế của lễ thù ân mà dân Y-sơ-ra-ên trình lên.
\s5
\v 35 Đây là phần của A-rôn cùng dòng dõi của ông lấy từ những thứ của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va, nhằm ngày mà Môi-se trình họ để hầu việc Đức Giê-hô-va trong công tác của thầy tế lễ.
\v 36 Đây là phần mà Đức Giê-hô-va đã truyền phải cung ứng cho họ từ dân Y-sơ-ra-ên, nhằm ngày họ xức dầu cho các thầy tế lễ. Đây luôn luôn sẽ là phần của họ trải qua bao đời.
\s5
\v 37 Đây là luật của của lễ thiêu, của của lễ chay, của của lễ chuộc tội, của của lễ chuộc sự mắc lỗi, của của lễ phong chức, và của sinh tế của lễ thù ân,
\v 38 về luật ấy Đức Giê-hô-va đã ban các điều răn cho Môi-se trên Núi Si-na-i nhằm ngày Ngài truyền cho dân Y-sơ-ra-ên phải dâng các thứ của lễ của họ lên cho Đức Giê-hô-va trong đồng vắng Si-na-i'".
\s5
\c 8
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 2 "Hãy đem A-rôn cùng các con trai người, y phục cùng dầu để xức, con bò đực dùng làm của lễ thiêu, hai con chiên đực, và giỏ bánh không men.
\v 3 Hãy nhóm cả hội chúng lại ở lối vào nơi nhóm lại".
\s5
\v 4 Vậy, Môi-se làm y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn người, và hội chúng đến nhóm lại ngay lối vào của nơi nhóm.
\v 5 Tiếp đến Môi-se nói với hội chúng: "Đây là điều Đức Giê-hô-va đã truyền phải lo làm".
\s5
\v 6 Môi-se đem A-rôn cùng các con trai người và lấy nước rửa họ.
\v 7 Ông mặc áo trong cho A-rôn rồi thắt đai lưng, mặc áo dài cho người rồi khoác lên người cái ê-phót, tiếp đến ông dùng đai cột cái ê-phót quanh người.
\s5
\v 8 Ông đặt bảng đeo ngực lên cho người, và ông tra U-rim và Thu-mim lên đó.
\v 9 Ông đội cái mão lên đầu người, và phía trước mão ông buộc cái thẻ vàng, chiếc mão thánh, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\v 10 Môi-se lấy dầu, xức cho đền tạm cùng mọi thứ trong đó, rồi dâng họ cho Đức Giê-hô-va.
\v 11 Ông rải dầu lên bàn thờ bảy lần, rồi xức dầu cho bàn thờ cùng các thứ đồ đạt nó, và cái chậu rửa cùng đáy chậu, dâng chúng cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 12 Ông đổ một chút dầu lên đầu của A-rôn rồi xức cho người để dâng người cho Đức Giê-hô-va.
\v 13 Môi-se đem các con trai A-rôn rồi mặc áo trong cho họ; ông thắt đai quanh hông họ rồi quấn khăn quanh đầu họ, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\v 14 Môi-se đem con bò đực dùng làm sinh tế chuộc tội, A-rôn cùng các con trai người đặt tay họ lên đầu của con bò đực mà họ mang theo dùng làm của lễ thiêu.
\v 15 Ông giết nó, rồi ông lấy huyết dùng ngón tay bôi nó trên sừng của bàn thờ, làm sạch bàn thờ, đổ huyết ra dưới chân của bàn thờ, rồi biệt nó riêng ra cho Đức Chúa Trời để làm sự chuộc tội cho nó.
\s5
\v 16 Ông lấy mỡ có nơi bộ đồ lòng, thùy của gan, và hai trái cật cùng mỡ chúng, và Môi-se thiêu nó hết thảy trên bàn thờ.
\v 17 Nhưng con bò đực, da, thịt và phân của nó ông đem thiêu ở ngoài trại quân, y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho ông.
\s5
\v 18 Môi-se trình con chiên đực dùng làm của lễ thiêu, A-rôn cùng các con trai người đặt tay lên đầu của con chiên.
\v 19 Ông giết nó rồi rải huyết nó ở chung quanh bàn thờ.
\s5
\v 20 Ông sả con chiên đực thành nhiều miếng rồi thiêu cái đầu cùng các miếng thịt và mỡ.
\v 21 Ông rửa bộ đồ lòng, hai cái giò bằng nước, rồi ông thiêu cả con chiên đực lên bàn thờ. Đây là của lễ thiêu, tạo ra mùi hương ngào ngạt, một của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn Môi-se.
\s5
\v 22 Tiếp đến Môi-se trình con chiên kia, con chiên về lễ phong chức, và A-rôn cùng các con trai người đặt tay trên đầu của con chiên.
\v 23 A-rôn giết nó, còn Môi-se lấy huyết của nó bôi nó trên trái tai bên hữu của A-rôn, trên ngón cái bàn tay phải của người, và trên ngón cái bàn chân bên phải của người.
\v 24 Ông đem các con trai của A-rôn, rồi ông bôi huyết trên trái tai bên phải của họ, trên ngón tay cái của bàn tay bên phải của họ, và trên ngón cái của bàn chân bên phải của họ. Khi ấy Môi-se rải huyết nó về phía bốn bên của bàn thờ.
\s5
\v 25 Ông lấy mỡ, phần đuôi có mỡ, hết thảy mỡ còn ở trong bộ đồ lòng, phần thùy của gan, hai trái cật mỡ của chúng, và cái giò hữu.
\v 26 Từ giỏ bánh không men đặt trước mặt Đức Giê-hô-va, ông lấy một ổ bánh không men, và một ổ bánh có dầu, rồi một cái bánh tráng, rồi đặt chúng lên mỡ cùng cái giò hữu.
\v 27 Ông đặt hết thảy trong tay của A-rôn cùng các con trai người, giơ chúng lên cao làm của lễ dâng lên trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 28 Tiếp đến Môi-se lấy các thứ ấy khỏi tay của họ rồi thiêu chúng trên bàn thờ dùng làm của lễ thiêu. Chúng là của lễ về sự phong chức và tạo ra một mùi thơm ngào ngạt. Đây là của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\v 29 Môi-se lấy bánh giơ nó lên cao làm một của lễ cho Đức Giê-hô-va. Đây là phần của Môi-se về con chiên đực dùng phong chức cho các thầy tế lễ, y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn ông.
\s5
\v 30 Môi-se lấy một ít dầu dùng để xức và huyết ở trên bàn thờ; ông rải các thứ nầy lên A-rôn, lên y phục người, lên các con trai người, và trên y phục của các con trai người với người. Làm như thế nầy, ông đã dâng A-rôn cùng y phục người, và các con trai người cùng y phục của họ cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 31 Vậy, Môi-se phán cùng A-rôn và các con trai người: "Hãy luộc thịt tai lối vào nơi nhóm lại, rồi ở đó ăn thịt ấy và bánh có trong giỏ của lễ phong chức, y như ta đã truyền: 'A-rôn cùng các con trai người sẽ ăn thịt đó'.
\v 32 Những gì còn thừa lại về thịt và về bánh anh em phải đem thiêu.
\v 33 Và anh em không được đi ra lối vào nơi nhóm lại trong bảy ngày, cho tới khi những ngày phong chức đã mãn. Vì Đức Giê-hô-va sẽ phong chức cho anh em trong bảy ngày.
\s5
\v 34 Những gì đã được làm ra trong ngày nầy — Đức Giê-hô-va đã truyền phải được làm ra để thực hiện sự chuộc tội cho anh em.
\v 35 Anh em sẽ ở lại cả ngày lẫn đêm trong bảy ngày tại lối vào nơi nhóm lại, và giữ mạng lịnh của của Đức Giê-hô-va, vậy anh em sẽ không chết, vì đây là những gì đã truyền ra".
\v 36 Vậy A-rôn cùng các con trai người dã làm theo mọi sự mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho họ qua Môi-se.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Đến ngày thứ tám Môi-se cho mời A-rôn cùng các con trai người và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên.
\v 2 Ông nói với A-rôn: "Hãy bắt một con bò con đực trong bầy để làm sinh tế chuộc tội, và một con chiên đực không vít đặng làm sinh tế của lễ thiêu, rồi dâng chúng trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Anh phải nói với dân Y-sơ-ra-ên như sau: 'Hãy bắt con dê đực làm sinh tế chuộc tội, một con bò con đực cùng một con chiên, cả hai đều một tuổi và không vít, đặng làm sinh tế của lễ thiêu;
\v 4 cũng hãy bắt một con bò tơ và một con chiên đực làm sinh tế thù ân dâng lên trước mặt Đức Giê-hô-va, và của lễ chay trộn với dầu, vì ngày nay Đức Giê-hô-va sẽ hiện ra với anh em".
\v 5 Vậy, họ đem hết thảy các thứ mà Môi-se căn dặn đến nơi nhóm lại, và hết thảy hội chúng Y-sơ-ra-ên đến gần đứng trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Khi ấy Môi-se nói: "Đây là điều Đức Giê-hô-va truyền cho anh em phải làm, hầu cho sự vinh hiển của Ngài sẽ hiện ra cùng anh em".
\v 7 Môi-se nói với A-rôn: "Hãy đến gần bàn thờ rồi dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu, rồi làm sự chuộc tội cho mình và cho dân sự, và dâng sinh tế vì mọi người đặng làm sự chuộc tội cho họ, y như Đức Giê-hô-va đã truyền dạy".
\s5
\v 8 Vậy, A-rôn đến gần bàn thờ rồi giết con bò tơ đặng làm của lễ chuộc tội, cho bản thân ông.
\v 9 Các con trai của A-rôn trình huyết cho ông, và ông nhúng ngón tay mình vào đó rồi bôi huyết lên sừng của bàn thờ; khi ấy ông đổ huyết ra nơi chân của bàn thờ.
\s5
\v 10 Tuy nhiên, ông thiêu mỡ, hai trái cật, và thùy của gan trên bàn thờ làm của lễ chuộc tội, y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn Môi-se.
\v 11 Và ông thiêu thịt và da ở ngoài trại quân.
\s5
\v 12 A-rôn giết sinh tế của lễ thiêu, và các con trai ông trình huyết cho ông, ông rải huyết ấy ở bốn bên của bàn thờ.
\v 13 Khi ấy, họ trao cho ông của lễ thiêu, từng miếng một, cùng với cái đầu, và ông thiêu chúng trên bàn thờ.
\v 14 Ông rửa bộ đồ lòng, mấy cái giò rồi thiêu chúng làm của lễ thiêu trên bàn thờ.
\s5
\v 15 A-rôn trình của lễ của dân sự — một con dê, rồi bắt nó làm sinh tế chuộc tội cho họ và giết nó; ông dâng của lễ để chuộc tội, y như ông đã làm với con dê thứ nhứt.
\v 16 Ông trình của lễ thiêu rồi dâng nó y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn.
\v 17 Ông trình của lễ chay; ông bụm đầy tay mình rồi thiêu nó trên bàn thờ, cùng với của lễ thiêu ban sáng.
\s5
\v 18 Ông cũng giết con bò tơ và con chiên đực, sinh tế cho của lễ thù ân, là vì dân sự. Các con trai của A-rôn trình huyết cho ông, ông rải huyết ở bốn bên bàn thờ.
\v 19 Tuy nhiên, mỡ của bò đực và chiên đực, mỡ của cái đuôi, mỡ bao lấy bộ đồ lòng, hai trái cật, và thùy của gan —
\s5
\v 20 Họ sắp các thứ nầy trên phần ngực, và khi đó A-rôn thiêu mỡ trên bàn thờ.
\v 21 A-rôn giơ cao hai cái ngực và giò bên phải như một của lễ trước mặt Đức Giê-hô-va rồi trình chúng cho Ngài, như Môi-se đã căn dặn.
\s5
\v 22 Khi ấy A-rôn giơ cao hai bàn tay của ông lên hướng về dân sự rồi chúc phước cho họ; khi ấy ông bước xuống dâng của lễ chuộc tội, của lễ thiêu, và của lễ thù ân.
\v 23 Môi-se và A-rôn vào trong nơi nhóm lại, rồi trở ra chúc phước cho dân sự, thì sự vinh hiển của Đức Giê-hô-va hiện ra với mọi người.
\v 24 Lửa ra từ Đức Giê-hô-va rồi thiêu đốt của lễ thiêu và mỡ trên bàn thờ. Khi hết thảy dân sự nhìn thấy điều nầy, họ reo mừng và sấp mặt xuống đất.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Na-đáp và A-bi-hu, hai con trai của A-rôn, mỗi người lấy lư hương mình, đặt lửa ở trong đó, rồi bỏ hương lên. Thế rồi họ dâng lên thứ lửa không được chấp nhận trước mặt Đức Giê-hô-va, là lửa mà Ngài không truyền họ phải dâng.
\v 2 Vậy lửa ra từ trước mặt Đức Giê-hô-va rồi nuốt lấy họ, họ ngã chết trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Khi ấy Môi-se nói với A-rôn: "Đây là điều Đức Giê-hô-va đã nói khi Ngài phán: 'Ta sẽ tỏ sự thánh khiết ra cho những ai đến gần ta. Ta sẽ được vinh hiển trước mặt hết thảy dân sự'" A-rôn không nói được điều chi hết.
\v 4 Môi-se gọi Mi-sa-ên và Ên-sa-phan, hai con trai của U-xi-ên chú của A-rôn, ông nói với họ: "Hãy lại đây và khiêng hai anh em nầy ra khỏi trại quân ngay trước mặt đền tạm".
\s5
\v 5 Vậy, họ đến gần rồi khiêng chúng, vẫn còn mặt áo trong của thầy tế lễ, ra khỏi trại quân, y như Môi-se đã truyền dặn.
\v 6 Khi ấy Môi-se nói với A-rôn, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma, các con trai của ông: "Đừng đề đầu trần, và đừng xé áo các con, hầu cho các con không phải chết, và để Đức Giê-hô-va sẽ không nổi giận với cả hội chúng. Nhưng hãy để cho bà con, cả nhà Y-sơ-ra-ên, than khóc về những kẻ mà lửa của Đức Giê-hô-va đã lòe ra.
\v 7 Các con không nên ra khỏi lối vào nơi nhóm lại, hoặc các con sẽ chết, vì dầu xức của Đức Giê-hô-va đang ở trên các con". Vậy, họ làm theo huấn thị của Môi-se.
\s5
\v 8 Đức Giê-hô-va phán cùng A-rôn như sau:
\v 9 "Đừng uống rượu hay thứ chi mạnh, anh, các con trai của anh còn lại kia, khi bước vào nơi nhóm lại, anh và chúng nó sẽ không chết đâu. Đây là luật lệ thường trực xuyên suốt bao thế hệ của dân sự anh,
\v 10 để phân biệt giữa người thánh và người thường, và giữa kẻ ô uế và người thanh sạch,
\v 11 hầu cho anh em có thể dạy dỗ dân sự Y-sơ-ra-ên mọi luật lệ mà Đức Giê-hô-va đã truyền qua Môi-se".
\s5
\v 12 Môi-se nói với A-rôn, Ê-lê-a-sa và với Y-tha-ma, các con trai còn lại của ông: "Hãy lấy của lễ chay còn lại từ các thứ của lễ dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va, rồi hãy ăn nó không có men bên cạnh bàn thờ, vì là vật chí thánh.
\v 13 Phải ăn nó trong nơi thánh, vì đó là phần của anh và phần của các con trai anh trong các thứ của lễ dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va, đây là điều được truyền cho để nói cho anh em biết.
\s5
\v 14 Phần ngực được giơ lên làm của lễ và cái giò được trình lên cho Đức Giê-hô-va — hai thứ nầy anh em phải ăn ở một nơi thanh sạch đáng chấp nhận đối với Đức Chúa Trời. Anh cùng các con trai con gái với anh sẽ ăn các phần ấy, vì chúng đã được ban cho làm phần của anh và phần của các con trai anh về các thứ sinh tế trong của lễ tương giao của dân Y-sơ-ra-ên.
\v 15 Cái giò được trình dâng cho Đức Giê-hô-va và phần ngực được giơ lên làm của lễ — chúng phải được đem chung với nhau với các sinh tế dùng lửa có mỡ, giơ chúng lên cao và trình chúng như một của lễ cho Đức Giê-hô-va. Chúng sẽ là phần thuộc về anh cùng các con trai anh với anh em cho đến đời đời, y như Đức Giê-hô-va đã truyền dặn".
\s5
\v 16 Khi ấy Môi-se yêu cầu về con dê đực làm của lễ chuộc tội, thì thấy rằng nó đã bị thiêu. Vì vậy, ông nổi giận với Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma, các con trai còn lại của A-rôn; ông nói:
\v 17 "Tại sao các cháu không ăn sinh tế chuộc tội trong khu vực của đền tạm, một khi đó là vật chí thánh, và khi Đức Giê-hô-va đã ban nó cho các cháu để cất đi tội lỗi của hội chúng, để làm sự chuộc tội cho họ trước mặt Ngài?
\v 18 Kìa, huyết nó không được đem vào trong đền tạm, vậy các cháu nhất định phải ăn nó trong khu vực đền tạm, y như ta đã truyền".
\s5
\v 19 Khi ấy A-rôn trả lời Môi-se: "Hãy xem, ngày nay chúng đã dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu của chúng trước mặt Đức Giê-hô-va, và việc nầy đã xảy ra cho tôi ngày nay. Nếu tôi đã ăn sinh tế chuộc tội hôm nay, điều đó có đẹp lòng trước mặt Đức Giê-hô-va hay không?"
\v 20 Khi Môi-se nghe điều đó, ông được hài lòng.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và cùng A-rôn như sau:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên: 'Đây là những vật sống mà anh em có thể ăn giữa vòng các loài thú đang sống trên đất.
\s5
\v 3 Anh em có thể ăn bất kỳ con thú nào có móng rẽ ra và nhơi.
\v 4 Tuy nhiên, có loài thú một là nhơi hay có móng rẽ ra, và anh em không nên ăn chúng, loài thú như lạc đà, vì nó nhơi song không có móng rẽ ra. Vậy, lạc đà là không sạch cho anh em.
\s5
\v 5 Cũng vậy, con chuột đồng: vì nó nhơi song không có móng rẽ ra, loài nầy cũng là không sạch cho anh em.
\v 6 Còn con thỏ: vì nó nhơi song chẳng có móng rẽ ra, đối với anh em con vật nầy là không sạch.
\v 7 Và con heo: mặc dù nó có móng rẽ ra, nó không có nhơi, vì vậy đối với anh em con vật nầy là không sạch.
\v 8 Anh em không nên ăn bất cứ thịt gì của chúng, cũng không đụng đến xác chết của chúng nữa. Đối với anh em chúng là không sạch.
\s5
\v 9 Các loài thú sống trong nước để anh em ăn là tất cả những con vật nào có vây và có vảy, dù là trong nước biển hay nước sông.
\v 10 Nhưng mọi vật sống nào không có vây cũng không có vảy sống dưới biển hay dưới sông, gồm mọi vật động nào đang sống trong nước — anh em phải gớm ghiếc chúng.
\s5
\v 11 Một khi chúng bị gớm ghiếc, anh em không nên ăn thịt của chúng; anh em cũng không nên đụng vào xác chết của chúng nữa.
\v 12 Bất cứ thứ chi không có vây cũng không có vảy sống trong nước thì anh em phải lấy làm gớm ghiếc.
\s5
\v 13 Loài chim anh em phải gớm ghiếc và anh em không nên ăn là đây: chim ưng, chim kên kên,
\v 14 diều hâu, bất kỳ loại ó biển nào,
\v 15 từng thứ quạ,
\v 16 chim đà điểu và chim cú, chim mòng biển, và bất kỳ loài chim ưng nào.
\s5
\v 17 Anh em cũng phải gớm ghiếc chim cú nhỏ và chim cú lớn, cò quắm,
\v 18 con hạc chim thằng bè, chim ưng biển,
\v 19 con cò, bất kỳ loài diệc nào, chim đầu rìu, và loài dơi nữa.
\s5
\v 20 Mọi côn trùng hay bay, đi bằng chân thì anh em phải lấy làm gớm ghiếc.
\v 21 Tuy nhiên, anh em có thể ăn bất kỳ loài côn trùng hay bay nào cũng đi bằng chân nếu chúng có mấy chân khác phía trên đôi chân của chúng, chúng sử dụng các chân ấy để nhảy trên đất.
\v 22 Và anh em cũng có thể ăn bất kỳ loại cào cào, loài ve, châu chấu tùy theo loại.
\v 23 Nhưng hết thảy loài côn trùng hay bay có bốn chân thì anh em phải lấy làm gớm ghiếc.
\s5
\v 24 Anh em sẽ trở nên không sạch cho tới chiều tối bởi các loài thú nầy nếu anh em đụng đến xác chết của một loài trong chúng nó.
\v 25 Và ai mang xác chết của nó phải giặt áo mình và cứ ô uế cho đến chiều tối.
\s5
\v 26 Và từng loài thú có móng rẽ ra chân không hoàn toàn không chia hai hoặc không nhơi đều là không sạch cho anh em. Người nào đụng đến chúng sẽ bị ô uế.
\v 27 Bất cứ giống gì bốn cẳng giữa vòng các loài thú, chúng là không sạch đối với anh em. Hễ ai đụng đến cái thây đó sẽ bị ô uế cho đến chiều tối.
\v 28 Và hễ ai mang lấy một cái xác đó phải giặt áo của mình và bị ô uế cho đến chiều tối. Các loài vật nầy sẽ là không sạch đối với anh em.
\s5
\v 29 Trong các loài thú bò trên đất, đây là loài thú sẽ là không sạch cho anh em: chuột nhủi, chuột lắt, từng loại kỳ đà,
\v 30 cắc kè, thằn lằn, kỳ nhông và rắn mối.
\s5
\v 31 Trong các loài thú nào biết bò, đây là các loài thú sẽ là không sạch cho anh em. Hễ ai đụng đến chúng khi chúng đã chết sẽ bị ô uế cho đến chiều tối.
\v 32 Và nếu bất kỳ loài nào trong số chúng chết đi và rơi trúng bất cứ thứ gì, vật đó sẽ bị ô uế, dù vật đó làm bằng gỗ, áo, da, hay bao. Dù đó là gì và người ta thường sử dụng, nó phải chịu ngâm trong nước; nó sẽ cầm là không sạch cho đến chiều tối. Khi ấy, nó sẽ được sạch lại.
\v 33 Khi bất kỳ vật ô uế nào rơi nhằm bình bằng đất sét, thứ chi đựng ở trong bình sự bị ô uế, và anh em phải đập bể cái bình đó đi.
\s5
\v 34 Mọi thứ đồ ăn đều là thanh sạch và được phép ăn, nhưng khi nước của bình ấy nhiễu vào, sẽ bị xem là không sạch. Và bất kỳ thức uống nào từ cái bình đó sẽ bị xem là không sạch.
\v 35 Mọi thứ trên đó một phần của xác chết loài thú ô uế rớt nhằm sẽ bị xem là không sạch, dù là bếp lò gì thì cũng phải phá tan thành từng mảnh. Nó là ô uế và phải xem là không sạch đối với anh em.
\s5
\v 36 Một con suối hay hồ chứa nước uống được kể là tinh sạch nếu một vật như thế rơi vào đấy. Nhưng nếu có ai đụng đến thây của một con vật ô uế ở trong nước, người đó bị kể là ô uế.
\v 37 Nếu bất kỳ phần nào của cái thây ô uế rơi nhằm bất kỳ giống gì để gieo trồng, giống đó sẽ được xem là tinh sạch.
\v 38 Nhưng nếu nước tưới lên giống đó, và nếu bất kỳ phần nào của thây ô uế kia rơi trên chúng, thì chúng sẽ bị kể lại không sạch đối với anh em.
\s5
\v 39 Nếu bất kỳ con vật nào anh em có thể ăn chết đi, khi ấy người nào chạm đến cái xác sẽ bị ô uế cho đến chiều tối.
\v 40 Và hễ ai ăn bất kỳ cái xác nào phải giặt áo mình và bị kể là ô uế cho đến chiều tối. Và bất cứ ai mang lấy cái xác chết đó sẽ giặt áo mình và bị kể là ô uế cho đến chiều tối.
\s5
\v 41 4ừng loài vật nào bò trên đất sẽ bị xem là gớm ghiếc; anh em không nên ăn nó.
\v 42 Bất cứ thứ chi bò bằng bụng, và bất cứ con gì đi trên bốn chân, hay bất cứ vật chi có nhiều chân — mọi loài vật bò trên đất, anh em không nên ăn các thứ nầy, vì anh em phải gớm ghiếc chúng.
\s5
\v 43 Anh em đừng nên làm cho mình ra ô uế với bất cứ loài vật sống nào biết bò; anh em đừng làm cho mình ra ô uế với chúng, anh em đừng làm cho mình ra không sạch với chúng.
\v 44 Vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em. Vì lẽ đó, hãy dâng thân thể mình cho Ta và phải nên thánh vì Ta là thánh. Anh em đừng nên làm ô uế mình với bất cứ loài vật nào đi trên đất.
\v 45 Vì Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai-cập, để làm Đức Chúa Trời của anh em. Anh em vì lẽ đó phải nên thánh, vì Ta là thánh.
\s5
\v 46 Đây là luật lệ về các loài súc vật, loài chim, từng vật sống di động ở trong nước, và từng loài vật bò trên mặt đất,
\v 47 vì luật lệ nầy là một sự phân biệt được lập nên giữa loài ô uế và loài thanh sạch, và giữa những vật sống có thể ăn được và các vật sống không nên ăn'".
\s5
\c 12
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, rằng: 'Nếu một người nữ mang thai rồi sanh một con trai, khi ấy người sẽ bị ô uế trong bảy ngày, y như người bị ô uế trong suốt thời kỳ kinh nguyệt của người.
\v 3 Đến ngày thứ tám đứa trẻ phải chịu phép cắt bì.
\s5
\v 4 Khi ấy sự thanh sạch của người mẹ đối với việc xuất huyết của người sẽ tiếp tục trong ba mươi ba ngày. Người không được chạm đến bất kỳ vật thánh nào hoặc đến trong khu vực đền tạm cho đến khi kỳ tinh sạch của người đã xong rồi.
\v 5 nếu nàng sanh một bé gái, khi ấy người sẽ bị ô uế trong hai tuần, như trong kỳ kinh nguyệt. Khi ấy kỳ tinh sạch của người mẹ sẽ tiếp tục trong sáu mươi sáu ngày.
\s5
\v 6 Khi những ngày tinh sạch của người mãn rồi, dù là trai hay gái, người phải đem chiên con một tuổi làm của lễ thiêu, và chim bồ câu con hay chim bồ câu làm của lễ chuộc tội, ngay lối vào của nơi nhóm lại, dâng cho thầy tế lễ.
\s5
\v 7 Khi ấy, thầy tế lễ sẽ dâng nó lên trước mặt Đức Giê-hô-va và làm sự chuộc tội cho người, và người sẽ được sạch không còn xuất huyết nữa. Đây là luật lệ về một người nữ sanh con, một là con trai hay con gái.
\v 8 ếu người không thể dâng một chiên con, khi ấy người phải bắt hai con chim bồ câu hoặc hai chim cu, một làm của lễ thiêu và con kia làm của lễ chuộc tội, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người; khi ấy người sẽ được sạch'".
\s5
\c 13
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và A-rôn như sau:
\v 2 "Khi ai đó có vết sưng trên da của mình hay mụt lở hoặc một đốm trắng, rồi da bị nhiễm và có một bệnh về da trên thân thể người, khi ấy người phải được dẫn đến A-rôn thầy tế lễ thượng phẩm, hay đến với một trong các con trai của dòng thầy tế lễ.
\s5
\v 3 Khi ấy thầy tế lễ sẽ khám bệnh về da trên thân thể người. Nếu lông ở khu vực bệnh đổi thành màu trắng, và nếu vết thương tỏ ra sâu hơn mặt da, khi ấy đó là một bệnh truyền nhiễm. Sau khi thầy tế lễ khám người, ông phải tuyên bố người là không sạch.
\v 4 Nếu có đốm trắng trên da, và đốm ấy không sâu hơn da, và nếu lông ở vùng không đổi thành màu trắng, khi ấy thầy tế lễ phải biệt riêng người với chứng bệnh ra trong bảy ngày.
\s5
\v 5 Đến ngày thứ bảy, thầy tế lễ phải khám người để xem coi chỗ đó chẳng thấy tệ hơn, và nếu nó không lan trên da. Nếu không thấy lan ra, khi ấy thầy tế lễ phải biệt người riêng ra thêm bảy ngày nữa.
\v 6 Thầy tế lễ sẽ khám người một lần nữa vào ngày thứ bảy để xem coi chứng bệnh có khá hơn không và không lan ra xa trên da. Nếu nó không lan ra, khi ấy thầy tế lễ sẽ tuyên bố người là tinh sạch. Đó chỉ là mụt lở mà thôi. Người phải giặt áo mình, và khi ấy người được sạch.
\s5
\v 7 Nhưng nếu mụt lở lan ra trên da sau khi người tỏ mình ra với thầy tế lễ về sự tinh sạch của mình, khi ấy người phải tỏ mình cùng thầy tế lễ một lần nữa.
\v 8 Thầy tế lễ sẽ khám người để xem coi mụt lở có lan xa trên da hay không. Nếu nó lan ra, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là một bệnh truyền nhiễm.
\s5
\v 9 Khi bệnh da bị nhiễm ở nơi người nào, khi ấy người phải được dẫn đến thầy tế lễ.
\v 10 Thầy tế lễ sẽ khám người để xem coi nếu có vết sưng sắc trắng trên da hay không, nếu lông đổi thành màu trắng, hoặc nếu có lằn thịt chín đổ ở nơi ấy hay không.
\v 11 Nếu có, khi ấy nó là bệnh da thâm niên, và thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Ông sẽ không biệt riêng họ, vì người là không sạch rồi.
\s5
\v 12 Nếu chứng bệnh lở ra trên da, bao phủ hết da của người ấy với chứng đó từ đầu đến chân, chỗ nào thầy tế lễ nhìn thấy bất kỳ,
\v 13 khi ấy thầy tế lễ phải khám người để xem coi chứng bệnh đã bao phủ hết cả thân người chưa. Nếu có, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người nầy có bệnh là tinh sạch. Nếu nó đổi sang màu trắng, khi ấy thì người là tinh sạch.
\v 14 Nhưng nếu thịt đỏ xuất hiện trên người, người sẽ bị xem là không sạch.
\s5
\v 15 Thầy tế lễ phải nhìn thấy thịt chín đỏ và công bố người là không sạch vì thịt chín đỏ là không sạch. Đây là một chứng bệnh truyền nhiễm.
\v 16 Nhưng nếu thịt chín đỏ đổi sang màu trắng trở lại, khi ấy người phải đi gặp thầy tế lễ.
\v 17 tế lễ sẽ khám người để xem coi nếu thịt đổi sang màu trắng hay không. Nếu nó đổi sang màu trắng thì thầy tế lễ sẽ công bố người ấy là tinh sạch.
\s5
\v 18 Khi một người có nhọt trên da và nó đã lành,
\v 19 và ở chỗ mụt nhọt có vết sung màu trắng hay một đốm trắng hồng, khi ấy chỗ nầy phải được thầy tế lễ khám.
\v 20 Thầy tế lễ sẽ khám coi nếu nó ăn sâu dưới da hay không, và nếu lông đổi sang màu trắng. Nếu vậy, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là chứng bệnh truyền nhiễm, nếu nó đã phát triển ở chỗ có mụt nhọt.
\s5
\v 21 Nhưng nếu thầy tế lễ khám nó và thấy chẳng có lông trắng ở đó, và không ăn sâu dưới da song đã tái rồi, khi ấy thầy tế lễ phải biệt riêng người trong bảy ngày.
\v 22 Nếu nó lan rộng trên da, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là một chứng bệnh truyền nhiễm.
\v 23 Nhưng nếu đốm trắng ở tại chỗ của nó mà không lan ra, rồi đó là vết thẹo của mụt nhọt, thầy tế lễ phải công bố người là tinh sạch.
\s5
\v 24 Khi da có vết phỏng và thịt chín đỏ do phỏng trở thành đốm trắng hay đốm trắng hồng,
\v 25 khi ấy thầy tế lễ sẽ khám nó để xem coi nếu lông ở chỗ đốm đó có đổi sang màu trắng hay không, và nếu nó ăn sâu dưới da. Nếu nó đổi sang màu trắng, khi ấy nó là chứng bệnh truyền nhiễm. Nó lở ra từ mụt phỏng, và thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là chứng bệnh truyền nhiễm.
\s5
\v 26 Nhưng nếu thầy tế lễ khám nó rồi thấy rằng chẳng có lông trắng ở chỗ đó, và da không bị ăn sâu song đã tái rồi, khi ấy thầy tế lễ phải biệt riêng người trong bảy ngày.
\v 27 Thế rồi, thầy tế lễ phải khám người vào ngày thứ bảy. Nếu nó lan rộng trên da, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đây là một chứng bệnh truyền nhiễm.
\v 28 Nếu đốm đó trụ lại trong chỗ của nó mà không lan ra trên da song đã tái rồi, khi ấy đó là vết sưng từ chỗ phỏng, và thầy tế lễ phải công bố người là tinh sạch, vì đó chẳng khác gì hơn vết sẹo của da bị phỏng.
\s5
\v 29 Nếu một người nam hay một người nữ có chứng bệnh truyền nhiễm trên đầu hay càm,
\v 30 khi ấy thầy tế lễ phải khám người về chứng bệnh truyền nhiễm để xem coi nó có ăn sâu dưới da hay không, và nếu có màu vàng, lông dày lên ở đó. Nếu có, thì thầy tế lễ phải công bố người là không sạch. Đó là chứng ngứa, một chứng bệnh truyền nhiễm trên đầu và càm.
\s5
\v 31 Nếu thầy tế lễ khám chứng ngứa và thấy rằng nó không ăn sâu dưới da, và nếu không có lông đen ở đó, khi ấy thầy tế lễ sẽ biệt riêng người với bệnh ngứa trong bảy ngày.
\s5
\v 32 Đến ngày thứ bảy thầy tế lễ sẽ khám chứng bệnh xem coi nó có lan ra hay không. Nếu không có lông màu vàng, và nếu chứng bệnh chỉ có sâu dưới da,
\v 33 khi ấy người phải cạo râu, nhưng khu vực bệnh không được cạo, và thầy tế lễ phải biệt riêng người ra với bệnh ngứa trong bảy ngày nữa.
\s5
\v 34 Đến ngày thứ bảy thầy tế lễ sẽ khám bệnh để xem coi nó thôi không lan ra trên da hay không. Nếu nó không ăn sâu dưới da, khi ấy thầy tế lễ phải công bố người là tinh sạch. Người phải giặt áo mình, và khi ấy người sẽ được sạch.
\s5
\v 35 Nhưng nếu bệnh ngứa đã lan rộng trên da sau khi thầy tế lễ đã nói người được sạch,
\v 36 khi ấy thầy tế lễ phải khám người trở lại. Nếu chứng bệnh lan ra trên da, thầy tế lễ không cần phải tìm kiếm có lông vàng hay không mà chi. Người ấy là không sạch.
\v 37 Nhưng nếu theo cách thấy của thầy tế lễ bệnh ngứa đã dứt không lan ra và lông đen mọc lại trên khu vực đó, khi ấy chứng bệnh đã được chữa lành. Người được sạch, và thầy tế lễ phải công bố người là tinh sạch.
\s5
\v 38 Nếu một người nam hay một người nữ có những đốm trắng trên da,
\v 39 khi ấy thầy tế lễ phải khám người xem coi nếu các đốm ấy màu trắng đục, chỉ là đốm lở trên da mà thôi. Người là tinh sạch.
\s5
\v 40 Nếu tóc của một người bị rụng đi, người bị sói đầu, nhưng người là tinh sạch.
\v 41 Và nếu tóc người đã rụng chổ trước đầu, và nếu trán người bị sói, người là tinh sạch.
\s5
\v 42 Nhưng nếu có chỗ vít trắng hồng trên chỗ sói đầu hay trên trán, đây là chứng bệnh truyền nhiễm đã lở ra.
\v 43 Khi ấy thầy tế lễ phải khám người để xem coi nếu vết sưng nơi khu vực bệnh trên chỗ sói đầu hay trên trán có màu trắng hồng, giống như bề ngoài của bệnh truyền nhiễm trên da.
\v 44 Nếu thực vậy, khi ấy người đang có chứng bệnh truyền nhiễm và người là không sạch. Thầy tế lễ phải chắc chắn công bố người là không sạch vì cớ chứng bệnh trên đầu người.
\s5
\v 45 Người nào có bệnh truyền nhiễm phải mặc thứ áo rách, tóc người thả xuôi, và người phải che mặt mình lên tới mũi và la lớn: 'Ô uế, ô uế'.
\v 46 Trọn những ngày người bị bệnh truyền nhiễm, người sẽ là không sạch. Vì người là không sạch với chứng bệnh có thể lây lan, người phải sống một mình. Người phải sống ở ngoài trại quân.
\s5
\v 47 Một cái áo bị nhiễm mốc, dù là len hay vải thường,
\v 48 hay đồ vật được đan dệt dù bằng len hay vải mịn, hoặc bằng da hay bất cứ gì làm bằng da —
\v 49 nếu chỗ nhiễm đó màu xanh hay đỏ trên quần áo, trên da, được đan dệt hoặc món nào bằng da, khi ấy đó là vít mốc lan ra; cần phải đi khám nơi thầy tế lễ.
\s5
\v 50 Thầy tế lễ phải khám thứ có vít mốc; ông phải biệt riêng ra bất cứ thứ chi có mốc trong bảy ngày.
\v 51 Ông phải khám mốc một lần nữa vào ngày thứ bảy. Nếu nó lan ra trên quần áo hoặc bất cứ thứ chi được đan dệt bằng len hoặc vải mịn, hay da hoặc bất cứ thứ chi da được dùng đến, khi ấy đây là thứ mốc có hại, và mọi thứ đều là không sạch.
\v 52 Ông phải thiêu bộ quần áo, hay bất cứ thứ chi đan dệt từ len hay vải mịn, hoặc da hoặc bất cứ thứ chi làm bằng da, bất cứ thứ chi trong đó mốc gây hại được tìm thấy, vì nó có thể dẫn tới bệnh tật. Đồ đạt phải bị thiêu hết.
\s5
\v 53 Nếu thầy tế lễ khám đồ đạt và thấy rằng mốc không lan ra trong quần áo hay đồ vật được đan dệt bằng len hay vải mịn, hoặc các thứ bằng da,
\v 54 khi ấy ông sẽ truyền cho họ phải giặt đồ đạt có mốc được tìm thấy trong đó, và ông phải biệt lập nó thêm bảy ngày nữa.
\v 55 Khi ấy thầy tế lễ sẽ khám đồ đạt sau khi thứ có mốc đã được đem giặt rồi. Nếu mốc không thay đổi màu sắc của nó, mặc dù nó không lan ra, nó là không sạch. Anh em phải thiêu món đồ ấy đi, vô luận chỗ mốc đã làm hỏng nó.
\s5
\v 56 Nếu thầy tế lễ khám đồ vật, và nếu vết mốc tái đi sau khi món đồ đã được giặt, khi ấy ông phải xé toạc phần bị nhiễm từ quần áo hay từ đồ da, hoặc từ đồ được làm bằng vật liệu đan dệt.
\v 57 Nếu vết mốc vẫn còn lan ra trong quần áo, dù là đan hay dệt, hoặc bất kỳ thứ gì làm bằng da, nó đang lan ra. Ông phải thiêu bất kỳ món gì có vết mốc.
\v 58 Quần áo hay bất kỳ thứ chi đan dệt từ len hay vải mịn, hoặc da hoặc bất cứ thứ chi làm bằng da — nếu ông giặt món đồ đó và vết mốc không còn nữa, thế thì món đồ phải đem giặt lần thứ nhì và nó sẽ được sạch.
\s5
\v 59 Đây là luật lệ về vết mốc trong quần áo hay đồ đan dệt, hoặc bất cứ thứ chi được đan dệt từ len hay vải mịn, hay đồ da hoặc bất cứ thứ chi làm bằng da, hầu cho ông có thể công bố món đồ đó là sạch hay không sạch".
\s5
\c 14
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán với Môi-se như sau:
\v 2 "Đây sẽ là luật cho người nhiễm bệnh nhằm ngày tinh sạch của người. Người bệnh phải được đưa tới gặp thầy tế lễ.
\s5
\v 3 Thầy tế lễ sẽ ra ngoài trại quân để khám cho người, xem coi da bị nhiễm đã được lành chưa!
\v 4 Khi ấy thầy tế lễ sẽ truyền cho người bệnh đã được sạch phải đem hai con chim tinh sạch còn sống, cây tuyết tùng, màu đỏ sặm và dụng cụ để rải nước.
\v 5 Thầy tế lễ sẽ truyền cho người phải giết một con chim trên chỗ có nước đựng trong bình bằng đất sét.
\s5
\v 6 Thầy tế lễ khi ấy bắt con chim còn sống và cây tuyết tùng màu đỏ sặm và dụng cụ rải nước, rồi ông nhúng hết thảy các thứ nầy, kể cả con chim sống, vào trong huyết của con chim đã bị giết trên chỗ có nước.
\v 7 Khi ấy thầy tế lễ sẽ rải nước nầy bảy lần lên trên người đã được xem là tinh sạch đối với chứng bệnh, và khi ấy thầy tế lễ sẽ công bố người là tinh sạch. Thầy tế lễ sẽ thả con chim còn sống kia ra ngoài đồng.
\s5
\v 8 Người nào đã được xem là tinh sạch sẽ giặt áo mình, cạo râu, và tắm mình trong nước, và khi ấy người sẽ được sạch. Sau đó, người phải vào trong trại quân, song người sẽ sống ở ngoài lều của mình trong bảy ngày.
\v 9 Đến ngày thứ bảy, người phải cạo hết tóc trên đầu mình, và người cũng phải cạo râu và chân mày. Người phải cạo hết tóc, rồi phải giặt quần áo, tắm mình trong nước, thì người sẽ được sạch.
\s5
\v 10 Đến ngày thứ tám, người phải bắt hai con chiên không vít, một con chiên cái một tuổi không vít, và 3/10 ê-pha bột nhất hạng trộn với một chút dầu giống như của lễ chay.
\v 11 Thầy tế lễ làm cho người tinh sạch sẽ đứng với người được làm cho tinh sạch, cùng với các thứ đó, trước mặt Đức Giê-hô-va tại lối vào nơi nhóm lại.
\s5
\v 12 Thầy tế lễ sẽ bắt một con chiên rồi dâng nó lên làm của lễ chuộc sự mắc lỗi, cùng với một chút dầu; người sẽ giơ chúng lên như một của lễ ở trước mặt Đức Giê-hô-va rồi trình chúng cho Ngài.
\v 13 Người phải giết con chiên đực trong chỗ mà họ giết sinh tế chuộc tội và sinh tế làm của lễ thiêu, trong khu vực của đền tạm, vì của lễ chuộc tội thuộc về thầy tế lễ, như của lễ chuộc sự mắt lỗi vậy, vì nó là vật chí thánh.
\s5
\v 14 Thầy tế lễ sẽ lấy huyết của sinh tế chuộc sự mắc lỗi rồi bôi nó vào trái tai bên phải của người được xem là tinh sạch, trên ngón cái của bàn tay phải, và trên ngón cái bàn chân phải của người.
\v 15 Khi ấy thầy tế lễ lấy một chút dầu rồi chế vào bàn tay trái của mình,
\v 16 rồi nhúng ngón tay phải vào trong dầu đang ở trong bàn tay trái mình, rồi rải một ít dầu với ngón tay mình bảy lần trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 17 Thầy tế lễ sẽ bôi phần dầu còn lại trên tai bên phải của người được kể là tinh sạch, trên ngón cái của bàn tay phải, và trên ngón cái của bàn chân phải của người ấy. Ông phải bôi dầu nầy trên lớp huyết của sinh tế chuộc sự mắc lỗi.
\v 18 Còn phần dầu còn lại ở trong bàn tay của thầy tế lễ, ông sẽ bôi nó lên đầu của người được kể là tinh sạch, và thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Khi ấy thầy tế lễ sẽ dâng sinh tế chuộc tội và làm sự chuộc tội cho người nào được xem là tinh sạch vì cớ sự không sạch của mình, rồi sau đó ông sẽ giết sinh tế của lễ thiêu.
\v 20 Khi ấy thầy tế lễ dâng của lễ thiêu và của lễ chay trên bàn thờ. Thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người đó, và rồi người sẽ được sạch.
\s5
\v 21 Tuy nhiên, nếu người nầy nghèo không thể dâng các con sinh nầy, khi ấy người sẽ bắt một con chiên đực làm sinh tế chuộc sự mắc lỗi, nó được giơ lên và trình cho Đức Giê-hô-va đặng làm sự chuộc tội cho chính mình, và 1/10 ê-pha bột nhất hạng với dầu làm của lễ chay, và một chút dầu,
\v 22 cùng với hai con chim bồ câu hay hai con chim cu con, tùy theo phương thế mình; một con chim sẽ là của lễ chuộc tội và con kia làm của lễ thiêu.
\v 23 Đến ngày thứ tám người phải đem chúng để làm sạch cho mình đến với thầy tế lễ, tại lối vào của nơi nhóm lại, ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 24 Khi ấy thầy tế lễ sẽ bắt lấy con chiên dùng làm sinh tế chuộc sự mắc lỗi với một chút dầu, và ông sẽ giơ chúng lên như một của lễ dâng cho Đức Giê-hô-va và trình chúng cho Ngài.
\v 25 Ông sẽ giết con chiên dùng làm sinh tế của lễ thiêu, và ông sẽ lấy một ít huyết của sinh tế chuộc sự mắc lỗi rồi bôi nó trên trái tai bên phải của người được xem là tinh sạch, trên ngón cái tay phải, và trên ngón cái chân phải của người ấy.
\s5
\v 26 Khi đó thầy tế lễ sẽ chế một chút dầu vào lòng bàn tay bên trái của ông,
\v 27 rồi ông sẽ dùng ngón tay phải rải một ít dầu đang ở trên bàn tay trái của ông bảy lần trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 28 Thầy tế lễ khi ấy sẽ lấy một chút dầu trên bàn tay của mình bôi trên trái tai bên phải của người được cho là tinh sạch, trên ngón cái của bàn tay phải, và trên ngón cái của bàn chân phải, cùng vị trí mà ông bôi huyết của sinh tế chuộc sự mắc lỗi.
\v 29 Ông sẽ bôi phần dầu còn lại ở trong bàn tay của mình lên đầu của người nào được xem là tinh sạch, để làm sự chuộc tội cho người ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 30 Người phải dâng một trong hai con chim bồ câu hay hai con chim cu, y như người thường làm —
\v 31 một con làm sinh tế chuộc tội và con kia làm sinh tế của lễ thiêu, cùng với của lễ chay. Khi ấy thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người được xem là tinh sạch ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 32 Đây là luật cho một người có bệnh truyền nhiễm về da nơi họ, người nầy không thể dâng các thứ con sinh tiêu chuẩn để làm sự tinh sạch cho mình".
\s5
\v 33 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và với A-rôn như sau:
\v 34 "Khi hai con vào trong xứ Ca-na-an mà ta đã ban cho các con làm cơ nghiệp, và nếu ta đặt một vết mốc lan trong một ngôi nhà trong xứ sản nghiệp của các con,
\v 35 khi ấy người chủ nhà phải đến trình cùng thầy tế lễ. Người phải nói: 'Đối với tôi, dường như có một thứ giống như vết mốc trong nhà của tôi'.
\s5
\v 36 Khi ấy thầy tế lễ sẽ truyền rằng họ lo dọn dẹp trống căn nhà trước khi ông bước vào để xem bằng chứng về vết mốc, hầu cho không một thứ chi trong nhà sẽ bị kể là không sạch. Sau đó thầy tế lễ bước vào trong để xem xét ngôi nhà.
\v 37 Ông phải khám vết mốc để xem coi vết ấy có ở trên tường nhà hay không, và để xem nó có màu xanh hay màu đỏ ở các lỗ trên bề mặt của bức tường hay không.
\v 38 Nếu ngôi nhà không có vết mốc, khi ấy thầy tế lễ sẽ ra khỏi nhà, đóng cửa ngôi nhà lại trong bảy ngày.
\s5
\v 39 Khi ấy thầy tế lễ sẽ trở lại một lần nữa nhằm ngày thứ bảy và khám xét nó để xem coi vết mốc có lan ra trên các bức tường của ngôi nhà hay không?
\v 40 Nếu vết mốc lan ra, khi ấy thầy tế lễ sẽ truyền rằng họ phải gỡ lấy hết những hòn đá được thấy có vết mốc rồi liệng chúng vào một chỗ dơ dáy ở bên ngoài thành phố.
\s5
\v 41 Ông sẽ buộc người ta phải cạo đi các bức tường bên trong ngôi nhà, và họ phải hốt thứ bị cạo đó đem ra ngoài thành bỏ ở một nơi dơ dáy.
\v 42 Họ phải lấy mấy hòn đá khác rồi đặt chúng ở chỗ mấy hòn đá đã bị dời đi, và họ phải sử dụng đất sét mới trám lại cả ngôi nhà.
\s5
\v 43 Nếu vết mốc tái phát ở chỗ mấy hòn đá được dời đi và các bức tường đã bị cạo và trám lại,
\v 44 khi ấy thầy tế lễ phải bước vào khám lại ngôi nhà để xem coi vết mốc có lan ra trong nhà hay không? Nếu vết mốc có lan ra, khi ấy đó là vết mốc gây hại, và ngôi nhà là không sạch.
\s5
\v 45 Ngôi nhà phải bị đập bỏ đi. Những hòn đá, gỗ, và hồ trong ngôi nhà phải bị bỏ đi ở ngoài thành ở một nơi dơ dáy.
\v 46 Thêm nữa, hễ ai vào trong ngôi nhà trong thời điểm trong ngôi nhà bị niêm sẽ bị kể là không sạch cho đến chiều tối.
\v 47 Bất kỳ người nào ngủ trong ngôi nhà phải giặt quần áo mình, và bất kỳ ai ăn uống trong ngôi nhà phải giặt quần áo mình.
\s5
\v 48 Nếu thầy tế lễ bước vào ngôi nhà để khám nó xem coi vết mốc có còn lan ra trong nhà hay không sau khi ngôi nhà đã được trám, khi ấy, nếu vết mốc không còn nữa, ông sẽ công bố ngôi nhà được sạch.
\s5
\v 49 Khi ấy thầy tế lễ phải bắt hai con chim để thanh tẩy ngôi nhà, và cây tuyết tùng, màu đỏ sặn và dụng cụ rải nước.
\v 50 Ông sẽ giết một con chim trong cái bình đất sét đựng nước.
\v 51 Ông sẽ lấy cây tuyết tùng, dụng cụ rải nước, màu đỏ sặm, và con chim còn sống, rồi nhúng chúng vào huyết của con chim bị giết, trong chậu nước, rồi rải trên nhà ấy bảy lần.
\s5
\v 52 Ông sẽ làm sạch cho ngôi nhà với huyết của con chim và với nước sạch, với con chim còn sống, cây tuyết tùng, dụng cụ rải nước màu đỏ sặm.
\v 53 Nhưng ông sẽ thả con chim sống bay đi khỏi thành vào trong đồng vắng. Bằng cách nầy ông làm sự chuộc tội cho ngôi nhà, và ngôi nhà ấy sẽ được sạch.
\s5
\v 54 Đây là luật cho mọi loại chứng bệnh truyền nhiễm về da cùng những thứ gây ra chứng bệnh đó, và cho bệnh ngứa,
\v 55 và cho vết mốc nơi quần áo và nhà cửa,
\v 56 cho vết sưng, cho chỗ lở, và chỗ có đốm,
\v 57 để quyết định khi nào bất kỳ các thứ trường hợp nầy được sạch hay không sạch. Đây là luật về những chứng bệnh truyền nhiễm về da và vết mốc".
\s5
\c 15
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se và với A-rôn như sau:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên, và hãy nói với họ: 'Khi bất kỳ người nào có bệnh bạch trược, chất lỏng thải ra khỏi thân thể mình, người ấy là không sạch.
\v 3 Tình trạng không sạch của người phù hợp với bạch trược đó. Dù thân thể người chảy ra chất lỏng hoặc bị ứ lại, nó là không sạch.
\s5
\v 4 Từng cái giường nào người nằm trên đó sẽ là không sạch, và mọi thứ nào người ngồi lên sẽ là không sạch.
\v 5 Hễ ai chạm đến giường người phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, và cứ không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 6 Bất kỳ người nào ngồi lên thứ chi mà người bị bệnh bạch trược đã ngồi, người ấy phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, rồi người cứ không sạch cho đến chiều tồi.
\v 7 Và bất cứ ai đụng đến thân thể của người bị bệnh bạch trược phải giặt quần áo rồi tắm trong nước, và là không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 8 Nếu người nào bị bệnh bạch trược nhổ nhằm người nào tinh sạch, thì người ấy phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, và người sẽ bị không sạch cho đến chiều tối.
\v 9 Bất kỳ yên ngựa nào người mắc bệnh nầy ngồi lên sẽ bị kể là không sạch.
\s5
\v 10 Hễ ai đụng đến bất kỳ thứ chi ở dưới người ấy sẽ bị kể là không sạch cho đến chiều tối, và người nào mang lấy những vật ấy phải giặt quần áo rồi tắm mình trong nước; người ấy sẽ là không sạch cho đến chiều tối.
\v 11 Hễ ai mà người bị bệnh bạch trược đụng đến mà trước hết không rửa tay mình trong nước, người bị đụng đến phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, và người sẽ bị không sạch cho đến chiều tối.
\v 12 Bất kỳ cái bình đất sét nào mà người bệnh bạch trược đụng đến phải bị đập bể đi, và bình chứa bằng gỗ phải được rửa trong nước.
\s5
\v 13 Khi người nào bị bệnh bạch trược đã được lành rồi, khi ấy người phải tính từ ngày lành đến bảy ngày; rồi người phải giặt quần áo và tắm trong nước chảy. Khi ấy người sẽ được sạch.
\v 14 Nhằm ngày thứ tám, người phải bắt hai con chim bồ câu hay hai con chim cu rồi đến trước mặt Đức Giê-hô-va ở lối vào của nơi nhóm lại; ở đó người phải dâng hai con chim cho thầy tế lễ.
\v 15 Thầy tế lễ phải dâng chúng, một con làm sinh tế chuộc tội và con kia làm sinh tế của lễ thiêu, và thầy tế lễ phải làm sự chuộc tội cho người ấy trước mặt Đức Giê-hô-va vì bệnh của mình.
\s5
\v 16 Nếu tinh dịch của bất kỳ người nào tự ý tuôn ra khỏi người, khi ấy người phải tắm cả thân mình trong nước; người sẽ là không sạch cho đến chiều tối.
\v 17 Từng cái áo cái quần hay da có tinh dịch dính đến phải được rửa với nước; việc ấy bị kể là không sạch cho đến chiều tối.
\v 18 Và nếu một người nữ và một người nam ngủ với nhau và có sự chuyển tinh dịch qua cho nàng, cả hai người phải tự tắm mình trong nước; họ sẽ bị coi là không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 19 Khi một người nữ có kinh nguyệt, tình trạng không sạch của nàng sẽ tiếp tục trong bảy ngày, và hễ ai đụng đến nàng sẽ bị coi là không sạch cho đến chiều tối.
\v 20 Mọi sự nàng nằm lên trong suốt thời kỳ của nàng sẽ bị coi là không sạch; mọi sự nàng ngồi lên cũng sẽ là không sạch.
\s5
\v 21 Hễ ai đụng đến giường của nàng phải giặt quần áo và tắm mình trong nước; người ấy sẽ bị kể là không sạch cho đến chiều tối.
\v 22 Hễ ai đụng đến bất cứ thứ chi nàng ngồi lên phải giặt quần áo và tắm mình trong nước; người ấy sẽ là không sạch cho đến chiều tối.
\v 23 Trong trường hợp vật đó ở trên giường hay trên vật chi nàng ngồi lên, nếu nàng đụng đến, người ấy sẽ là không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 24 Nếu có người nào ngủ với nàng ta, và nếu tình trạng không sạch của nàng chảy ra dính người, người sẽ là không sạch trong bảy ngày. Giường nào người nằm trên đó sẽ bị kể là không sạch.
\s5
\v 25 Nếu người nữ xuất huyết trong nhiều ngày mà không phải là kỳ kinh nguyệt, hoặc nếu nàng cứ xuất huyết quá thời hạn kinh nguyệt, trong suốt những ngày xuất huyết đó nàng bị kể là không sạch, nàng sẽ bị kể là không sạch y như trong thời kỳ của mình vậy. Nàng là không sạch.
\v 26 Cái giường nào trên đó nàng nằm trọn lúc xuất huyết sẽ y như lúc trong thời kỳ kinh nguyệt, và mọi sự trên đó nàng ngồi lên sẽ bị xem là không sạch, y như tình trạng không sạch của thời kỳ kinh nguyệt của nàng vậy.
\v 27 Và hễ ai đụng đến bất kỳ thứ chi trong các thứ đó sẽ bị kể là không sạch; người phải giặt quần áo và tắm mình trong nước, và người sẽ bị không sạch cho đến chiều tối.
\s5
\v 28 Nhưng nếu nàng được sạch khỏi sự xuất huyết mình rồi, khi ấy nàng sẽ tự tính bảy ngày, và sau đó nàng sẽ được sạch.
\v 29 Đến ngày thứ tám nàng sẽ bắt hai con chim bồ câu hoặc hai con chim cu con rồi đem chúng đến thầy tế lễ tại chỗ lối vào của nơi nhóm lại.
\v 30 Thầy tế lễ dâng một con chim làm sinh tế chuộc tội và con kia làm sinh tế của lễ thiêu, và ông sẽ làm sự chuộc tội cho nàng trước mặt Đức Giê-hô-va vì sự xuất huyết không sạch của nàng.
\s5
\v 31 Đây là cách các con phải phân biệt dân Y-sơ-ra-ên đối với tình trạng không sạch của họ, vì vậy họ sẽ không chết so với sự ô uế của họ, do làm ô uế đền tạm của ta, nơi ta ngự giữa vòng họ.
\s5
\v 32 Đây là luật lệ cho bất cứ ai bị bệnh bạch trược, cho bất cứ ai bị xuất tinh ra ngoài và làm cho họ không sạch,
\v 33 cho bất kỳ người nữ nào có thời kỳ kinh nguyệt, cho bất kỳ ai bị bạch trược, dù là nam hay nữ, và cho bất kỳ người nam nào ngủ với một người nữ không sạch'".
\s5
\c 16
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se — điều nầy đã xảy ra sau cái chết của hai con trai A-rôn, khi họ đến gần Đức Giê-hô-va và rồi ngã chết.
\v 2 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: "Hãy nói với A-rôn anh của con, và nói cho người biết: đừng bước vào nơi chí thánh bất kỳ giờ giấc nào bên trong bức màn, trước nắp chuộc tội đậy trên hòm. Nếu người bước vào, người sẽ chết, vì ta hiện ra trong đám mây trên nắp chuộc tội”.
\s5
\v 3 Vậy, đây là cách A-rôn phải bước vào nơi chí thánh. Người phải bước vào với con bò đực làm sinh tế chuộc tội, và một con chiên đực làm sinh tế của lễ thiêu.
\v 4 Người phải mặc áo thánh bằng vải mịn, và người phải mặc trên người quần bằng vải mịn, và người phải thắt đai và đội mão bằng vải mịn. Đây là bộ áo thánh. Người phải tắm thân thể mình trong nước và tự mặc lấy với các thứ y phục nầy.
\v 5 Người phải bắt từ trong hội chúng dân Y-sơ-ra-ên hai con dê đực làm sinh tế chuộc tội và một con chiên đực làm sinh tế của lễ thiêu.
\s5
\v 6 Khi ấy A-rôn phải trình con bò đực làm sinh tế của lễ chuộc tội, chuộc tội cho bản thân mình, làm sự chuộc tội cho bản thân mình và gia đình mình.
\v 7 Khi ấy ông phải bắt hai con dê rồi đặt chúng ở trước mặt Đức Giê-hô-va ngay lối vào của nơi nhóm lại.
\s5
\v 8 Khi ấy A-rôn phải bóc thăm cho hai con dê, một thăm cho Đức Giê-hô-va, và thăm kia về A-xa-sên.
\v 9 A-rôn khi ấy phải trình con dê có lá thăm về phần Đức Giê-hô-va, và dâng con dê kia làm sinh tế chuộc tội.
\v 10 Nhưng con dê có thăm về phần A-xa-sên phải được đem đến còn sống trước mặt Đức Giê-hô-va, để làm sự chuộc tội bằng cách đuổi nó vào trong đồng vắng.
\s5
\v 11 Khi ấy A-rôn phải trình con bò đực đặng làm sinh tế chuộc tội, để chuộc tội cho bản thân ông. Ông phải làm sự chuộc tội cho bản thân mình và cho gia đình mình, vậy ông phải giết con bò đực làm sinh tế chuộc tội cho bản thân mình.
\s5
\v 12 A-rôn phải lấy lư hương đầy than rực đỏ từ bàn thờ ở trước mặt Đức Giê-hô-va, với hai bàn tay ông đầy những hương liệu ngào ngạt, rồi đem các thứ nầy vào bên trong bức màn.
\v 13 Ở đó, ông phải đặt hương liệu trên ngọn lửa ở trước mặt Đức Giê-hô-va hầu cho khói từ hương liệu sẽ bao phủ nắp chuộc tội đậy trên hòm giao ước. Ông phải làm điều nầy để ông sẽ không ngã chết.
\s5
\v 14 Khi ấy ông phải lấy một ít huyết của con bò đực rồi rải nó với ngón tay ông ở trước nắp chuộc tội. Ông phải rải một ít huyết với ngón tay mình bảy lần ở trước nắp chuộc tội.
\s5
\v 15 Khi ấy ông phải giết con dê làm sinh tế chuộc tội cho dân sự rồi đem huyết của nó vào bên trong bức màn. Ở đó ông phải làm với huyết như ông đã làm với huyết của con bò đực: ông phải rải huyết ấy trên nắp chuộc tội và kế đó ở trước nắp chuộc tội.
\v 16 Ông phải làm sự chuộc tội cho nơi thánh vì cớ những hành vi bất khiết của dân Y-sơ-ra-ên, và vì cớ sự loạn nghịch của họ và mọi tội lỗi của họ. Ông cũng phải làm điều nầy cho nơi nhóm lại, ở đó Đức Giê-hô-va ngự giữa vòng họ, trong sự hiện diện của mọi hành vi bất khiết của họ.
\s5
\v 17 Không một người nào được ở trong nơi nhóm lại khi A-rôn bước vào làm sự chuộc tội tại nơi chí thánh, và cho đến khi ông bước ra và đã thực hiện xong sự chuộc tội cho bản thân ông cùng gia đình ông, và cho cả hội chúng của Y-sơ-ra-ên.
\v 18 Ông phải ra khỏi bàn thờ ở trước mặt Đức Giê-hô-va rồi làm sự chuộc tội cho nó, và ông phải lấy một ít huyết của con bò đực và huyết của con dê rồi bôi nó lên các sừng bốn bên bàn thờ.
\v 19 Ông phải rải một ít huyết lên nó với ngón tay ông bảy lần để làm sạch nó và dâng nó cho Đức Giê-hô-va, là vì mọi hành vi bất khiết của dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 20 Khi ông làm xong sự chuộc tội cho nơi chí thánh, nơi nhóm lại, bàn thờ, ông phải trình con dê còn sống.
\v 21 A-rôn phải đặt cả hai tay mình lên đầu con dê còn sống rồi xưng trên nó mọi sự gian ác của dân Y-sơ-ra-ên, mọi sự loạn nghịch của họ, cùng mọi tội lỗi của họ. Khi ấy ông phải đặt mọi tình trạng tội lỗi đó lên đầu của con dê rồi đuổi con dê đi trong sự chực sẵn của một người, người ấy sẵn sàng dẫn con dê vào trong đồng vắng.
\v 22 Con dê phải mang trên mình mọi sự gian ác của con người vào một nơi vắng vẻ. Ở đó trong đồng vắng, người kia phải để cho con dê đi tự do.
\s5
\v 23 Khi ấy A-rôn phải trở vào nơi nhóm lại rồi lấy bộ y phục bằng vải mịn mà ông đã mặc trước khi bước vào nơi chí thánh, và ông phải để bộ đồ tại đó.
\v 24 Ông phải tắm thân thể mình trong nước ở nơi thánh, rồi mặc bộ thường phục; khi ấy, ông phải bước ra ngoài rồi dâng của lễ thiêu của mình và của lễ thiêu cho dân sự, và theo cách thức nầy làm sự chuộc tội cho bản thân mình và cho dân sự.
\s5
\v 25 Ông phải thiêu mỡ của sinh tế chuộc tội trên bàn thờ.
\v 26 Người nào thả con dê A-xa-sên phải gặt y phục mình rồi tắm thân thể mình trong nước; sau đó, ông sẽ trở vào trong trại quân.
\s5
\v 27 Con bò đực dùng làm sinh tế chuộc tội và con dê dùng làm sinh tế chuộc tội, huyết của chúng được mang vào trong để làm sự chuộc tội trong nơi thánh, phải được đem ra ngoài trại quân. Ở đó họ phải thiêu da, thịt, và phân của nó.
\v 28 Người nào thiêu các phần ấy phải giặt y phục mình rồi tắm mình trong nước; sau đó, người có thể trở vào trại quân.
\s5
\v 29 Điều nầy sẽ là một luật cho các con, đến tháng thứ bảy, nhằm ngày mồng mười tháng ấy, các con phải tự hạ mình xuống và chớ làm công việc nào hết, dù người bản xứ sinh đẻ hay một người ngoại quốc đang sống giữa vòng các con.
\v 30 Sở dĩ như vậy là vì nhằm ngày nầy sự chuộc tội sẽ được làm cho các con, để thanh tẩy các con khỏi mọi tội lỗi hầu cho các con sẽ được sạch ở trước mặt Đức Giê-hô-va.
\v 31 là một ngày Sa-bát trang trọng yên nghỉ cho các con, và các con phải tự hạ mình xuống và chớ làm công việc nào hết. Điều nầy sẽ luôn luôn là một lệ định giữa vòng các con.
\s5
\v 32 Thầy tế lễ thượng phẩm, ông là người được xức dầu và được tấn phong làm thầy tế lễ thượng phẩm trong chỗ của cha người, người phải thực hiện sự chuộc tội nầy và mặc lấy bộ y phục bằng vải mịn, tức là bộ đồ thánh.
\v 33 Ông phải làm sự chuộc tội cho nơi chí thánh; ông phải làm sự chuộc tội cho nơi nhóm lại và cho bàn thờ, và ông phải làm sự chuộc tội cho các thầy tế lễ và cho toàn bộ dân sự của hội chúng.
\s5
\v 34 Điều nầy sẽ luôn luôn là một luật lệ cho các con, để làm sự chuộc tội cho dân Y-sơ-ra-ên vì cớ mọi tội lỗi của họ, mỗi năm một lần". Và điều nầy được thực hiện y như Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói với A-rôn cùng các con trai người, và cho cả dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói cho họ biết điều Đức Giê-hô-va đã truyền:
\v 3 'Bất cứ người nào từ Y-sơ-ra-ên giết một con bò, con chiên, hay con dê trong trại quân, hoặc người nào giết nó ngoài trại quân, để hy sinh nó —
\v 4 nếu người không đem nó đến lối vào nơi nhóm lại để dâng nó làm của lễ cho Đức Giê-hô-va trước đền tạm của Ngài, người đó phạm tội làm đổ huyết. Người đã làm đổ huyết, và người đó phải bị trục xuất ra khỏi dân sự mình.
\s5
\v 5 Mục đích của mạng lịnh nầy là để cho dân sự Y-sơ-ra-ên sẽ đem các thứ của lễ của họ dâng cho Đức Giê-hô-va tại lối vào nơi nhóm lại, cho thầy tế lễ để làm sinh tế như của lễ tương giao với Đức Giê-hô-va, thay vì dâng các sinh tế ở ngoài đồng trống.
\v 6 Thầy tế lễ sẽ rải huyết trên bàn thờ của Đức Giê-hô-va tại lối vào nơi nhóm lại; ông sẽ thiêu mỡ vì mỡ tạo ra mùi thơm ngào ngạt cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 7 Dân sự không phải dâng của lễ của họ cho các hình tượng dê, vì hình tượng ấy họ hành động như gái điếm. Đây sẽ là luật lệ thường trực cho họ trải bao thế hệ của dân tộc họ'.
\s5
\v 8 Con phải nói cho họ biết: 'Bất kỳ người nào trong dân Y-sơ-ra-ên, hay bất cứ người ngoại nào sống giữa vòng họ, người nào dâng sinh tế của lễ thiêu hay của lễ
\v 9 và không đem nó đến lối vào nơi nhóm lại để dâng nó cho Đức Giê-hô-va, người ấy phải bị truất khỏi dân sự mình.
\s5
\v 10 Và bất cứ ai trong Y-sơ-ra-ên, hoặc bất kỳ người ngoại nào sống giữa vòng họ, ăn bất cứ huyết nào, ta sẽ chóng nghịch ra nghịch cùng kẻ ấy, bất kỳ người nào ăn huyết; Ta sẽ truất người ấy ra khỏi dân sự mình.
\v 11 Vì sinh mạng của con thú ở trong huyết của nó. Ta đã ban huyết của nó cho con để làm sự chuộc tội trên bàn thờ cho sinh mạng của con, vì chính huyết mới làm sự chuộc tội, vì chính huyết mới chuộc lấy sinh mạng.
\s5
\v 12 Vì lẽ đó, Ta phán cùng dân sự Y-sơ-ra-ên rằng: “không một ai giữa vòng các con được ăn huyết, bất kỳ khách lạ nào sống giữa vòng các con cũng không được ăn huyết.
\v 13 Và bất kỳ ai trong dân Y-sơ-ra-ên, hoặc bất kỳ khách lạ nào sống giữa vòng họ, ai săn và giết chết một con thú hay con chim để ăn thịt, người ấy phải đổ huyết nó ra và lấp đất lại trên huyết ấy.
\s5
\v 14 Vì sinh mạng của từng tạo vật là huyết của nó”. Đấy là lý do tại sao dân Y-sơ-ra-ên: "Các con không nên ăn huyết của bất kỳ tạo vật nào, vì sinh mạng của từng tạo vật sống chính là huyết. Hễ ai ăn huyết sẽ bị truất bỏ.
\s5
\v 15 Từng người nào ăn một con thú đã chết hay bị thú dữ xé, trong trường hợp người ấy là người bản xứ hay người lạ sống giữa vòng các con, người ấy phải giặt quần áo mình rồi tắm mình trong nước, và người sẽ là không sạch cho đến chiều tối. Khi ấy, người sẽ được sạch.
\v 16 Nhưng nếu người không giặt quần áo hay tắm mình trong nước, khi ấy người phải mang lấy lầm lỗi mình'".
\s5
\c 18
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\v 3 Các con không nên làm những việc mà người ta làm trong xứ Ai-cập, là nơi các con đã sống trước đây. Và các con không nên làm những việc mà người ta làm trong xứ Ca-na-an, là xứ mà Ta đưa các con đến. Đừng theo thông tục của họ.
\s5
\v 4 Luật pháp của Ta là điều các con phải làm theo, và điều răn của Ta là những gì các con phải tuân giữ, hầu cho các con ăn ở trong những điều ấy, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\v 5 Vì lẽ đó, các con phải giữ theo mạng lịnh và luật pháp của Ta. Nếu một người vâng theo chúng, người ấy sẽ sống vì cớ chúng. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 6 Không một người nào nên ngủ với bất kỳ ai có quan hệ gần gũi. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 7 Đừng bất kính với cha của các con bằng cách ngủ với mẹ của các con. Bà là mẹ của các con! Các con không nên bất kính với bà.
\v 8 Đừng ngủ với bất kỳ người vợ nào của cha mình; các con không nên bất kính với cha của các con như vậy.
\s5
\v 9 Đừng ngủ với bất kỳ chị em nào của các con, dầu nàng là con gái của cha mình hay con gái của mẹ mình, dầu nàng được nuôi dạy trong nhà hoặc ở xa các con. Các con không được ngủ với chị em các con.
\v 10 Đừng ngủ với con gái của con trai các con hoặc với con gái của con gái các con. Đấy sẽ là sự xấu hổ của chính các con.
\v 11 Đừng ngủ với con gái của vợ của cha các con, cha các con đã sanh nó ra. Nàng là chị em của các con, và các con không được ngủ với nàng.
\s5
\v 12 Đừng ngủ với em gái của cha các con. Nàng là người thân gần với cha các con.
\v 13 Đừng ngủ với em gái của mẹ các con. Nàng là người thân gần với mẹ các con.
\v 14 Đừng bất kính với anh của cha các con bằng cách ngủ với vợ người. Đừng đền gần nàng vì mục đích đó; nàng là bác hay thím của các con.
\s5
\v 15 Đừng ngủ với con dâu của các con. Nàng là vợ của con trai các con; đừng ngủ với nàng.
\v 16 Đừng ngủ với vợ của anh các con; đừng bất kính người theo cách nầy.
\s5
\v 17 Đừng ngủ với một người nữ và con gái của người, hoặc con gái của con trai nàng hay con gái của con gái nàng. Chúng là bà con gần với nàng, và ngủ với chúng sẽ là điều ác.
\v 18 Các con không nên lấy em gái của vợ mình làm vợ hai và ngủ với nàng đang khi vợ thứ nhứt còn sống.
\s5
\v 19 Đừng ngủ với một người nữ trong khi nàng có kinh nguyệt. Nàng là không sạch trong thời kỳ ấy.
\v 20 Đừng ngủ với vợ kẻ lân cận của các con và tự mình bị ô uế với nàng theo cách nầy.
\s5
\v 21 Các con không nên dâng con cái mình qua lửa, để các con dâng chúng cho thần Mo-lóc, vì các con không nên báng bổ danh của Đức Chúa Trời các con. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 22 Đừng ngủ với người nam khác y như ngủ với một người nữ. Điều nầy là ác dục.
\v 23 Đừng ngủ với bất kỳ con thú nào mà làm ô uế mình với nó. Không một người nữ nào phải xem xét việc nằm ngủ với bất kỳ thú vật nào. Điều nầy là trụy lạc.
\s5
\v 24 Đừng tự làm ô uế mình dù là kỳ điều nào trong những cách thế nầy, vì trong hết thảy cách thức nầy các dân tộc đã bị ô uế, các dân mà Ta đã đuổi khỏi trước mặt các con.
\v 25 Xứ sẽ bị ô uế, vì vậy Ta đã trừng phạt tội lỗi của họ, và đất sẽ mửa dân cư của nó ra vậy.
\s5
\v 26 Vì lẽ đó, các con phải tuân giữ các điều răn và mạng lịnh của ta, và các con không nên làm theo bất kỳ việc nào trong các việc gớm ghiếc nầy, người Y-sơ-ra-ên sanh trong xứ và người ngoại sống giữa vòng các con cũng không nên làm như vậy.
\v 27 Vì đây là sự gian ác mà dân sự trong xứ đã phạm, những kẻ đã sống ở đây trước các con, và giờ đây đất đã bị ô uế.
\v 28 Vì vậy phải cẩn thận hầu cho đất cũng không mửa các con ra sau khi các con đã làm ô uế nó, y như nó đã mửa các dân đã sống ở đó trước các con.
\s5
\v 29 Hễ ai phạm những việc nào trong các việc gớm ghiếc nầy, những ai phạm các việc thể ấy sẽ bị truất khỏi vòng dân sự của họ.
\v 30 Vì lẽ đó các con phải giữ mạng lịnh Ta đừng làm theo các thông lệ gớm ghiếc mà họ đã làm ở đây trước các con, hầu cho các con không tự làm ô uế mình bởi chúng. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con'".
\s5
\c 19
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói với cả hội chúng Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Anh em phải nên thánh, vì Ta Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em là thánh.
\v 3 Ai nấy phải tôn kính cha mẹ mình, và anh em phải giữ những ngày Sa-bát của Ta. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\v 4 Đừng xây qua các hình tượng chẳng có giá trị chi, cũng đừng làm cho mình thần tượng nào bằng kim loại. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 5 Khi anh em dâng sinh tế của lễ tương giao lên cho Đức Giê-hô-va, anh em phải dâng sao cho được nhậm.
\v 6 Sinh tế đó phải được ăn cùng ngày anh em dâng nó, hoặc qua ngày hôm sau. Nếu chừa lại bất cứ điều gì qua ngày thứ ba, nó phải bị thiêu đi.
\v 7 Nếu để lại ăn đến ngày thứ ba, đó là điều gớm ghiếc. Nó chẳng được nhậm,
\v 8 nhưng hễ ai ăn nó phải mang lấy tội lỗi mình vì người đã làm ô uế những gì đã được dâng cho Đức Giê-hô-va. Người ấy phải bị truất khỏi dân sự mình.
\s5
\v 9 Khi anh em thu hoạch mùa màng trong đất mình, anh em không nên gặt hết mấy cái góc của đồng ruộng mình, anh em cũng không nên thâu hết sản vật thu hoạch của mình.
\v 10 Anh em chớ thâu từng trái nho từ vườn nho mình, cũng không thâu lấy những trái nho rụng trên đất trong vườn nho của anh em. Anh em phải chừa chúng lại cho người nghèo và cho người khách lạ. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 11 Đừng ăn cắp. Đừng nói dối. Đừng lừa đảo nhau.
\v 12 Đừng thề bằng danh ta cách dối trá mà báng bổ danh Đức Chúa Trời của anh em. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 13 Đừng hà hiếp kẻ lân cận hay cướp giựt người. Tiền công của tôi tớ làm mướn phải không ở lại với anh em cho tới sáng.
\v 14 Đừng rủa sã kẻ điếc hay đặt hòn đá vấp chơn trước mặt người mù. Thay vì thế, anh em phải kính sợ Đức Chúa Trời của anh em. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 15 Đừng làm cho sự xét đoán ra giả hình. Anh em không nên thiên vị với ai đó vì người ấy nghèo, và anh em không tỏ ra thiên vị với người nào vì người ấy là quan trọng. Thay vì thế, hãy xét đoán công bình cho kẻ lân cận của anh em.
\v 16 Đừng lòng vòng lan truyền chuyện giả dối giữa vòng dân sự của anh em, nhưng hãy tìm cách bảo vệ sinh mạng của kẻ lân cận mình. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 17 Ở trong lòng chớ thù ghét anh em mình. Anh em phải thành thật quở trách kẻ lân cận mình để không mắc tội vì cớ họ.
\v 18 Đừng nắm lấy sự báo thù hay cứ ôm giữ thù hằn nghịch cùng bất cứ ai trong dân sự mình, nhưng thay vì thế hãy yêu kẻ lân cận như mình. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Anh em phải giữ các mạng lịnh của Ta. Đừng tìm cách gây giống thú vật của mình với loại thú vật khác. Đừng trộn hai hột giống khác nhau khi gieo cấy đồng ruộng của anh em. Đừng mặc quần áo làm bằng hai loại vật liệu khác nhau.
\s5
\v 20 Hễ ai ngủ với nữ nô lệ đã được hứa cho người chồng, nhưng nàng chưa được chuộc hoặc chưa được tự do, họ phải bị phạt. Họ phải bị tử hình vì nàng chưa được tự do.
\v 21 Người nam phải đem sinh tế chuộc sự mắc lỗi dâng cho Đức Giê-hô-va ngay lối vào nơi nhóm lại — một con chiên đực làm của lễ chuộc sự mắc lỗi.
\v 22 Khi ấy, thầy tế lễ sẽ làm sự chuộc tội cho người với con chiên đực làm sinh tế chuộc sự mắc lỗi trước mặt Đức Giê-hô-va, vì tội mà người đã phạm. Khi ấy, tội mà người đã phạm sẽ được tha.
\s5
\v 23 Khi anh em vào trong xứ rồi trồng đủ loại cây ăn trái, khi ấy anh em phải xem trái chúng đốc ra là cấm không được ăn. Trái phải bị cấm cho anh em trong ba năm. Anh em không được ăn.
\v 24 Nhưng qua năm thứ tư hết thảy trái sẽ là thánh, một của lễ ngợi khen dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 25 Qua năm thứ năm anh em có thể ăn trái, hầu cho cây sẽ thêm hoa quả. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 26 Đừng ăn bất kỳ thịt nào với huyết vẫn còn trong đó. Đừng cầu hỏi tà linh về tương lai, và đừng tìm cách điều khiển người khác bằng các thứ quyền phép siêu nhiên.
\v 27 Đừng làm theo thói quen tà giáo như cạo mé tóc mình hay cắt bỏ khóe râu mình.
\v 28 Đừng cắt thân thể mình vì kẻ chết hoặc đặt các dấu xăm trên thân thể anh em. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 29 Đừng làm nhục con gái người bằng cách biến nó thành gái điếm, hoặc xứ sở sẽ sa vào vòng dâm loạn và xứ sẽ đầy sự gian ác.
\v 30 Anh em phải giữ những ngày Sa-bát Ta và tôn kính nơi thánh trong đền tạm Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 31 Đừng xây qua những kẻ trò chuyện với người chết hoặc với các tà linh. Đừng tìm kiếm chúng, hay chúng sẽ làm ô uế anh em. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 32 Anh em phải đứng dậy trước mặt người tóc bạc và tôn kính sự hiện diện của một người già cả. Anh em phải kính sợ Đức Chúa Trời của anh em. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 33 Nếu một khách lạ sống giữa vòng anh em trong đất của anh em, anh em đừng làm chi sai quấy với người.
\v 34 Người khách lạ nào sống với anh em anh em phải đối với họ giống như người Y-sơ-ra-ên bản xứ đang sống giữa vòng anh em, và anh em phải yêu thương người như mình, vì anh em là người ngoại ở trong xứ Ai-cập. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 35 Đừng gian lận khi cân, đo, đong, đếm
\v 36 Anh em phải dùng cái cân đúng, trọng lượng đúng, một ê-pha đúng, và một hin đúng (bình 5 lít của người Do thái). Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, là Đấng đem anh em ra khỏi xứ Ai-cập.
\v 37 Anh em phải vâng theo mọi mạng lịnh và mọi luật lệ của Ta, và làm theo chúng. Ta là Đức Giê-hô-va'".
\s5
\c 20
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên: 'Bấy kỳ ai giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên, hay bất kỳ người ngoại nào sống trong Y-sơ-ra-ên dâng bất kỳ con cái nào của mình cho thần Mo-lóc, chắc chắn phải bị tử hình. Dân sự trong xứ phải ném đá người đó.
\s5
\v 3 Ta cũng nghịch cùng người đó và sẽ truất người khỏi giữa dân sự người vì người đã dâng con mình cho thần Mo-lóc, làm ô uế nơi thánh Ta cùng báng bổ danh Ta.
\v 4 Nếu dân trong xứ nhắm mắt lại với người ấy khi người dân con cái mình cho thần Mo-lóc, nếu họ không xử từ người đó,
\v 5 thì chính Ta sẽ nghịch cùng người ấy và gia đình của người, và Ta sẽ truất người cùng mọi người nào hành dâm với người để thông dâm với thần Mo-lóc.
\s5
\v 6 Người nào xây qua những kẻ trao đổi với người chết, hay người nào trò chuyện với các tà linh mà thông dâm cùng chúng, Ta sẽ nghịch cùng người ấy; Ta sẽ truất người ấy ra khỏi dân sự người.
\v 7 Vì lẽ đó, hãy dâng mình cho Đức Giê-hô-va và phải nên thánh, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\s5
\v 8 Các con phải tuân giữ các mạng lịnh Ta và làm theo chúng. Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng các con cho chính mình Ta.
\v 9 Kẻ nào sả cha hay mẹ mình chắc chắn phải bị xử tử. Người dám rủa sả cha hay mẹ mình, vì vậy người phạm tội và đáng phải chết đi.
\s5
\v 10 Người nào phạm tội tà dâm với vợ của người khác, tức là, bất cứ ai phạm tội tà dâm với vợ của người lân cận — cả nam và nữ chắc chắn phải bị xử tử.
\v 11 Người nào nằm với vợ của cha mình ngủ với nàng đã làm xấu hổ cho cha ruột mình. Cả hai: con trai và vợ của cha nó chắcc chắn phải bị tử hình. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi.
\v 12 Nếu một người ngủ với con dâu mình, cả hai chắc chắn phải bị tử hình. Họ đã phạm một sự gớm ghiếc. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi.
\s5
\v 13 Nếu một người nam ngủ với người nam khác, như với người nữ, cả hai người đã làm một sự gớm ghiếc. Chắc chắn họ phải bị tử hình. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi.
\v 14 Nếu một người nam lấy một người nữ làm vợ và cũng lấy mẹ của nàng nữa, đây là sự gian ác. Họ phải bị thiêu đi, vả người nam đó cùng hai người nữ kia, hầu cho sẽ chẳng có sự gian ác giữa vòng các con.
\s5
\v 15 Nếu một người nam ngủ với một con vật, người ấy chắc chắn phải bị tử hình, và các con phải giết con thú kia đi.
\v 16 Nếu một người nữ đến gần bất kỳ con vật nào để ngủ với nó, các con phải giết người nữ ấy và con thú kia đi. Chắc chắn họ phải bị tử hình. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi.
\s5
\v 17 Nếu người nam ngủ với em gái mình, một là con gái của cha mình hay con gái của mẹ mình — nếu người ngủ với nàng và nàng với người, đây là một việc đáng xấu hổ. Họ phải bị truất khỏi sự hiện diện của dân sự họ, vì người đã ngủ với em gái mình. Người phải mang lấy tội lỗi của mình.
\v 18 Nếu người nam ngủ với một người nữ trong thời kỳ kinh nguyệt của người và đã ngủ với nàng, người ấy đã làm cho huyết nàng chảy ra, nguồn của huyết nàng. Cả hai: người nam và người nữ phải bị truất khỏi giữa vòng dân sự của họ.
\s5
\v 19 Các con chớ ngủ với em gái của mẹ mình, cũng không ngủ với em gái của cha mình, vì các con sẽ làm nhục cốt nhục của các con. Các con phải mang lấy chính tội lỗi của các con.
\v 20 Nếu một người ngủ với vợ của bác mình, người làm nhục bác mình. Họ phải mang lấy tội lỗi của chính họ và chết không con.
\v 21 Nếu một người nam lấy vợ của em mình, đây là sự ô uế vì người đã có những quan hệ vi phạm hôn nhân với em mình, và họ sẽ chết không con.
\s5
\v 22 Các con vì lẽ đó phải giữ mọi luật lệ và các mạng lịnh của Ta; các con phải vâng theo chúng hầu cho xứ mà Ta đã đem các con vào đó để sống sẽ không mửa các con ra.
\v 23 Các con đừng ăn ở theo thói tục của các dân trong xứ mà Ta đã đuổi khỏi trước mặt các con, vì chúng đã làm các việc nầy, và Ta gớm ghiếc chúng.
\s5
\v 24 Ta đã phán cùng các con: "Các con sẽ thừa hường đất đai của họ; Ta sẽ ban nó cho các con làm cơ nghiệp, một đất đượm sữa và mật. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con, là Đấng đã biệt riêng các con ra khỏi các dân khác.
\v 25 Các con vì lẽ đó phải phân biệt giữa loài vật thanh sạch và ô uế, và giữa loài chim ô uế và thanh sạch. Các con chớ làm ô uế mình với loại vật hay loài chim ô uế hay với bất kỳ tạo vật côn trùng nào trên đất, những thứ mà Ta đã phân biệt là ô uế đối với các con.
\s5
\v 26 Các con phải nên thánh, vì Ta, Đức Giê-hô-va, là thánh, và Ta đã biệt riêng các con đối với các dân khác, vì các con thuộc về Ta.
\s5
\v 27 Một người nam hay một người nữ nào trao đổi với người chết hay người nào trò chuyện với tà linh chắc chắn sẽ bị tử hình. Dân sự phải ném đá họ. Họ đã phạm tội và đáng phải chết đi'".
\s5
\c 21
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se: "Hãy nói với dòng thầy tế lễ, các con trai của A-rôn, và nói với họ: 'Không một người nào giữa vòng anh em sẽ làm cho mình ra ô uế vì kẻ chết kia giữa vòng dân sự người,
\v 2 trừ ra vì bà con thân thích — vì mẹ và cha mình, vì con trai và con gái mình, hay vì em mình
\v 3 hoặc em gái còn đồng trinh còn ở trong nhà mình và nó chưa có chồng. Vì nàng người có thể làm cho mình ra ô uế.
\s5
\v 4 Nhưng người chớ làm cho mình ra ô uế vì những người thân thích khác, như vậy là làm ô uế cho bản thân mình.
\v 5 Các thầy tế lễ chớ có cạo đầu hay cạo khóe râu, cũng chớ cắt thân thể mình.
\v 6 Họ phải biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời của họ, và chớ làm nhục danh Đức Chúa Trời của họ, vì các thầy tế lễ dâng các thứ của lễ cho Đức Chúa Trời bằng lửa, đồ ăn của Đức Chúa Trời họ. Vì lẽ đó, họ phải biệt riêng ra.
\s5
\v 7 Họ chớ lấy bất kỳ người nữ nào là gái điếm làm vợ và kẻ nào đã bị ô uế, và họ chớ lấy người nữ nào đã ly dị chồng nàng làm vợ, vì họ được biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời của họ.
\v 8 Các con phải dâng người ấy vì người dâng đồ ăn từ Đức Chúa Trời của các con. Người phải nên thánh trước mặt các con, vì Ta, Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng các con cho chính mình Ta, Ta cũng là thánh.
\v 9 Bất kỳ con gái của thầy tế lễ nào làm ô uế mình bằng cách trở thành gái điếm làm nhục cho cha mình. Nàng phải bị thiêu đi.
\s5
\v 10 Người nào là thầy tế lễ thượng phẩm giữa vòng các anh em người, trên đầu người có xức dầu đã đổ ra, và người nào dâng mình mặc bộ y phục thánh của thầy tế lễ thượng phẩm, chớ có để tóc buông thả hoặc xé áo mình.
\v 11 Người chớ đến chỗ có thi thể người chết và làm ô uế mình, thậm chí là cha hay mẹ mình.
\v 12 Thầy tế lễ thượng phẩm chớ có lìa khỏi khu vực nơi thánh trong đền tạm hoặc báng bổ nơi thánh của Đức Chúa Trời mình, vì người đã dâng mình làm thầy tế lễ thượng phẩm bằng cách xức dầu của Đức Chúa Trời mình. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 13 Thầy tế lễ thượng phẩm phải lấy người nữ đồng trinh làm vợ mình.
\v 14 Người chớ lấy góa phụ, người nữ đã ly dị, hoặc người nữ nào là gái điếm làm vợ. Người chớ lấy loại người nữ nào như thế nầy làm vợ. Người chỉ có thể lấy người nữ đồng trinh từ dân sự của mình.
\v 15 Người phải vâng theo các luật lệ nầy, làm vậy người không làm ô uế con cái mình giữa vòng dân sự người, vì Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng người cho chính mình Ta '".
\s5
\v 16 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 17 "Hãy nói với A-rôn và dặn người: 'Hễ ai trong dòng dõi của anh trải qua các đời có khuyết điểm trong cơ thể, người chớ tới gần để dâng đồ ăn của Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 18 Bất kỳ người nam nào có khuyết điểm trong thân thể chớ có tới gần Đức Giê-hô-va, tỉ như một người bị mù, một người què, một người sệp mũi hay tứ chi không đều,
\v 19 một người với một bàn tay hay chân bị què,
\v 20 người có bướu trên lưng hoặc còi cọc, hay một người với tật nơi mắt, hoặc với một căn, ghẻ chốc, có lác, hay bộ phận riêng bị thương tích.
\v 21 Không một người nào giữa vòng dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn có khuyết điểm trong thân có thể đến gần để dùng lửa dâng các của lễ lên cho Đức Giê-hô-va. Một người như vậy có khuyết điểm trong thân; người ấy chớ có đến gần để dâng đồ ăn của Đức Chúa Trời mình.
\s5
\v 22 Người có thể ăn đồ ăn của Đức Chúa Trời mình, dù là đồ chí thánh hay đồ thánh.
\v 23 Tuy nhiên, người chớ có bước vào phía trong bức màn hoặc đến gần bàn thờ, vì người có khuyết điểm trong cơ thể, hầu cho người không làm ô uế nơi thánh của Ta, vì Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng họ cho chính mình Ta '".
\v 24 Vậy, Môi-se nói các lời nầy với A-rôn, với các con trai người, và với cả dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 2 "Hãy nói với A-rôn và các con trai người, hảy bảo họ phải giữ kẻ đối với các vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên, dâng lên cho Ta. Họ không nên báng bổ danh thánh Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 3 Hãy nói với họ: 'Bất kỳ ai giữa vòng các dòng dõi anh em xuyên suốt bao thế hệ đều là ô uế khi họ đến gần các vật thánh mà dân Y-sơ-ra-ên dâng cho Đức Giê-hô-va, người đó phải bị truất khỏi trước mặt Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 4 Không một ai trong các dòng dõi của A-rôn, người nào có bệnh da bị tiêm nhiễm, hay một sự lây nhiễm lan từ thân thể người ấy, có thể ăn bất kỳ của lễ nào dâng cho Đức Giê-hô-va cho tới chừng nào người được sạch. Hễ ai đụng đến bất kỳ vật gì ô uế qua cái chạm với kẻ chết, hoặc bởi đụng đến một người bị xuất tinh,
\v 5 hoặc ai đụng đến bất kỳ loài côn trùng nào làm cho người phải ô uế, hay bất kỳ người nào làm cho người ra ô uế, dù là bất kỳ loại ô uế nào đi nữa —
\v 6 khi ấy thầy tế lễ nào đụng đến bất kỳ vật ô uế nào sẽ bị ô uế cho đến chiều tối. Người ấy không nên ăn bất kỳ vật thánh nào, trừ khi người ấy tắm thân thể mình trong nước.
\s5
\v 7 Khi mặt trời đã lặn rồi, thì người ấy sẽ được sạch. Sau khi mặt trời lặn, người ấy có thể ăn từ các vật thánh, vì đấy là đồ ăn của người.
\v 8 Người không nên ăn bất kỳ vật nào thấy đã chết hoặc bị thú hoang giết, bởi đó người sẽ làm ô uế mình. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 9 Thầy tế lễ phải làm theo huấn thị của Ta, hoặc họ sẽ mắc phải tội và có thể ngã chết vì đã báng bổ Ta, Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dâng họ cho chính mình Ta.
\s5
\v 10 Không một ai ngoài gia đình của thầy tế lễ, kể cả khách của thầy tế lễ hoặc tôi tớ thuê mướn của người, có thể ăn bất kỳ thứ gì là thánh.
\v 11 Nhưng nếu một thầy tế lễ mua bất kỳ nô lệ nào với chính tiền bạc của mình, kẻ nô lệ ấy có thể ăn từ những thứ biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va. Và các thành viên trong gia đình của thầy tế lễ cùng những nô lệ sanh trong nhà người, họ cũng có thể ăn với người từ các vật ấy.
\s5
\v 12 Nếu con gái của thầy tế lễ kết hôn với người nào không phải là thầy tế lễ, người ấy không thể ăn các thứ của dâng thánh nào cả.
\v 13 Nhưng nếu con gái của thầy tế lễ là một góa phụ, hay đã ly hôn, và nếu nàng không có con cái, và nếu nàng trở lại sống trong nhà cha của nàng như khi còn nhỏ, nàng có thể ăn từ đồ ăn của cha mình. Nhưng không một người nào không phải là gia đình thầy tế lễ có thể ăn từ đồ ăn của thầy tế lễ.
\s5
\v 14 Nếu một người ăn đồ ăn thánh mà không nhận biết nó, khi ấy người phải đền lại nó cho thầy tế lễ; người phải phụ thêm 1/5 cho vật ấy rồi trao trả nó lại cho thầy tế lễ.
\v 15 Dân Y-sơ-ra-ên không nên bất kính đối với những vật thánh mà họ đã giơ lên cao mà trình cho Đức Giê-hô-va,
\v 16 và khiến cho bản thân họ phải mang lấy tội lỗi đã làm cho họ phạm lỗi ăn lấy đồ vật thánh, vì Ta là Đức Giê-hô-va, là Đấng dâng họ cho chính mình Ta '".
\s5
\v 17 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 18 "Hãy nói với A-rôn cùng các con trai người, và với cả dân Y-sơ-ra-ên. Hãy nói với họ: 'Bất kỳ người Y-sơ-ra-ên nào, hay khách kiều ngụ trong Y-sơ-ra-ên, khi họ dâng của lễ — dù là để làm trọn sự khấn nguyện, hoặc của lễ lạc ý, hay họ dâng cho Đức Giê-hô-va một của lễ thiêu,
\v 19 nếu của lễ ấy được nhậm, họ phải dâng một con đực không vít từ bầy bò, bầy chiên, hay bầy dê.
\s5
\v 20 Nhưng anh em chớ dâng con nào có tì vít. Ta sẽ không nhậm nó vì ích cho anh em.
\v 21 Hễ ai dâng con sinh của lễ tương giao từ trong bầy hoặc bò hay chiên cho Đức Giê-hô-va để làm tròn lời thề, hoặc là của lễ lạc ý, nó phải không tì không vít thì mới được nhậm. Sẽ chẳng có tì vít chi nơi con thú.
\s5
\v 22 Anh em chớ dâng con thú nào bị mù, bị què, hoặc ghẻ chốc, hay bị lác. Anh em chớ dâng các thứ nầy cho Đức Giê-hô-va làm của lễ dùng lửa trên bàn thờ.
\v 23 Anh em dâng của lễ lạc ý một con bò hay một con chiên có giò dài hoặc ngắn quá, nhưng một của lễ như thế sẽ không được nhậm cho một lời thề.
\s5
\v 24 Chớ dâng cho Đức Giê-hô-va những con thú có hòn nang bị dập, bị rứt hay bị thiến. Đừng dâng các con thú nầy trong xứ anh em,
\v 25 và chớ chấp nhận chúng từ tay của người khách lạ làm đồ ăn trình cho Đức Chúa Trời, vì có những dấu vít nơi chúng. Ta sẽ không chấp nhận chúng vì ích của anh em.'"
\s5
\v 26 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 27 "Khi một con bò hay một con chiên hoặc một con dê ra đời, nó phải giữ bảy ngày với mẹ nó. Khi ấy từ ngày thứ tám trở đi, nó sẽ được nhậm làm con sinh cho của lễ dùng lửa dâng lên Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 28 Chớ giết bò cái hay chiên cái cùng với con nhỏ của nó, cả hai trong cùng một ngày.
\v 29 Khi anh em dâng của lễ cảm tạ cho Đức Giê-hô-va, anh em phải dâng nó theo cách có thể được nhậm.
\v 30 Nó phải được ăn trong cùng ngày mà nó phải làm con sinh tế. Anh em không được để lại thứ gì cho tới sáng hôm sau. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 31 Vì vậy anh em phải giữ các điều răn của Ta rồi làm theo chúng. Ta là Đức Giê-hô-va.
\v 32 Anh em chớ bất kỉnh với danh thánh của Ta. Ta phải được công nhận là thánh bởi dân Y-sơ-ra-ên. Ta là Đức Giê-hô-va là Đấng dâng anh em cho chính mình Ta,
\v 33 là Đấng đem anh em ra khỏi xứ Ai-cập, để làm Đức Chúa Trời của anh em. Ta là Đức Giê-hô-va".
\s5
\c 23
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: Những ngày lễ đã ấn định cho Đức Giê-hô-va, những ngày lễ các con phải công bố là những lần nhóm hiệp thánh, là những ngày lễ đều đặn.
\s5
\v 3 Các con phải làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát nghỉ hoàn toàn, một ngày nhóm hiệp thánh. Các con không nên làm việc vì đây là ngày Sa-bát cho Đức Giê-hô-va trong mọi chỗ mà các con sinh sống.
\s5
\v 4 Đây là những ngày lễ đã ấn định của Đức Giê-hô-va, những lần nhóm hiệp thánh mà các con phải công bố là những thời điểm đã ấn định:
\v 5 Trong tháng thứ nhứt, vào ngày mười bốn của tháng lúc chiều tối, là Lễ Vượt Qua của Đức Giê-hô-va.
\v 6 Vào ngày mười lăm của cùng tháng ấy là Lễ Bánh Không Men cho Đức Giê-hô-va. Trong bảy ngày các con phải ăn bánh không men.
\s5
\v 7 Vào ngày thứ nhứt, các con có một sự nhóm hiệp được dâng cho Đức Giê-hô-va, các con không nên làm công việc thường lệ.
\v 8 con phải dùng lửa dâng một của lễ cho Đức Giê-hô-va trong bảy ngày. Ngày thứ bảy là một sự nhóm hiệp được dâng cho Đức Giê-hô-va, trong đó các con không nên làm công việc thông thường.'"
\s5
\v 9 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 10 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Khi các con đã vào trong xứ mà Ta sẽ ban cho các con, và khi các con thu hoạch mùa màng của nó, khi ấy các con phải đem bó lúa đầu mùa dâng cho thầy tế lễ.
\v 11 Người sẽ đem bó lúa đến trước mặt Đức Giê-hô-va rồi trình nó cho Ngài, vì nó được nhậm vì ích của các con. Chính ngày sau lễ Sa-bát, thầy tế lễ sẽ giơ bó lúa lên và trình nó cho Ta.
\s5
\v 12 Nhằm ngày mà các con giơ bó lúa trình nó cho Ta, các con phải dâng một con chiên đực một tuổi không vít làm của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va.
\v 13 Của lễ chay phải là 2/10 ê-pha bột nhất hạng trộn với dầu, một con sinh dùng lửa dâng cho Đức Giê-hô-va, tạo ra mùi thơm ngạt ngào, rồi với lễ quán bằng ¼ hin rượu (hin=5 lít)...
\v 14 Các con không được ăn bánh, cũng không ăn hột lúa rang, cho tới cái ngày các con đem của lễ nầy dâng cho Đức Chúa Trời. Đây sẽ là một mạng lịnh thường trực trải bao các thế hệ dân sự của các con, trong từng nơi các con sinh sống.
\s5
\v 15 Các con phải tính từ ngày sau lễ Sa-bát ấy, từ ngày mà các con đem của lễ bó lúa giơ lên và trình dâng, bảy tuần lễ trọn, bảy ngày Sa-bát,
\v 16 cho đến ngày sau lễ Sa-bát thứ bảy. Nghĩa là, các con phải tính năm mươi ngày. Khi ấy các con phải dâng một của lễ chay mới cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 17 Các con phải đem ra khỏi nhà các con hai ổ bánh làm bằng 2/10 ê-pha. Chúng phải được làm từ bột nhất hạng và hấp với men; chúng sẽ là một của lễ từ bông trái đầu mùa sẽ được giơ lên và trình cho Đức Giê-hô-va.
\v 18 Các con phải trình với bánh bảy con chiên một tuổi không vít, một con bò đực tơ, và hai con chiên đực. Chúng sẽ là của lễ thiêu cho Đức Giê-hô-va, với của lễ chay và của lễ quán, một của lễ dùng lửa và tạo ra mùi thơm ngạt ngào cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 19 Các con phải dâng một con dê đực làm của lễ chuộc tội, và hai con chiên đực một tuổi làm con sinh, như của lễ tương giao.
\v 20 Thầy tế lễ phải dâng chúng lên trước mặt Đức Giê-hô-va, cùng với bánh của bông trái đầu mùa, và trình chúng cho Ngài như một của lễ với hai chiên con. Chúng sẽ là của lễ thánh cho Đức Giê-hô-va dâng cho thầy tế lễ.
\v 21 Các con phải thực hiện công bố ra vào chính ngày ấy. Sẽ có một sự nhóm hiệp thánh, và các con chớ có làm việc như thường lệ. Đây sẽ là mạng lịnh thường trực trải bao các thế hệ của dân sự các con ở những nơi mà các con sinh sống.
\s5
\v 22 Khi các con thu hoạch mùa màng trong xứ, các con chớ gặt cho hết các góc của đồng ruộng mình, và các con không nên mót lúa sót trong mùa vụ của mình. Các con phải chừa chúng lại cho kẻ nghèo và cho người khách lạ. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con'".
\s5
\v 23 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 24 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Vào tháng thứ bảy, ngày thứ nhứt của tháng ấy sẽ là ngày nghỉ trọng thể cho các con, một lễ kỷ niệm với tiếng kèn thổi, và một sự nhóm hiệp thánh.
\v 25 Các con chớ làm việc như thường lệ, và các con phải dùng lửa dâng một con sinh cho Đức Giê-hô-va'".
\s5
\v 26 Khi ấy, Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 27 "Giờ đây, ngày thứ mười của tháng thứ bảy nầy sẽ là Ngày Lễ Chuộc Tội. Đấy sẽ là một sự nhóm hiệp được dâng cho Đức Giê-hô-va, các con phải tự hạ mình xuống và lập một con sinh dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 28 Các con chớ có làm việc nào hết nhằm ngày ấy vì đây là Ngày Lễ Chuộc Tội, làm sự chuộc tội cho các con trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\v 29 Hễ ai không hạ mình xuống vào ngày ấy phải bị truất khỏi dân sự mình.
\s5
\v 30 Hễ ai làm bất kỳ công việc nào vào ngày ấy, Ta, Đức Giê-hô-va, sẽ hủy diệt người ấy khỏi giữa vòng dân sự người.
\v 31 Các con chớ làm công việc gì dù là loại nào trong ngày ấy. Điều nầy sẽ là một mạng lịnh thường trực trải bao thế hệ dân sự của các con ở những nơi mà các con sinh sống.
\v 32 Ngày nầy đối với các con phải là một ngày Sa-bát yên nghỉ trọng thể, và các con tự hạ mình xuống ngày thứ chín của tháng. Từ chiều nay đến chiều mai các con phải giữ ngày Sa-bát của các con."
\s5
\v 33 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 34 "Hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Vào ngày thứ mười lăm của tháng thứ bảy sẽ là Lễ Lều Tạm cho Đức Giê-hô-va. Lễ nầy sẽ kéo dài bảy ngày.
\s5
\v 35 Vào ngày thứ nhứt sẽ là một sự nhóm hiệp thánh. Các con chớ làm công việc thường lệ nào hết.
\v 36 Trong bảy ngày các con phải dùng lửa dâng một con sinh lên cho Đức Giê-hô-va. Đến ngày thứ tám phải có một sự nhóm hiệp thánh, và các con phải lập một con sinh dùng lửa dâng lên cho Đức Giê-hô-va. Đây là một sự nhóm hiệp trọng thể, và các con chớ làm một công việc thường lệ nào hết.
\s5
\v 37 Đây là những ngày lễ đã ấn định cho Đức Giê-hô-va, các con phải công bố là những sự nhóm hiệp thánh để dâng của lễ dùng lửa cho Đức Giê-hô-va, một của lễ thiêu và một của lễ chay, các của lễ và lễ quán, mỗi thứ của lễ vào đúng ngày của nó.
\v 38 Những ngày lễ nầy sẽ thêm vào với những ngày Sa-bát của Đức Giê-hô-va và các lễ vật của các con, mọi lời thề hứa, và các của lễ lạc ý mà các con dâng lên cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 39 Về Lễ Lều Tạm, vào ngày mười lăm của tháng thứ bảy, khi các con thâu lấy hoa quả trong xứ, các con phải giữ lễ nầy của Đức Giê-hô-va trong bảy ngày. Ngày thứ nhứt sẽ là ngày yên nghỉ trọng thể, và ngày thứ tám cũng sẽ là ngày yên nghỉ trọng thể.
\s5
\v 40 Vào ngày thứ nhứt các con phải lấy hoa quả tốt nhứt từ vườn cây, những nhánh cây chà là, và nhành cây rậm, và cây dương liễu, các con sẽ vui vẻ trước mặt Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con trong bảy ngày.
\v 41 Trong bảy ngày mỗi năm, các con phải kỷ niệm lễ nầy cho Đức Giê-hô-va. Đây sẽ là mạng lịnh thường trực trải bao thế hệ của các con ở những nơi mà các con sinh sống. Các con phải kỷ niệm lễ nầy vào tháng thứ bảy.
\s5
\v 42 Các con phải sống trong các túp lều nhỏ hẹp trong bảy ngày. Hết thảy những người Y-sơ-ra-ên sanh trong xứ phải sống trong những túp lều nhỏ bảy ngày,
\v 43 hầu cho dòng dõi của các con, hết thế hệ nầy đến thế hệ khác, có thể học biết Ta đã khiến cho dân Y-sơ-ra-ên sống trong những túp lều như vậy khi Ta dẫn họ ra khỏi xứ Ai-cập. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con'".
\v 44 Bằng cách nầy, Môi-se đã công bố cho dân Y-sơ-ra-ên những kỳ lễ đã ấn định cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 2 "Hãy truyền cho dân Y-sơ-ra-ên phải đem cho con dầu sạch ép từ trái ô-li-ve đặng thắp đèn, để họ giữ cho đèn cháy luôn.
\s5
\v 3 Ngoài bức màn trước hòm giao ước trong nơi nhóm lại, A-rôn phải liên tục, từ chiều tối cho đến sáng mai, giữ cho đèn cháy luôn trước mặt Đức Giê-hô-va. Đây sẽ là mạng lịnh thường trực trải bao thế hệ dân sự của con.
\v 4 Thầy tế lễ thượng phẩm phải luôn giữ cho đèn cháy ở trước mặt Đức Giê-hô-va, các ngọn đèn trên chân đèn làm bằng vàng ròng.
\s5
\v 5 Con phải lấy bột nhất hạng và mười hai ổ bánh với bột ấy. Mỗi ổ bánh cân nặng 2/10 ê-pha.
\v 6 Khi ấy con phải sắp thành hai hàng, sáu ổ một hàng, trên bàn bằng vàng ròng trước mặt Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 7 Con phải rắc hương liệu dọc theo mỗi hàng bánh như một biểu tượng nói tới bánh. Thức hương nầy sẽ đem thiêu cho Đức Giê-hô-va.
\v 8 Mỗi ngày sa-bát thầy tế lễ thượng phẩm phải đều đặn sắp bánh ra trước mặt Đức Giê-hô-va vì ích của dân Y-sơ-ra-ên, là một dấu hiệu nói tới giao ước đời đời.
\v 9 Của lễ nầy sẽ dành cho A-rôn cùng các con trai người. Họ phải ăn bánh ấy trong một nơi thánh, vì bánh ấy đã được dâng hoàn toàn cho Ngài, một khi nó được lấy từ các của dâng dùng lửa trình cho Đức Giê-hô-va".
\s5
\v 10 Giờ đây có một việc xảy ra, con trai của một người nữ Y-sơ-ra-ên, cha nó là một người Ai-cập, đi giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên. Con trai nầy của một người nữ Y-sơ-ra-ên đã đánh nhau nghịch cùng một người nam Y-sơ-ra-ên trong trại quân.
\v 11 Con trai của người nữ Y-sơ-ra-ên đã xúc phạm danh của Đức Giê-hô-va và đã rủa sả Đức Chúa Trời, vì vậy dân sự đem nó đến với Môi-se. Tên của mẹ nó là Sê-lô-mít, con gái của Điệp-ri, xuất thân từ chi phái Đan.
\v 12 Họ giữ nó trong nhà ngục cho đến khi chính Đức Giê-hô-va sẽ tuyên bố ý muốn Ngài đối với họ.
\s5
\v 13 Khi ấy Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như sau:
\v 14 "Hãy đưa kẻ đã rủa sả Đức Chúa Trời ra ngoài trại quân. Hết thảy những ai nghe người nói phải đặt tay trên đầu người, và rồi cả hội chúng phải ném đá người.
\s5
\v 15 Con phải giải thích cho dân sự Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Hễ ai rủa sả Đức Chúa Trời mình phải mang lấy tội mình.
\v 16 Người nào xúc phạm danh của Đức Giê-hô-va chắc chắn phải bị tử hình. Cả hội chúng chắc chắn phải ném đá người, dù người là dân ngoại hoặc dân Y-sơ-ra-ên sanh trong xứ. Nếu ai xúc phạm đến danh của Đức Giê-hô-va, người ấy phải bị tử hình.
\s5
\v 17 Và người nào giết chết một người khác chắc chắn phải bị tử hình.
\v 18 Người nào giết thú vật của ai đó phải chịu đền bù, mạng đền mạng.
\s5
\v 19 Nếu một người gây thương tích cho kẻ lân cận mình, phải thực hiện cho người y như người đã làm cho kẻ lân cận mình:
\v 20 gãy xương đền gãy xương, mắt đền mắt, răng đền răng. Khi người gây thương tích cho một người khác, thì cũng phải làm y như thế cho người.
\v 21 Hễ ai giết một con thú phải đền bù lại con thú, và hễ ai giết một người thì phải bị tử hình.
\s5
\v 22 Con phải xử cùng một luật ấy cho cả hai: khách lạ và người Y-sơ-ra-ên sanh trong xứ, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của con'".
\v 23 Vậy Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên, và dân sự đem người kia ra ngoài trại quân, là kẻ đã rủa sả Đức Giê-hô-va. Họ dùng đá ném người. Dân Y-sơ-ra-ên đã thực thi mạng lịnh của Đức Giê-hô-va truyền cho Môi-se.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se trên Núi Si-na-i như sau:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như vầy: 'Khi anh em vào trong xứ mà Ta ban cho anh em, khi ấy đất phải được giữ một lễ Sa-bát cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Anh em phải gieo ruộng mình trong sáu năm, và trong sáu năm anh em phải hớt nho mình và thu hoạch thổ sản.
\v 4 Nhưng qua năm thứ bảy, một lễ Sa-bát yên nghỉ trọng thể cho xứ phải được tuân giữ, một lễ Sa-bát cho Đức Giê-hô-va. Anh em chớ có gieo trong ruộng hay hớt nho mình.
\s5
\v 5 Anh em chớ có thâu lấy vụ mùa bất cứ gì mọc trong ruộng đó, và anh em chớ có thu hoạch vụ mùa nho trên những cây nho không hớt sửa đó. Đây sẽ là một năm trọng thể dành cho xứ.
\v 6 Bất cứ thứ chi mà đất không được dọn mọc lên trong năm Sa-bát sẽ là đồ ăn cho anh em. Anh em, tôi trai và tớ gái của anh em, tôi tớ thuê mướn của anh em và người ngoại nào sống với anh em có thể mót lấy đồ ăn.
\v 7 Và bầy gia súc của anh em và loài thú hoang cũng có thể ăn bất cứ gì mà đất sản xuất ra.
\s5
\v 8 Anh em phải tính bảy lần Sa-bát của các năm, nghĩa là, bảy lần bảy năm, hầu cho sẽ có bảy ngày Sa-bát của các năm, tổng cộng là bốn mươi chín năm.
\v 9 Khi ấy anh em phải thổi kèn tiếng vang khắp nơi nhằm ngày thứ mười của tháng thứ bảy. Vào ngày Lễ Chuộc Tội, anh em phải thổi kèn khắp cả xứ.
\s5
\v 10 Anh em phải dâng năm thứ năm mươi cho Đức Giê-hô-va và công bố tự do khắp cả xứ cho hết thảy cư dân nó. Ấy sẽ là năm hân hỉ cho anh em, trong đó cơ nghiệp và nô lệ phải được trả lại cho các gia đình họ.
\s5
\v 11 Năm thứ năm mươi sẽ là năm hân hỉ cho anh em. Anh em không được gieo hay lo liệu cho cả một mùa gặt. Hãy ăn bất cứ gì tự nó mọc lên, và thâu lấy những trái nho lọc lên trên các cây nho không được dọn.
\v 12 Vì đây là năm hân hỉ, năm nầy sẽ là thánh cho anh em. Anh em phải ăn sản vật tự nó mọc lên ngoài đồng ruộng.
\s5
\v 13 Anh em phải trả lại tài sản của chính cho ai đó trong năm hân hỉ nầy.
\v 14 Nếu anh em bán bất kỳ sở đất nào cho người lân cận hoặc mua bất cứ sở đất nào từ người lân cận của anh em, anh em chớ lừa đảo hay sai trái với nhau.
\s5
\v 15 Nếu anh em mua đất từ kẻ lân cận mình, hãy xem số năm và mùa màng có thể thu hoạch cho đến năm hân hỉ kế đó. Kẻ lân cận của anh em bán sở đất đó cũng phải xem xét như thế.
\v 16 Một số nhiều năm cho đến năm hân hỉ kế tiếp sẽ làm tăng giá trị của sở đất, và một số năm ít hơn cho đến năm hân hỉ kế tiếp sẽ làm giảm giá trị, vì số mùa gặt đất sản xuất cho người chủ mới có liên quan đến số năm trước năm hân hỉ kế tiếp.
\v 17 Anh em chớ có lừa đảo hay sai trái với nhau; thay vì thế, anh em phải tôn kính Đức Chúa Trời của anh em, vì Ta là Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 18 Vì lẽ đó anh em phải vâng theo các mạng lịnh của Ta, giữ luật lệ Ta, và làm theo chúng. Khi ấy anh em sẽ sống trong xứ thật an toàn.
\v 19 Đất sẽ sanh ra sản vật của nó, và anh em sẽ ăn no nê và sống an ninh ở đó.
\s5
\v 20 Anh em sẽ nói: "Chúng tôi sẽ ăn gì trong năm thứ bảy? Hãy xem, chúng ta không thể gieo hay thu hoạch sản vật của chúng ta".
\v 21 Ta sẽ giáng ơn phước của Ta trên anh em vào năm thứ sáu, và đất sẽ sanh sản vật đủ cho ba năm.
\v 22 Anh em sẽ gieo trong năm thứ tám và tiếp tục ăn từ sản vật của năm trước và đồ ăn còn trong kho. Cho tới vụ mùa của năm thứ chín đem về, anh em có thể ăn từ các khoản dự trữ trong năm trước.
\s5
\v 23 Đất không được đem bán cho người chủ thường trực mới, vì đất là của Ta. Anh em hết thảy là khách lạ và kiều ngụ tạm thời trên đất Ta.
\v 24 Anh em phải tuân giữ quyền chuộc lại trong cả xứ anh em sinh sống; anh em phải để cho đất phải được trả lại cho gia đình mà anh em đã mua đất từ đó.
\v 25 Nếu đồng bào Y-sơ-ra-ên của anh em bị nghèo đi rồi vì lý do đó đã bán tài sản của mình, khi ấy người bà con gần nhất có thể đến và mua lại tài sản mà người kia bán cho anh em.
\s5
\v 26 Nếu một người không có người thân nào để chuộc lấy tài sản của người, nhưng nếu người phất lên và có khả năng chuộc lại nó,
\v 27 khi ấy người có thể tính số năm kể từ khi đất đem bán và bù lại cân đối cho người đã mua đất đó. Khi ấy, người có thể hồi lại với chính tài sản của mình.
\v 28 Nhưng nếu người không thể chuộc đất lại cho mình, khi ấy đất mà người đã bán sẽ ở trong tay người có quyền làm chủ đã mua nó cho đến năm hân hỉ. Đến năm hân hỉ, đất sẽ trở về với người đã bán nó, và người chủ nguyên thủy sẽ trở về với tài sản của mình.
\s5
\v 29 Nếu một người bán ngôi nhà trong thành phố có tường bao quanh, khi ấy người có thể mua nó lại trong vòng một năm sau khi đã bán nó đi. Trong một năm trọn, người ấy sẽ có quyền chuộc.
\v 30 Nếu ngôi nhà chưa được chuộc trong một năm trọn, thì ngôi nhà trong thành có tường vây quanh sẽ trở thành tài sản thường trực của người đứng mua nó, trải khắp các thế hệ của dòng dõi người. Ngôi nhà ấy không được hồi lại vào năm hân hỉ.
\s5
\v 31 Nhưng nhà cửa trong làng mạc không có tường vây quanh chúng sẽ là tài sản gắn với đồng ruộng của xứ. Chúng sẽ được mua lại, và chúng phải được hồi lại trong năm hân hỉ.
\v 32 Tuy nhiên, nhà cửa do người Lê-vi làm chủ trong các thành của họ có thể được chuộc vào bất kỳ thời điểm nào.
\s5
\v 33 Nếu một người Lê-vi không chuộc lại ngôi nhà mà người đã bán đi, khi ấy ngôi nhà bị bán đi trong thành phố mà nó tọa lạc phải được hồi lại trong năm hân hỉ, vì ngôi nhà ở trong các thành của người Lê-vi là tài sản của họ giữa vòng dân sự Y-sơ-ra-ên.
\v 34 Nhưng đồng ruộng ở chung quanh các thành của họ không được bán đi vì chúng là tài sản thường trực của người Lê-vi.
\s5
\v 35 Nếu đồng bào của anh em bị nghèo đi, người nầy không còn tự chu cấp cho mình nữa, khi ấy anh em phải giúp đỡ cho người y như anh em sẽ giúp cho một người lạ hoặc bất kỳ ai khác đang sinh sống giữa vòng anh em.
\v 36 Đừng buộc tiền lời hay kiếm lợi từ người ấy cho dù là thế nào đi nữa, nhưng hãy tôn kính Đức Chúa Trời của anh em hầu cho anh em kia có thể cứ sống với anh em.
\v 37 Anh em chớ cho người vay tiền mà kiếm lời, cũng không bán cho người đồ ăn để kiếm lãi.
\v 38 Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em, là Đấng đã đem anh em ra khỏi xứ Ai-cập, để Ta ban cho anh em xứ Ca-na-an, và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của anh em.
\s5
\v 39 Nếu đồng bào của anh em bị nghèo đi rồi bán mình cho anh em, anh em chớ có bắt người lao động như một nô lệ.
\v 40 Hãy đối đãi với người như một tôi tớ được thuê mướn. Người phải sống giống như kẻ sống tạm thời với anh em vậy. Người sẽ phục vụ với anh em cho đến năm hân hỉ.
\v 41 Khi ấy người sẽ rời khỏi anh em, người và con cái người với người, và người sẽ trở lại với gia đình của chính mình và với tài sản của cha người.
\s5
\v 42 Vì họ là tôi tớ của Ta mà Ta đã mua ra khỏi xứ Ai-cập. Họ sẽ không bị bán đi làm nô lệ.
\v 43 Anh em chớ cai trị trên họ cách khắc nghiệt, nhưng anh em phải tôn kính Đức Chúa Trời của anh em.
\v 44 Giống như với nô lệ nam và nữ của anh em, anh em có thể nhận lấy họ từ các dân sống ở chung quanh anh em, anh em có thể mua nô lệ từ nơi họ.
\s5
\v 45 Anh em cũng có thể mua nô lệ từ những người ngoại nào đang sống giữa vòng anh em, nghĩa là, từ gia đình của những người đang sống với anh em, con cái đã sanh ra trong xứ của anh em. Họ có thể trở thành tài sản của anh em.
\v 46 Anh em có thể cung cấp những nô lệ như thế làm cơ nghiệp cho con cái đến sau anh em, để giữ lấy làm tài sản. Đối với họ, anh em có thể mua làm nô lệ cho anh em, nhưng anh em chớ có cai trị khắc nghiệt trên các anh em mình giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 47 Nếu một người ngoại hay ai đó đang sống tạm với anh em trở nên giàu có, và nếu một đồng bào Y-sơ-ra-ên bị nghèo đi rồi bán mình cho người ngoại, hay cho ai đó trong gia đình của người ngoại,
\v 48 sau khi đồng bào Y-sơ-ra-ên của anh em bị bán đi, người ấy có thể được mua lại. Ai đó trong gia đình có thể chuộc lại người.
\s5
\v 49 Có thể là bác, hoặc con trai của bác, đứng ra chuộc người, hoặc bất cứ ai là bà con gần với gia đình của người. Hay, nếu người trở nên giàu, người có thể chuộc lấy bản thân mình.
\v 50 Người phải mặc cả với kẻ đã mua mình; họ phải tính những năm từ năm người bán mình đi với người mua cho đến năm hân hỉ. Cái giá chuộc người phải được tính toán trong việc giữ giá phải trả cho người tôi tớ thuê mướn, vì số năm người phải tiếp tục làm việc cho kẻ đã mua mình.
\s5
\v 51 Nếu vẫn còn nhiều năm cho đến năm hân hỉ, người phải mua lại y như cái giá chuộc mình một số tiền cân xứng với số năm đó.
\v 52 Nếu chỉ có một vài năm thì đến năm hân hỉ, thế thì người phải mặc cả với kẻ mua mình nghĩ đến số năm còn lại trước năm hân hỉ, và người phải trả giá chuộc mình đúng theo với số năm.
\s5
\v 53 Người phải bị đối xử như một kẻ làm thuê hết năm nầy qua năm khác. Anh em phải biết chắc người không bị đối xử khắc nghiệt.
\v 54 Nếu người không được chuộc với các phương tiện nầy, khi ấy người phải phục vụ cho đến năm hân hỉ, người và con cái người với người.
\v 55 Đối với Ta, dân Y-sơ-ra-ên là hàng tôi tớ. Họ là tôi tớ của Ta mà Ta đã đem ra khỏi xứ Ai-cập. Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của anh em'".
\s5
\c 26
\p
\v 1 "Các con chớ làm hình tượng nào, các con cũng đừng làm hình chạm hay trụ đá thiêng, và các con chớ đặt hình chạm nào bằng đá trong xứ các con để các con phải sấp mình xuống, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con.
\v 2 Các con phải giữ những ngày Sa-bát của Ta và tôn kính nơi thánh Ta. Ta là Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 3 Nếu các con bước theo luật lệ Ta và giữ theo các điều răn Ta và vâng theo chúng,
\v 4 khi ấy Ta sẽ ban cho các con mưa phải thì; đất sẽ sanh sản vật nó, và cây cối ngoài đồng sẽ kết quả nó.
\s5
\v 5 Sân đạp lúa của các con sẽ liên tục mùa hái nho, và mùa hái nho sẽ kéo dài đến mùa gieo cấy. Các con sẽ ăn bánh no nê và sống an ninh ở nơi các con làm nhà cửa ở trong xứ.
\v 6 Ta sẽ ban bình an ở trong xứ; các con sẽ nằm nghỉ mà chẳng có gì làm cho sợ hãi. Ta sẽ diệt loài thú dữ khỏi đất, và gươm sẽ không đưa qua xứ của các con.
\s5
\v 7 Các con sẽ đuổi theo các kẻ thù, và chúng sẽ bởi gươm sa ngã trước mặt các con.
\v 8 Năm người trong các con sẽ đuổi cả trăm người, và cả trăm người trong các con sẽ đuổi cả chục ngàn người; những kẻ thù của các con sẽ bị gươm sa ngã trước mặt các con.
\s5
\v 9 Ta sẽ gia ơn cho các con và khiến cho các con được kết quả và thêm nhiều; Ta sẽ lập giao ước với các con.
\v 10 Các con sẽ ăn đồ ăn được chất chứa lâu dài. Các con sẽ đem đồ ăn được chứa ra trong khi các con sẽ cần chỗ cho hoa lợi mới.
\s5
\v 11 Ta sẽ đặt đền tạm của ta giữa vòng các con, và Ta sẽ không ghê gớm các con đâu.
\v 12 Ta sẽ bước đi giữa các con và làm Đức Chúa Trời của các con, còn các con sẽ làm dân Ta.
\v 13 Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các con, là Đấng đem các con ra khỏi xứ Ai-cập, để các con sẽ không làm nô lệ cho họ. Ta đã bẻ gãy ách của các con và khiến các con bước đi ngay thẳng.
\s5
\v 14 Nhưng nếu các con không chịu nghe theo Ta, và sẽ không vâng theo mọi điều răn nầy,
\v 15 và nếu các con chống lại mọi sự dạy dỗ của Ta và gớm ghiếc luật pháp Ta, hầu cho các con không vâng theo mọi mạng lịnh Ta, nhưng phá vỡ giao ước Ta —
\s5
\v 16 — nếu các con làm theo những điều nầy, thì Ta sẽ làm điều nầy cho các con: Ta sẽ giáng kinh khủng trên các con, các chứng và rét sẽ hủy diệt hai con mắt và đời sống các con sẽ cùng kiệt. Các con sẽ gieo các thứ giống mà chẳng được gì, vì kẻ thù của các con sẽ ăn sản vật đó.
\v 17 Ta sẽ nghịch cùng các con, và các con sẽ bị kẻ thù quản lý. Những kẻ ghét các con sẽ cai trị trên các con, và các con sẽ chạy trốn, thậm chí khi chẳng có ai đuổi theo.
\s5
\v 18 Nếu các con không nghe theo các mạng lịnh Ta, khi ấy Ta sẽ đuổi các con bảy lần thật nghiệt ngã vì cớ tội lỗi của các con.
\v 19 Ta sẽ phá vỡ sự kiêu ngạo nơi sức lực của các con. Ta sẽ làm cho bầu trời trên các con giống như sắt và đất của các con giống như đồng vậy.
\v 20 Sức lực của các con sẽ được sử dụng mà chẳng được gì, vì đất của các con sẽ chẳng sanh ra hoa lợi nó, và cây cối của các con trong xứ sẽ không kết quả được.
\s5
\v 21 Nếu các con ăn ở nghịch cùng Ta và sẽ chẳng chịu nghe theo Ta, Ta sẽ giáng thêm bảy lần nữa trên các con, với sự cân xứng theo tội lỗi của các con.
\v 22 Ta sẽ sai các loài thú nguy hiểm nghịch cùng các con, chúng sẽ cướp đi con cái của các con, hủy diệt gia súc của các con, và khiến cho các con còn ít người. Vì vậy, mọi con đường của các con sẽ ra hoang vắng.
\s5
\v 23 Nếu cứ như thế nầy mà các con vẫn không chấp nhận sự dạy dỗ của Ta mà cứ tiếp tục ăn ở nghịch cùng Ta,
\v 24 khi ấy Ta cũng sẽ nghịch cùng các con. Chính Ta sẽ giáng cho các con với bảy lần hơn vì cớ tội lỗi của các con.
\s5
\v 25 Ta sẽ khiến gươm giáo đến trên các con sẽ thực thi sự báo thù về việc phá vỡ giao ước Ta. Các con sẽ tụ tập lại bên trong các thành, và Ta sẽ sai một chứng giữa vòng các con ở đó, và khi ấy các con sẽ bị đánh bại bởi sức mạnh kẻ thù của các con.
\v 26 Khi Ta cắt đứt nguồn thực phẩm của các con, mười người đàn bà sẽ nướng bánh trên một cái lò, và họ sẽ phân phối bánh của các con theo sự đong đo cân đếm. Các con sẽ ăn mà không được no.
\s5
\v 27 Nếu các con không nghe theo Ta bất chấp mọi việc nầy, song cứ tiếp tục ăn ở nghịch cùng Ta,
\v 28 khi ấy Ta sẽ cư xử nghịch cùng các con trong giận dữ, và Ta sẽ sửa phạt các con thêm bảy lần hơn vì cớ tội lỗi của các con.
\s5
\v 29 Các con sẽ ăn thịt của con trai mình; các con sẽ ăn thịt của con gái mình.
\v 30 Ta sẽ hủy diệt đền miếu của các con, phá đổ các bàn thờ xông hương, và quăng thi thể các hình tượng của các con chồng trên các thây khác, và đích thân Ta sẽ ghê gớm các con.
\s5
\v 31 Ta sẽ biến thành của các con thành những đống đổ nát cùng hủy diệt những nơi thánh của các con. Ta sẽ không đẹp lòng với mùi hương các thứ của lễ của các con.
\v 32 Ta sẽ tàn phá xứ. Kẻ thù của các con, chúng sẽ đến sống ở đó và chúng sẽ sửng sốt khi nhìn thấy sự tàn phá.
\v 33 Ta sẽ tan rải các con giữa vòng các nước, và Ta sẽ rút gươm ra đuổi theo các con. Xứ các con sẽ bị bỏ, và các thành các con sẽ bị hư nát.
\s5
\v 34 Khi ấy xứ sẽ hưởng lấy những ngày Sa-bát của nó bao lâu nó bị bỏ hoang và các con sống trong đất của kẻ thù. Trong suốt thời gian ấy, đất sẽ yên nghỉ và hưởng những ngày Sa-bát của nó.
\v 35 Bao lâu xứ bị bỏ, nó sẽ được yên nghỉ, đấy sẽ là sự yên nghỉ mà nó không có với những ngày Sa-bát của các con, khi các con sống trong xứ.
\v 36 Giống như những kẻ trong các con bị bỏ lại trong đất của kẻ thù, Ta sẽ sai sợ hãi vào trong tấm lòng của các con hầu cho âm thanh của một cái lá bị thổi trong gió sẽ làm cho các con phải giật mình, và các con sẽ trốn chạy khác nào chạy trốn khỏi lưỡi gươm. Các con sẽ sa ngã, ngay cả khi chẳng có đuổi theo.
\s5
\v 37 Các con sẽ vấp ngã chồng trên nhau y như các con chạy tránh lưỡi gươm, mặc dù chẳng có ai đuổi theo. Các con sẽ chẳng có sức lực để đứng trước mặt kẻ thù của các con.
\v 38 Các con sẽ hư mất giữa vòng các dân, và xứ sở kẻ thù các con bản thân nó sẽ ăn nuốt các con.
\v 39 Người nào bị bỏ lại giữa vòng các con sẽ bị hao mòn trong tội lỗi của họ, ở đó trong đất của kẻ thù các con, và vì cớ tội lỗi của tổ phụ của họ, họ cũng sẽ hao mòn đi.
\s5
\v 40 Tuy nhiên, nếu họ xưng ra mọi tội lỗi của họ và tội lỗi của tổ phụ họ, và sự phản bội của họ bởi đó họ sống bất trung đối với Ta, và cách ăn ở của họ cũng nghịch cùng Ta —
\v 41 là những điều khiến Ta phải xây nghịch cùng họ rồi phó họ vào trong đất của kẻ thù họ — nếu tấm lòng chưa chịu cắt bì của họ biết hạ mình xuống, và nếu họ chấp nhận sự sửa phạt vì tội lỗi của họ,
\v 42 khi ấy Ta sẽ nhớ tới giao ước của Ta với Giacốp, giao ước của Ta với Y-sác, và giao ước của Ta với Ápraham; Ta cũng sẽ nhớ đến xứ.
\s5
\v 43 Xứ sẽ bị bỏ bởi họ, vậy xứ sẽ được thỏa với những ngày Sa-bát của nó trong khi nó bị bỏ mà không có họ. Họ sẽ phải trả giá án phạt vì tội lỗi của họ bởi vì bàn thân họ đã chối bỏ huấn thị và ghê gớm luật pháp của Ta.
\s5
\v 44 Tuy nhiên bất chấp mọi sự nầy, khi họ sống trong đất của kẻ thù, Ta sẽ không chối bỏ họ, Ta cũng sẽ không ghê gớm họ đến nỗi hủy diệt họ hoàn toàn và chẳng bội giao ước Ta đã lập với họ, vì Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của họ.
\v 45 Nhưng vì cớ họ, Ta sẽ nhớ đến giao ước của Ta với các tổ phụ họ, là những kẻ Ta đem ra khỏi xứ Ai-cập ở trước mặt các dân, hầu cho Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ. Ta là Đức Giê-hô-va".
\s5
\v 46 Đây là các điều răn, mạng lịnh, và luật lệ mà Đức Giê-hô-va đã lập giữa chính mình Ngài và dân Y-sơ-ra-ên tại Núi Si-na-i qua Môi-se.
\s5
\c 27
\p
\v 1 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se như vầy:
\v 2 "Hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên như sau: 'Khi một người đưa ra lời thề đặc biệt đòi người phải sử dụng một giá chuẩn về một người mà người ấy dâng cho Đức Giê-hô-va, hãy sử dụng các giá trị sau đây.
\s5
\v 3 Giá chuẩn của anh em dành cho một người nam từ hai mươi đến sáu mươi tuổi phải là năm mươi siếc-lơ bạc, theo siếc-lơ của nơi thánh.
\v 4 Vì một người nữ với cùng độ tuổi đó giá chuẩn của anh em phải là ba mươi siếc-lơ.
\s5
\v 5 Từ năm tuổi đến hai mươi tuổi, giá chuẩn của anh em cho một người nam phải là hai mươi siếc-lơ, và cho người nữ mười siếc-lơ.
\v 6 Từ một tháng tuổi cho đến năm tuổi giá chuẩn của anh em dành cho một người nam phải là năm siếc-lơ bạc, và cho một người nữ ba siếc-lơ bạc.
\s5
\v 7 Từ sáu mươi tuổi trở lên cho một người nam giá chuẩn của anh em phải là mười lăm siếc-lơ, và cho người nữ mười siếc-lơ.
\v 8 Nhưng nếu người ta đưa ra lời thề không thể nộp theo giá chuẩn, khi ấy người đó phải đến trình diện với thầy tế lễ, và thầy tế lễ sẽ tùy theo phương thế người mà định giá.
\s5
\v 9 Nếu ai đó muốn dâng một con thú cho Đức Giê-hô-va, và nếu Đức Giê-hô-va chấp nhận nó, khi ấy con thú đó sẽ được dâng cho Ngài.
\v 10 Người ấy không được đổi hay thế một con thú như vậy, một con thú tốt để lấy một con thú xấu hay con xấu để lấy con tốt. Nếu người thay hay thế con nầy để lấy con kia, khi ấy cả hai: con nầy hay con kia đều là thánh.
\s5
\v 11 Tuy nhiên, nếu con thú mà người đó thể dâng cho Đức Giê-hô-va kỳ thực là không sạch, vì thế Đức Giê-hô-va sẽ không chấp nhận nó, khi ấy người đó phải dâng con thú cho thầy tế lễ.
\v 12 Thầy tế lễ sẽ định giá nó, bằng giá chợ của con thú. Hễ giá nào mà thầy tế lễ định cho con thú, đó sẽ là giá của nó.
\v 13 Còn nếu người chủ muốn chuộc nó, khi ấy một phần năm giá của nó phải được định thêm vào với giá chuộc nó.
\s5
\v 14 Khi một người muốn dâng ngôi nhà của mình biệt riêng ra cho Đức Giê-hô-va, khi ấy thầy tế lễ sẽ định giá nó. Bất kỳ giá nào thầy tế lễ định, đấy sẽ là giá của nó.
\v 15 Nhưng nếu người chủ dâng ngôi nhà đó rồi sau đó muốn chuộc lại, khi ấy một phần năm giá của nó phải được thêm vào cùng với giá chuộc nó, và khi ấy ngôi nhà sẽ thuộc về người trở lại.
\s5
\v 16 Nếu một người muốn dâng cho Đức Giê-hô-va một số đất đai của mình, khi ấy phần định giá của nó sẽ được thực hiện trong việc tuân giữ với lượng hột giống cần để gieo ra trên đó. Một ô-me (=10 ê-pha) lúa sẽ được định với năm mươi siếc-lơ bạc.
\s5
\v 17 Nếu người dâng sở ruộng mình trong năm hân hỉ, giá định vẫn giữ nguyên.
\v 18 Nhưng nếu người dâng sở ruộng mình sau năm hân hỉ, khi ấy thầy tế lễ phải tính giá của sở ruộng đó bằng số năm còn lại cho đến năm hân hỉ kế tiếp, và giá định phải giảm lại.
\s5
\v 19 Nếu người nào dâng sở ruộng muốn chuộc nó lại, khi ấy người phải phụ thêm một phần năm giá định, và sở ruộng thuộc về người trở lại.
\v 20 Nếu người không chuộc lại sở ruộng đó, hay nếu người bán sở ruộng cho người khác, nó không thể được chuộc nữa.
\v 21 Thay vì thế, sở ruộng, khi nó được phóng thích vào năm hân hỉ, sẽ trở thành món quà thánh dâng cho Đức Giê-hô-va, giống như sở ruộng đã được dâng hoàn toàn cho Đức Giê-hô-va. Sở ruộng ấy sẽ thuộc về thầy tế lễ.
\s5
\v 22 Nếu một người dâng cho Đức Giê-hô-va một sở ruộng mà người đã mua, nhưng sở ruộng đó không phải là phần đất của gia đình người,
\v 23 khi ấy thầy tế lễ sẽ tính giá định cho tới năm hân hỉ, và người ấy phải nộp giá của nó nhằm vào ngày là quà thánh dâng cho Đức Giê-hô-va.
\s5
\v 24 Trong năm hân hỉ, sở ruộng phải trở lại với người đã đứng mua nó, với người chủ đất.
\v 25 Mọi giá định phải được đặt ra bởi giá của siếc-lơ ở nơi thánh. Hai mươi ghê-ra (tiền của người Hy-bá-lai) phải tương đương với một siếc-lơ.
\s5
\v 26 Nhưng con đầu lòng giữa vòng các loài thú thuộc về Đức Giê-hô-va rồi và chẳng có người nào dám dâng nó — dù là bò hay chiên — vì nó thuộc về Đức Giê-hô-va.
\v 27 Nếu nó là con thú ô uế, khi ấy người chủ có thể mua nó lại với giá đã định, và thêm một phần năm theo giá đó. Nếu con thú không được chuộc, khi ấy nó có thể được đem bán với giá đề ra.
\s5
\v 28 Tuy nhiên, không thứ chi một người dâng cho Đức Giê-hô-va từ điều chi người có, dù là con người hay con vật, hoặc đất của gia đình mình, có thể được đem bán hay chuộc lại. Mọi thứ đã dâng đều là thánh cho Đức Giê-hô-va.
\v 29 Không một giá chuộc nào được nộp cho người nào bị biệt riêng ra để chịu hủy diệt. Người ấy phải bị tử hình.
\s5
\v 30 Mọi của dâng một phần mười trong xứ, dù là lúa mọc trong xứ hay hoa quả từ cây cối, đều thuộc về Đức Giê-hô-va. Của dâng ấy là thánh cho Đức Giê-hô-va.
\v 31 Nếu một người chuộc lại bất kỳ phần mười nào của mình, người ấy phải cộng thêm một phần năm giá của nó.
\s5
\v 32 Cũng như mọi phần mười của bầy bò hay bầy chiên, con nào đi ngang dưới cây gậy của người chăn, là phần mười phải đem dâng cho Đức Giê-hô-va.
\v 33 Người chăn không được tìm con tốt hơn hay con thú xấu hơn, và người không được thế con nầy mà dâng con khác. Nếu người thay đổi nó, khi ấy cả hai, con đổi và con bị đổi sẽ là thánh. Nó không thể được chuộc lại'".
\s5
\v 34 Đây là mạng lịnh mà Đức Giê-hô-va đã ban ra tại Núi Si-na-i cho Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên.