vi_udb/45-ACT.usfm

1865 lines
242 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id ACT
\ide UTF-8
\h CÔNG VỤ CÁC SỨ ĐỒ
\toc1 CÔNG VỤ CÁC SỨ ĐỒ
\toc2 CÔNG VỤ CÁC SỨ ĐỒ
\toc3 act
\mt CÔNG VỤ CÁC SỨ ĐỒ
\s5
\c 1
\p
\v 1 Ngài Thê-ô-phi-lơ quý mến, Trong sách thứ nhất viết cho ngài, tôi đã kể lại nhiều việc Chúa Giê-xu đã làm và dạy
\v 2 cho đến ngày Đức Chúa Trời đem Ngài về trời. Trước khi về trời, Ngài đã dùng quyền năng của Đức Thánh Linh tỏ bày cho các sứ đồ những việc Ngài muốn họ biết.
\v 3 Sau khi chịu khổ nạn và chịu chết trên cây thập hình, Ngài đã sống lại. Trong bốn mươi ngày sau đó, Ngài thường hiện ra nên các sứ đồ đã nhiều lần trông thấy Ngài. Bằng nhiều cách, Ngài đã chứng minh cho họ thấy Ngài đã sống lại. Ngài cho họ biết cách Đức Chúa Trời sẽ trị vì trên đời sống những người ở trong vương quốc Ngài.
\s5
\v 4 Một lần nọ, khi đang ở với họ, Ngài bảo họ: “Đừng rời khỏi thành Giê-ru-sa-lem. Nhưng hãy đợi trong thành cho đến khi Cha sai Thánh Linh Ngài đến với anh em, như Ngài đã hứa, và Thầy đã cho anh em biết điều đó rồi.
\v 5 Giăng làm báp-têm cho anh em bằng nước, nhưng trong mấy ngày nữa Đức Chúa Trời sẽ làm báp-têm cho anh em bằng Đức Thánh Linh.”
\s5
\v 6 Một ngày kia, khi các sứ đồ gặp Chúa Giê-xu, họ hỏi Ngài: “Thưa Chúa, có phải bây giờ Ngài sẽ làm vua Y-sơ-ra-ên không? ”
\v 7 Ngài đáp: Anh em không cần biết thời kỳ hay ngày giờ việc ấy sẽ xảy ra. Một mình Cha Ta đã quyết định khi nào việc đó xảy ra.
\v 8 Nhưng Đức Thánh Linh sẽ khiến anh em mạnh mẽ khi Ngài giáng trên anh em. Lúc đó, anh em sẽ nói cho mọi người biết về Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong các vùng Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, và khắp thế giới.”
\s5
\v 9 Sau khi nói xong, Ngài được đem lên trời, và một đám mây che khuất Ngài khiến họ không thấy Ngài nữa.
\v 10 Trong khi các sứ đồ vẫn còn nhìn chăm chăm lên trời khi Ngài được cất lên thì bất ngờ có hai người mặc áo trắng đứng cạnh họ. Đó là các thiên sứ.
\v 11 Một thiên sứ nói: “Hỡi người Ga-li-lê, các ông không cần phải đứng đây nhìn lên trời như vậy nữa! Một ngày nào đó, chính Giê-xu này, là Đấng mà Đức Chúa Trời đã đem lên trời khỏi giữa các ông, sẽ trở lại thế gian. Ngài sẽ trở lại y như cách mà các ông vừa thấy Ngài lên trời vậy.”
\s5
\v 12 Khi hai thiên sứ đã rời đi, các sứ đồ từ núi Ô-li-ve trở về Giê-ru-sa-lem, vốn chỉ cách đó một quãng đường ngắn.
\v 13 Sau khi vào thành phố, họ lên một phòng trên lầu, là nơi họ ở. Những người có mặt ở đó gồm Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, Anh-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-my, Ma-thi-ơ, Gia-cơ khác con của A-phê, Si-môn Xê-lốt, và Giu-đa con của một người cũng có tên Gia-cơ.
\v 14 Tất cả các sứ đồ bắt đầu cầu nguyện liên tục. Cùng cầu nguyện với họ còn có những phụ nữ đã từng theo Chúa Giê-xu, bà Ma-ri, mẹ Chúa, và các em trai của Ngài.
\s5
\v 15 Trong những ngày này, Phi-e-rơ đứng lên giữa các anh em tín hữu của mình. Có khoảng môn đồ của Chúa Giê-xu ở đó. Ông nói:
\v 16 “Thưa anh em, từ lâu vua Đa-vít đã viết về tên Giu-đa, các lời này phải được ứng nghiệm, và chúng đã ứng nghiệm vì Đức Thánh Linh đã cho Đa-vít biết phải viết những gì.
\s5
\v 17 Mặc dầu Giu-đa là một sứ đồ như chúng ta, nhưng hắn đã dẫn đường cho những kẻ đã bắt Chúa Giê-xu và giết Ngài đi. ”
\v 18 Tên này đã kiếm được tiền nhờ làm điều ác ấy. Bằng số tiền này, hắn đã mua một miếng ruộng. Rồi ở đó, hắn té nhào xuống đất, thân xác vỡ toạc ra, và ruột gan đổ hết ra ngoài.
\v 19 Mọi người sống tại Giê-ru-sa-lem đều nghe biết việc ấy, nên họ gọi ruộng đó theo tiếng A-ram là A-ken-đa-ma, nghĩa là “Ruộng Huyết, ” vì nơi đó có người chết.”
\s5
\v 20 Phi-e-rơ nói thêm: “Tôi thấy những gì xảy đến cho Giu-đa giống như điều tác giả Thi Thiên đã viết Nguyện dòng dõi hắn bị tuyệt tự; nguyện dòng dõi ấy chẳng còn lại một người nào. Và dường như đây cũng là những lời mà Đa-vít viết về Giu-đa: Hãy để người khác tiếp quản công tác lãnh đạo của hắn.
\s5
\v 21 “Vậy, các sứ đồ chúng ta cần phải chọn một người thay thế Giu-đa. Đó phải là người đã ở với chúng ta trong suốt thời gian Chúa Giê-xu còn ở với chúng ta.
\v 22 Tức là, từ khi Giăng Báp-tít làm báp-têm cho Chúa Giê-xu cho đến ngày Ngài lìa chúng ta về trời. Người thay thế Giu-đa phải là người đã thấy Chúa Giê-xu sống lại sau khi Ngài chịu chết. ”
\v 23 Vậy các sứ đồ cùng các tín hữu khác nêu tên hai người. Một người là Giô-sép Ba-sa-ba, còn có tên là Giúc-tu, còn người kia là Ma-thia.
\s5
\v 24-25 Rồi họ cầu nguyện: “Lạy Chúa Giê-xu, Giu-đa không còn là sứ đồ nữa. Hắn đã phạm tội và đi đến nơi xứng đáng với hắn. Ngài biết mọi người nghĩ gì trong lòng, cho nên, xin cho chúng con biết Ngài đã chọn ai trong hai người này để thế chỗ của Giu-đa. ”
\v 26 Rồi họ rút thăm để chọn giữa hai người được đề cử; thăm trúng Ma-thia, và ông trở thành sứ đồ cùng với mười một sứ đồ kia.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Vào ngày dân Do Thái kỷ niệm lễ Ngũ tuần, tất cả các tín hữu đang nhóm lại tại một nơi ở Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Bỗng nhiên, họ nghe một tiếng động từ trên trời phát ra giống như tiếng gió mạnh. Trong cả căn nhà nơi họ đang ngồi, mọi người đều nghe tiếng động đó.
\v 3 Rồi họ thấy cái gì đó trông giống như những ngọn lửa. Những ngọn lửa này tách rời ra, và một trong số đó đáp đậu trên đầu mỗi tín hữu.
\v 4 Rồi tất cả các tín hữu đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh, bắt đầu nói các thứ tiếng khác nhau, theo cách Đức Thánh Linh khiến cho từng người nói được.
\s5
\v 5 Lúc ấy, có nhiều người Do Thái đang lưu ngụ tại Giê-ru-sa-lem để kỷ niệm Lễ Ngũ Tuần. Họ là những người Do Thái luôn thờ phượng Đức Chúa Trời và đến từ nhiều nước khác nhau.
\v 6 Khi nghe thấy tiếng động giống như tiếng gió ấy, rất nhiều người trong số họ cùng đến chỗ các tín hữu đang ở. Đám đông kinh ngạc vì mỗi người nghe một trong các tín hữu đang nói thứ tiếng riêng của mình.
\v 7 Họ vô cùng ngạc nhiên, họ hỏi nhau: “Tất cả những người đang nói này đều là dân Ga-li-lê, nhưng sao họ lại biết nói thứ tiếng của chúng ta?
\s5
\v 8 Vậy mà tất cả chúng ta lại nghe họ nói thứ tiếng mẹ đẻ mà chúng ta đã học từ lúc mới sinh.
\v 9 Một số người trong chúng ta đến từ các vùng Bạt-thê, Mê-đi và Ê-lam; số khác đến từ các vùng Mê-sô-bô-ta-mi, Giu-đê, Cáp-ba-đốc, Bông, và A-si.
\v 10 Có một số người đến từ Phi-ri-gi, Bam-phi-ly, Ai Cập, và các vùng thuộc Li-by gần thành Sy-ren. Trong chúng ta còn có những người khác từ Rô-ma đến thăm Giê-ru-sa-lem.
\v 11 Họ bao gồm cả những người Do Thái bản địa lẫn những người thuộc dân ngoại tin vào những điều mà người Do Thái chúng ta tin. Và trong chúng ta còn có những người khác đến từ đảo Cơ-rết và vùng A-ra-bi. Vậy, làm thế nào mà những người này lại đang nói về những việc lớn mà Đức Chúa Trời đã làm bằng các thứ tiếng của chúng ta?”
\s5
\v 12 Họ rất ngạc nhiên và không biết phải nghĩ thế nào về việc đang xảy ra. Vậy, họ hỏi nhau: “Chuyện này có nghĩa gì? ”
\v 13 Nhưng có mấy kẻ trong bọn họ chế giễu những gì mình chứng kiến. Họ nói: “Những người này ăn nói như vậy vì họ uống quá nhiều rượu mới!”
\s5
\v 14 Vì vậy, Phi-e-rơ đứng lên cùng với mười một sứ đồ và lớn tiếng nói với đám đông dân chúng rằng: “Thưa anh em, là dân Giu-đê và những anh em khác đang lưu trú tại Giê-ru-sa-lem, xin nghe tôi nói, rồi tôi sẽ giải thích cho anh em biết chuyện đang xảy ra!
\v 15 Một số người trong anh em nghĩ chúng tôi say rượu, nhưng không phải vậy. Lúc này chỉ mới chín giờ sáng, và người dân ở đây không bao giờ say sưa vào giờ này trong ngày!
\s5
\v 16 Thay vào đó, điều xảy ra cho chúng tôi là việc kỳ lạ mà tiên tri Giô-ên đã nói đến từ xưa. Ông viết: Đức Chúa Trời phán:
\v 17 Trong những ngày cuối cùng, Ta sẽ ban Thánh Linh của Ta cho mọi người, con trai, con gái của các ngươi sẽ nói cho mọi người các sứ điệp của Ta, Ta sẽ ban khải tượng cho các thanh niên và chiêm bao cho người già cả.
\s5
\v 18 Trong những ngày đó, Ta sẽ ban Thánh Linh cho các đầy tớ Ta, để họ có thể rao truyền sứ điệp của Ta cho mọi người.
\v 19 Ta sẽ khiến những việc kỳ lạ xảy ra trên bầu trời và thực hiện các phép lạ dưới đất, để báo trước những việc quan trọng và kinh ngạc sẽ xảy ra. Ở dưới đất, khắp nơi sẽ có máu, lửa, và khói.
\s5
\v 20 Trên trời, mọi người sẽ thấy dường như mặt trời thì tối đen và mặt trăng dường như có màu đỏ. Những việc đó sẽ xảy ra trước khi Ta, là Chúa và Đức Chúa Trời, đến đoán xét mọi người.
\v 21 Và Ta sẽ cứu tất cả những ai kêu cầu Ta cứu giúp. ’”
\s5
\v 22 Phi-e-rơ nói tiếp: “Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên của tôi, xin hãy nghe tôi! Khi Chúa Giê-xu người Na-xa-rét sống ở giữa anh em, Đức Chúa Trời đã chứng minh cho anh em thấy rằng Ngài đã sai Ngài ấy bằng cách khiến Ngài ấy làm nhiều phép lạ chứng tỏ mình đến từ Đức Chúa Trời. Chính anh em biết rằng đây là sự thật.
\v 23 Dù biết như vậy, nhưng anh em đã giao nộp con người Giê-xu này vào tay các kẻ thù của Ngài. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã hoạch định trước việc đó, và Ngài biết rõ về việc này. Rồi anh em giục những kẻ không vâng giữ luật pháp Đức Chúa Trời giết chết Chúa Giê-xu bằng cách đóng đinh Ngài vào cây thập hình.
\v 24 Ngài đã chết, nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại bởi vì Ngài không thể chết luôn. Chính Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Giê-xu sống lại.”
\s5
\v 25 “Từ xưa, vua Đa-vít đã viết lời Đấng Mê-si-a đã phán, rằng: Ôi Chúa là Đức Chúa Trời, Con biết Ngài sẽ luôn nghe Con. Ngài ở bên phải Con, nên Con sẽ không sợ những người muốn hãm hại Con.
\v 26 Vì cớ đó, lòng Con hân hoan và vui mừng; dù một ngày kia Con sẽ chết, nhưng Con biết rằng Ngài sẽ luôn giúp đỡ Con.
\s5
\v 27 Ngài sẽ không để Con ở mãi trong nơi của người chết. Ngài thậm chí sẽ không để thân xác Con bị mục rữa, vì Con hết lòng với Ngài và luôn vâng lời Ngài.
\v 28 Ngài đã chỉ cho Con biết cách để sống lại. Ngài sẽ khiến Con vô cùng hạnh phúc vì Ngài sẽ mãi mãi ở cùng Con.”
\s5
\v 29 Phi-e-rơ nói tiếp: “Thưa đồng bào Do Thái của tôi, tôi chắc rằng tổ phụ chúng ta là vua Đa-vít đã chết, và người ta đã an táng ông. Nơi họ chôn xác ông ngày nay vẫn còn đó.
\v 30 Vua Đa-vít là một nhà tiên tri, và ông biết Đức Chúa Trời đã hứa với ông rằng một người thuộc dòng dõi ông sẽ làm vua.
\v 31 Từ xưa, Đa-vít đã biết điều Đức Chúa Trời sẽ làm. Ông nói rằng Đức Chúa Trời sẽ khiến Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a sống lại sau khi Ngài chết. Đức Chúa Trời sẽ không để Ngài ở luôn trong hầm mộ, và không để cho thân xác Ngài mục rữa.”
\s5
\v 32 “Sau khi con người Giê-xu này chết, Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại. Tất cả chúng tôi đây là những môn đệ của Ngài đều biết việc này vì chúng tôi đã thấy Ngài.
\v 33 Đức Chúa Trời đã đặc biệt tôn quý Chúa Giê-xu bằng cách đặt Ngài ngồi bên phải để đồng trị với mình, là Cha Ngài. Ngài đã ban Đức Thánh Linh cho chúng tôi, và đó là điều mà ngày hôm nay anh em đang thấy và nghe.
\s5
\v 34 Chúng ta biết rằng Đa-vít không nói về mình, vì Đa-vít không lên trời như Chúa Giê-xu đã làm. Hơn nữa, chính Đa-vít đã nói điều này về Chúa Giê-xu, là Đấng Mê-si-a: Chúa là Đức Chúa Trời phán với Chúa tôi là Đấng Mê-si-a: Hãy ở đây bên phải Ta mà cai trị,
\v 35 trong lúc Ta đánh bại hoàn toàn các kẻ thù của Con. ’”
\v 36 Để kết thúc, Phi-e-rơ nói rằng: “Vì vậy, tôi muốn anh em cùng với tất cả những người Y-sơ-ra-ên khác biết rằng Đức Chúa Trời đã lập Chúa Giê-xu làm Chúa và Đấng Mê-si-a, tức là Chúa Giê-xu mà anh em đã đóng đinh vào cây thập hình rồi giết đi.”
\s5
\v 37 Khi dân chúng nghe lời Phi-e-rơ và các sứ đồ kia nói thì họ biết mình đã làm điều sai trái. Dân chúng bèn hỏi: “Chúng tôi phải làm gì đây? ”
\v 38 Phi-e-rơ đáp: Mỗi người trong anh em phải từ bỏ hành vi tội lỗi của mình. Nếu bây giờ anh em tin Chúa Giê-xu thì chúng tôi sẽ làm báp-têm cho anh em. Đức Chúa Trời sẽ tha tội cho anh em, và Ngài sẽ ban Thánh Linh Ngài cho anh em.
\v 39 Đức Chúa Trời đã hứa làm điều này cho anh em, con cái anh em và cho tất cả những người khác là những người tin nơi Chúa Giê-xu, kể cả những người sống rất xa nơi này. Chúa là Đức Chúa Trời chúng ta sẽ ban Thánh Linh Ngài cho tất cả những ai được Ngài kêu gọi trở nên con cái Ngài!”
\s5
\v 40 Phi-e-rơ còn nói với họ nhiều điều khác nữa và ông nói một cách mạnh mẽ. Ông bảo họ: “Hãy xin Đức Chúa Trời cứu mình để khi Ngài hình phạt những kẻ ác đã khước từ Chúa Giê-xu, Ngài sẽ không hình phạt anh em! ”
\v 41 Vậy những người tin nơi sứ điệp của Phi-e-rơ được nhận báp-têm. Trong ngày đó, có khoảng ba ngàn người trong số ấy gia nhập vào cộng đồng các tín hữu.
\v 42 Họ tiếp tục vâng giữ lời dạy của các sứ đồ. Họ thường xuyên gặp gỡ các tín hữu khác và mỗi ngày họ dùng bữa, cầu nguyện cùng nhau.
\s5
\v 43 Tất cả mọi người ở Giê-ru-sa-lem đều rất kính trọng và tôn quý Đức Chúa Trời vì các sứ đồ làm nhiều thứ phép lạ.
\v 44 Hết thảy những ai tin Chúa Giê-xu đều có cùng một niềm tin và thường xuyên nhóm lại với nhau. Họ cũng tiếp tục chia sẻ cho nhau mọi thứ mình có.
\v 45 Thỉnh thoảng, một vài người trong số họ bán đất và một số tài sản khác của mình để giúp đỡ tiền bạc cho những người khác, tùy theo nhu cầu, trong vòng họ.
\s5
\v 46 Mỗi ngày họ tiếp tục nhóm lại với nhau trong khu vực đền thờ. Họ dùng bữa cùng nhau từ nhà này sang nhà khác, họ rất vui mừng khi làm vậy và chia sẻ cho nhau những gì mình có.
\v 47 Trong khi nhóm lại, họ cứ ngợi khen Đức Chúa Trời, và tất cả những người khác tại Giê-ru-sa-lem đều tôn trọng họ. Khi những việc ấy đang diễn ra, Chúa Giê-xu khiến cho số người được cứu khỏi sự hình phạt vì cớ tội lỗi mình gia tăng mỗi ngày.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Một ngày nọ, Phi-e-rơ và Giăng đang đi đến sân đền thờ. Lúc đó là ba giờ chiều, là giờ người ta cầu nguyện ở đó.
\v 2 Có một người bị què từ lúc mới sinh. Anh đang ngồi ngoài cổng gọi là Cổng Đẹp, ngay lối vào khu vực đền thờ. Người ta khiêng anh đến đó mỗi ngày để anh xin những người ra vào sân đền thờ bố thí cho mình.
\v 3 Khi Phi-e-rơ và Giăng sắp sửa vào sân đền thì anh xin họ bố thí.
\s5
\v 4 Phi-e-rơ và Giăng nhìn thẳng vào anh, rồi Phi-e-rơ nói với anh: “Hãy nhìn chúng tôi đây! ”
\v 5 Anh nhìn chăm chăm vào họ, trông mong hai người sẽ cho anh ít tiền.
\v 6 Nhưng Phi-e-rơ nói với anh: “Tôi chẳng có tiền bạc đâu, nhưng tôi sẽ làm cho anh điều tôi có thể làm. Nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-xu người Na-xa-rét, anh được chữa lành. Hãy đứng dậy và bước đi!”
\s5
\v 7 Rồi Phi-e-rơ nắm tay phải của anh và đỡ anh đứng lên. Lúc đó, bàn chân và mắt cá của anh trở nên mạnh mẽ.
\v 8 Anh nhảy lên và bắt đầu bước đi! Rồi anh vào khuôn viên đền thờ cùng với Phi-e-rơ và Giăng, vừa đi vừa nhảy nhót ca ngợi Đức Chúa Trời!
\s5
\v 9 Mọi người trong đền thờ đều nhìn thấy anh đang vừa bước đi vừa ca ngợi Đức Chúa Trời.
\v 10 Họ nhận ra anh chính là người lâu nay vẫn ngồi tại Cổng Đẹp ở sân đền thờ xin người ta bố thí! Vì vậy, tất cả mọi người ở đó đều vô cùng kinh ngạc về việc đã xảy đến cho anh.
\s5
\v 11 Vì anh cứ đi theo Phi-e-rơ và Giăng nên mọi người đều ngạc nhiên đến nỗi họ không biết phải nghĩ ngợi thế nào! Vì thế họ chạy đến chỗ ba người trong sân đền, là nơi được gọi là Hành Lang Sa-lô-môn.
\v 12 Khi Phi-e-rơ nhìn thấy những người này, ông nói với họ: “Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên, anh em không nên ngạc nhiên về việc đã xảy đến cho người này! Vì sao anh em lại nhìn chúng tôi như thể tự chúng tôi có quyền khiến cho anh ta đi được?
\s5
\v 13 Vậy, tôi sẽ cho anh em biết thực sự chuyện gì đang xảy ra. Cha ông chúng ta, trong đó có Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp đều thờ phượng Đức Chúa Trời. Và giờ đây Đức Chúa Trời đã tôn cao Chúa Giê-xu. Những người lãnh đạo của anh em đã nộp Chúa Giê-xu cho quan tổng đốc Phi-lát để lính của ông ta tử hình Ngài. Anh em là những người đã khước từ Chúa Giê-xu trước mặt Phi-lát, khi Phi-lát quyết định nên phóng thích Ngài.
\v 14 Dầu Chúa Giê-xu là Đấng Mê-si-a mà chính Đức Chúa Trời đã ban cho Y-sơ-ra-ên, là Đấng công chính, nhưng anh chị em đã xin phóng thích một kẻ sát nhân thế cho Ngài!
\s5
\v 15 Đức Chúa Trời kể anh em là những người đã giết chết Chúa Giê-xu, Đấng ban cho người ta sự sống đời đời. Nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại. Chúng tôi đã gặp Chúa Giê-xu nhiều lần sau khi Ngài sống lại.
\v 16 Chính là nhờ anh này tin nơi Chúa Giê-xu nên anh đã được chữa lành và có thể bước đi trước mặt tất cả anh em.”
\s5
\v 17 “Bây giờ, thưa đồng bào của tôi, tôi biết anh em và những người lãnh đạo của anh em đã giết Chúa Giê-xu vì anh em không biết Ngài là Đấng Mê-si-a.
\v 18 Tuy nhiên, từ lâu Đức Chúa Trời đã tiên báo rằng người ta sẽ giết chết Chúa Giê-xu. Đức Chúa Trời đã truyền cho tất cả các nhà tiên tri viết ra những gì mà người ta sẽ làm cho Đấng Mê-si-a. Họ đã viết rằng Đấng Mê-si-a, là Đấng Đức Chúa Trời sai phái, sẽ chịu khổ nạn và chịu chết.
\s5
\v 19 Vậy, hãy từ bỏ đời sống tội lỗi của mình và cầu xin Đức Chúa Trời giúp anh em làm điều đẹp ý Ngài, để Ngài hoàn toàn tha thứ tội lỗi cho anh em, và để Ngài thêm sức cho anh em.
\v 20 Nếu anh em làm như vậy thì sẽ đến lúc anh em biết rằng Chúa là Đức Chúa Trời đang giúp đỡ anh em. Và một ngày nào đó Ngài sẽ sai Đấng Mê-si-a trở lại thế gian, là Đấng mà Ngài đã ban cho anh em, tức là Chúa Giê-xu.
\s5
\v 21 Chúa Giê-xu chắc chắn sẽ ở trên trời cho đến khi Đức Chúa Trời làm mới lại mọi vật mà Ngài đã dựng nên. Từ rất lâu Đức Chúa Trời đã hứa như vậy, và Ngài đã chọn các tiên tri thánh để báo trước việc này cho mọi người.
\v 22 Chẳng hạn, tiên tri Môi-se đã nói về Đấng Mê-si-a rằng: Chúa là Đức Chúa Trời của anh em sẽ sai một đấng tiên tri giống như tôi từ giữa anh em. Anh em phải nghe theo mọi điều Đấng ấy nói với anh em.
\v 23 Những ai không nghe và không vâng lời Đấng ấy sẽ không thuộc về dân sự của Đức Chúa Trời nữa, và Ngài sẽ hủy diệt họ. ’”
\s5
\v 24 Phi-e-rơ nói tiếp: “Tất cả các tiên tri đã nói về những việc sẽ xảy ra trong những ngày này. Các nhà tiên tri ấy, bao gồm Sa-mu-ên và tất cả các tiên tri khác sau người, cũng đã nói về những sự kiện này trước khi chúng xảy ra.
\v 25 Khi Đức Chúa Trời hứa chắc rằng Ngài sẽ ban phước cho tổ phụ chúng ta, thì chắc chắn Ngài cũng hứa ban phước cho anh em. Ngài đã nói với Áp-ra-ham về Đấng Mê-si-a rằng: “Ta sẽ ban phước cho mọi dân tộc trên đất vì cớ những gì mà hậu tự con sẽ làm. ’”
\v 26 Phi-e-rơ kết luận: “Cho nên, khi Đức Chúa Trời sai Chúa Giê-xu đến thế gian để phục vụ Ngài trong vai trò Đấng Mê-si-a, thì trước hết Ngài sai Đấng ấy đến với anh em là người Y-sơ-ra-ên để ban phước cho anh em, để ngăn anh em làm những việc gian ác.”
\s5
\c 4
\p
\v 1 Trong lúc đó, tại sân đền thờ có một số thầy tế lễ. Ở đó còn có viên sĩ quan chịu trách nhiệm bảo vệ đền thờ, cùng một số thành viên của phái Sa-đu-sê. Tất cả những người này đến chỗ Phi-e-rơ và Giăng trong khi hai người đang nói với dân chúng.
\v 2 Những người này rất tức giận vì hai sứ đồ đang dạy dỗ dân chúng về Chúa Giê-xu. Họ dạy dân chúng rằng Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Giê-xu sống lại sau khi Ngài bị giết.
\v 3 Vậy, những người này bắt giam Phi-e-rơ và Giăng. Hội Đồng xét xử Do Thái phải đợi đến ngày hôm sau để tra vấn hai người, vì lúc đó trời đã tối.
\v 4 Tuy nhiên, nhiều người được nghe Phi-e-rơ nói đã đặt đức tin nơi Chúa Giê-xu. Số người tin Chúa Giê-xu tăng lên khoảng năm ngàn người.
\s5
\v 5 Ngày hôm sau, thầy tế lễ thượng phẩm triệu tập các thầy tế lễ cả khác, các thầy dạy luật Do Thái, cùng những thành viên khác trong Hội Đồng xét xử Do Thái họp lại với nhau tại một nơi trong thành Giê-ru-sa-lem.
\v 6 An-ne, nguyên thầy tế lễ thượng phẩm, có mặt ở đó. Cũng có Cai-phe, thầy tế lễ thượng phẩm đương nhiệm, Giăng, A-léc-xan-đơ, cùng những người khác có liên hệ với thầy tế lễ thượng phẩm.
\v 7 Họ ra lệnh cho lính đưa Phi-e-rơ và Giăng vào phòng, rồi hỏi Phi-e-rơ và Giăng rằng: “Ai đã ban cho các ông quyền năng để chữa lành người què kia?”
\s5
\v 8 Khi Đức Thánh Linh ban quyền năng cho Phi-e-rơ, ông đáp: “Thưa các ông là những người đồng hương Y-sơ-ra-ên đang cai trị chúng tôi, cùng tất cả các trưởng lão khác, xin nghe tôi nói!
\v 9 Hôm nay, các ông đang chất vấn chúng tôi về một việc tốt mà chúng tôi đã làm cho một người què, và các ông hỏi chúng tôi anh ta đã được lành như thế nào. Vậy nên tôi xin nói để các ông cùng tất cả những người Y-sơ-ra-ên khác biết điều này:
\v 10 Đó là nhờ danh Chúa Cứu Thế Giê-xu ở Na-xa-rét mà anh này được chữa lành, nên bây giờ anh đã đứng được trước mặt các ông. Chính các ông đã đóng đinh Chúa Giê-xu vào cây thập hình và giết Ngài đi, nhưng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại.
\s5
\v 11 Chúa Cứu Thế Giê-xu ở Na-xa-rét là người mà Kinh Thánh đã nói đến, rằng: “Hòn đá mà thợ xây loại ra đã trở nên hòn đá quan trọng nhất trong tòa nhà. ”
\v 12 Chỉ có Chúa Giê-xu mới cứu được chúng ta, vì trong thế gian này Đức Chúa Trời không ban cho chúng ta một Đấng nào khác để có thể cứu chúng ta khỏi hình phạt dành cho tội lỗi mình!"
\s5
\v 13 Những người lãnh đạo Do Thái nhận thấy Phi-e-rơ và Giăng không chút e sợ họ. Họ còn biết rằng hai ông chỉ là những người bình thường chưa từng qua trường lớp nào. Vì vậy, họ rất ngạc nhiên. Họ biết rằng hai ông đã từng ở cùng Chúa Giê-xu.
\v 14 Họ cũng thấy người què được chữa lành đang đứng đó cùng với Phi-e-rơ và Giăng, cho nên họ chẳng thể bắt bẻ được hai ông.
\s5
\v 15 Những người lãnh đạo Do Thái sai lính đưa Phi-e-rơ, Giăng và người đã được chữa lành ra khỏi phòng. Sau đó, họ bàn luận với nhau về Phi-e-rơ và Giăng.
\v 16 Họ nói: “Chúng ta không thể áp dụng hình phạt nào đối với hai người này! Mọi người hiện sống tại Giê-ru-sa-lem đều biết họ đã làm một phép lạ lớn, cho nên chúng ta không thể bảo với dân chúng rằng không hề có chuyện đó!
\v 17 Tuy nhiên, chúng ta không được để cho những người khác nghe được những gì họ dạy về tên Giê-xu đó. Chúng ta phải cho những người này biết rằng chúng ta sẽ trừng phạt họ nếu họ tiếp tục nói cho người khác về kẻ mà họ nói là đã ban cho họ năng quyền để chữa lành người kia. ”
\v 18 Vậy là những người lãnh đạo Do Thái sai lính điệu hai sứ đồ trở vào phòng, rồi cấm hai ông không được nói hay rao giảng về Chúa Giê-xu cho bất kỳ ai.
\s5
\v 19 Nhưng Phi-e-rơ và Giăng đáp lại rằng: “Liệu Đức Chúa Trời có cho là chúng tôi đúng khi vâng theo các ông thay vì vâng lời Ngài hay không? Các ông cứ quyết định điều gì các ông cho là đúng.
\v 20 Nhưng về phần chúng tôi, chúng tôi không nghe lời các ông được. Chúng tôi sẽ tiếp tục nói cho mọi người về những việc mà chúng tôi đã thấy Chúa Giê-xu làm cũng như những điều mà chúng tôi đã nghe Ngài giảng dạy.”
\s5
\v 21 Những người lãnh đạo Do Thái lại bảo Phi-e-rơ và Giăng không được bất tuân lệnh họ, nhưng họ quyết định không hình phạt hai ông, vì hết thảy dân chúng tại Giê-ru-sa-lem đều ca ngợi Đức Chúa Trời về những gì đã xảy đến cho người què kia.
\v 22 Anh đã hơn bốn mươi tuổi, và không đi được từ lúc mới sinh.
\s5
\v 23 Sau khi Phi-e-rơ và Giăng rời khỏi Hội Đồng xét xử Do Thái, họ đến gặp các tín hữu khác và kể lại mọi điều mà các thầy tế lễ cả và các trưởng lão người Do Thái đã nói với mình.
\v 24 Khi các tín hữu nghe việc này, họ đều đồng lòng cầu nguyện cùng Đức Chúa Trời, rằng: “Ôi Chúa! Ngài đã tạo dựng trời, đất, biển và mọi vật trong đó.
\v 25 Đức Thánh Linh đã khiến tổ phụ chúng con là vua Đa-vít, tôi tớ Ngài, viết ra những lời này: Vì sao các dân trên thế giới nổi giận và dân Y-sơ-ra-ên toan tính chống lại Đức Chúa Trời một cách vô ích?
\s5
\v 26 Các vua trên thế giới chuẩn bị tranh chiến với Đấng Cai Trị của Đức Chúa Trời, và những nhà lãnh đạo khác cũng cùng tham gia với các vua đó để chống lại Chúa là Đức Chúa Trời và Đấng mà Ngài đã chọn làm Đấng Mê-si-a.
\s5
\v 27 Đúng vậy! Cả Hê-rốt và Bôn-xơ Phi-lát, cùng với dân ngoại lẫn dân Y-sơ-ra-ên, đã đến thành này để chống nghịch Chúa Giê-xu, là Đấng mà Ngài đã chọn để phục sự Ngài trong vai trò Đấng Mê-si-a.
\v 28 Ngài cho phép họ làm vậy vì đó là điều mà từ lâu Ngài đã ấn định sẽ xảy ra.”
\s5
\v 29 “Vậy nên bây giờ, lạy Chúa, xin nghe những gì họ nói về cách họ sẽ trừng phạt chúng con! Xin giúp chúng con, những tôi tớ của Ngài, để chúng con nói về Chúa Giê-xu cho mọi người!
\v 30 Xin dùng quyền năng của Ngài để thực hiện các phép lạ lớn trong việc chữa bệnh, cùng các dấu kỳ và công việc lạ lùng trong danh đầy tớ thánh của Ngài là Chúa Giê-xu! ”
\v 31 Khi các tín hữu cầu nguyện xong, nơi họ đang nhóm họp rung chuyển. Đức Thánh Linh ban cho tất cả họ quyền năng để dạn dĩ nói ra những lời mà Đức Chúa Trời dạy họ phải nói, và đó là điều họ đã làm.
\s5
\v 32 Cộng đồng những người tin Chúa Giê-xu hoàn toàn nhất trí về những điều họ nghĩ cũng như những điều họ muốn. Chẳng ai trong số họ nói rằng mình độc chiếm bất kỳ thứ gì. Thay vào đó, họ chia xẻ với nhau mọi thứ mình có.
\v 33 Các sứ đồ tiếp tục mạnh mẽ khẳng định với những người khác rằng Đức Chúa Trời đã khiến Chúa Giê-xu sống lại. Đức Chúa Trời giúp sức rất nhiều cho tất cả các tín hữu.
\s5
\v 34-35 Một số tín hữu sở hữu đất hoặc nhà đã bán tài sản của mình. Rồi đem tiền đã kiếm được đến trao cho các sứ đồ. Các sứ đồ phân phát tiền bạc cho tín hữu nào đang túng thiếu. Như vậy, tất cả các tín hữu đều có đủ những thứ cần dùng trong cuộc sống.
\s5
\v 36 Có một người tên là Giô-sép, thuộc chi phái Lê-vi, quê ở đảo Chíp-rơ. Các sứ đồ gọi ông là Ba-na-ba; theo tiếng Do Thái, tên gọi này có nghĩa là người luôn khích lệ những người khác.
\v 37 Ông bán một thửa ruộng và mang tiền đến cho các sứ đồ để phân phát cho các tín hữu khác.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Bấy giờ, có một tín hữu tên là A-na-nia, vợ là Sa-phi-ra. Anh cũng bán đất
\v 2 và giữ lại một ít tiền từ việc bán đất, vợ anh cũng biết anh làm như vậy. Rồi A-na-nia đem phần tiền còn lại giao cho các sứ đồ.
\s5
\v 3 Nhưng Phi-e-rơ nói rằng: “Này anh A-na-nia, anh đã để cho Sa-tan toàn quyền điều khiển mình, đến nỗi anh lừa dối Đức Thánh Linh. Anh đã giữ lại cho mình một phần tiền bán đất; anh đã không dâng hết.
\v 4 Trước khi bán đất, miếng đất vốn là của anh và sau khi bán đi thì tiền ấy vẫn là của anh. Vậy, vì sao anh lại nghĩ đến chuyện làm điều gian ác này? Không phải anh lừa gạt chúng tôi không thôi đâu, mà anh đang cố lừa dối chính Đức Chúa Trời! ”
\v 5 Khi A-na-nia nghe mấy lời ấy, lập tức anh ta ngã lăn ra chết. Tất cả những ai nghe chuyện về cái chết của A-na-nia đều rất sợ hãi.
\v 6 Một số thanh niên đứng dậy bọc xác anh bằng một tấm vải rồi đem đi chôn.
\s5
\v 7 Khoảng chừng ba giờ sau, vợ anh ta bước vào, nhưng bà chưa biết chuyện đã xảy ra.
\v 8 Phi-e-rơ đưa cho bà xem số tiền mà A-na-nia đã mang đến, rồi hỏi bà: “Hãy cho tôi biết, đây có phải là số tiền mà hai người nhận được từ việc bán đất không? ” Bà đáp: “Vâng, chúng tôi kiếm được bấy nhiêu đó.”
\s5
\v 9 Thế là, Phi-e-rơ nói với bà: “Hai người đã làm một việc đáng kinh sợ! Cả hai đã đồng lòng lừa dối Thánh Linh của Chúa! Này, chị có nghe tiếng chân của những người đã khiêng chồng chị đi chôn không? Họ đang ở ngay ngoài cửa và họ cũng sẽ đem chị đi luôn! ”
\v 10 Tức thì, Sa-phi-ra ngã ra chết ngay dưới chân Phi-e-rơ. Khi các thanh niên kia bước vào, họ thấy bà đã chết, thì đem xác bà đi chôn bên cạnh xác của chồng bà.
\v 11 Hết thảy các tín hữu tại Giê-ru-sa-lem đều vô cùng sợ hãi vì những gì Đức Chúa Trời đã làm đối với A-na-nia và Sa-phi-ra. Và mọi người khác nghe việc này cũng lấy làm kinh sợ.
\s5
\v 12 Đức Chúa Trời ban năng quyền cho các sứ đồ làm nhiều phép lạ đáng kinh ngạc, chứng thực chân lý trong những lời họ đang rao giảng cho dân chúng. Tất cả các tín hữu thường xuyên nhóm lại trong sân đền thờ, tại chỗ gọi là Hành Lang Sa-lô-môn.
\v 13 Tất cả những người khác, chưa tin Chúa Giê-xu, thì e ngại không dám tham gia cùng các tín hữu. Tuy nhiên, những người này vẫn rất nể trọng các tín hữu.
\s5
\v 14 Thêm nhiều người khác, cả nam lẫn nữ, tin nhận Chúa Giê-xu và gia nhập với các tín hữu.
\v 15 Người ta khiêng những kẻ đau yếu ra ngoài đường, đặt họ trên cáng hay trên nệm, để khi Phi-e-rơ đi qua thì ít ra bóng của ông cũng phủ lên họ và chữa lành cho họ.
\v 16 Cũng có những đám đông dân chúng từ các thị trấn gần thành Giê-ru-sa-lem đến với các sứ đồ. Họ đem những người bệnh cũng như những người bị tà linh hành hạ đến, và Đức Chúa Trời chữa lành cho tất cả.
\s5
\v 17 Thầy tế lễ thượng phẩm cùng tất cả những người theo ông ta đều là thành viên của phái Sa-đu-sê rất ghen tức các sứ đồ.
\v 18 Họ ra lệnh cho lính bảo vệ đền thờ bắt các sứ đồ giam vào ngục.
\s5
\v 19 Nhưng trong đêm, một thiên sứ của Chúa là Đức Chúa Trời đã mở cửa ngục đem các sứ đồ ra ngoài! Rồi thiên sứ truyền
\v 20 cho các sứ đồ rằng: “Hãy vào sân đền thờ, đứng đó nói cho dân chúng toàn bộ sứ điệp về sự sống đời đời này! ”
\v 21 Nghe vậy, các sứ đồ đi vào sân đền thờ lúc rạng sáng và bắt đầu truyền dạy lại cho dân chúng về Chúa Giê-xu. Trong lúc đó, thầy tế lễ thượng phẩm cùng những người ở với ông triệu tập các thành viên khác trong Hội Đồng xét xử Do Thái. Tất cả họ đều là những người lãnh đạo Y-sơ-ra-ên. Sau khi đã yên vị, họ sai lính vào ngục đem các sứ đồ ra.
\s5
\v 22 Nhưng khi lính canh đến nơi, họ phát hiện các sứ đồ không còn ở đó. Vậy, họ quay trở lại Hội Đồng trình báo:
\v 23 “Chúng tôi thấy cửa ngục vẫn khóa chặt, lính canh thì vẫn đứng gác ở cửa. Nhưng khi chúng tôi mở cửa đi vào để giải họ ra thì chẳng thấy ai ở trong ngục cả!”
\s5
\v 24 Khi đội trưởng đội bảo vệ đền thờ và các thầy tế lễ cả nghe như vậy, họ vô cùng hoang mang và tự hỏi không biết tất cả những việc này rồi sẽ dẫn đến đâu.
\v 25 Lúc ấy, có người đến báo với họ: “Xin nghe đây, mấy người mà quý vị nhốt vào ngục hiện đang đứng tại sân đền thờ giảng dạy dân chúng!”
\s5
\v 26 Vậy, đội trưởng đội bảo vệ đền thờ đem quân đến sân đền thờ đưa các sứ đồ trở về phòng họp Hội Đồng. Nhưng họ không dám mạnh tay với các sứ đồ vì sợ bị dân chúng ném đá.
\v 27 Sau khi viên đội trưởng và các sĩ quan của ông đưa các sứ đồ về đến phòng hội đồng, họ ra lệnh cho các sứ đồ đứng trước mặt các thành viên của hội đồng, và thầy tế lễ thượng phẩm bắt đầu chất vấn họ.
\v 28 Ông nói: “Chúng tôi đã lệnh cho mấy ông không được nói về con người Giê-xu đó! Nhưng các ông chẳng vâng lệnh chúng tôi; các ông đi dạy cho dân chúng toàn thành Giê-ru-sa-lem về con người Giê-xu đó! Rồi các ông còn cố làm như chúng tôi là những người phải chịu trách nhiệm về cái chết của hắn vậy!”
\s5
\v 29 Nhưng Phi-e-rơ đáp thay cho mình và các sứ đồ khác, rằng: “Chúng tôi phải vâng theo những điều Đức Chúa Trời dạy chúng tôi làm, chứ không phải những gì loài người như các ông sai bảo!
\v 30 Các ông chính là những người đã giết Chúa Giê-xu bằng cách đóng đinh Ngài vào cây thập hình. Nhưng Đức Chúa Trời, Đấng mà cha ông chúng ta thờ phượng, đã khiến Chúa Giê-xu từ cõi chết sống lại.
\v 31 Đức Chúa Trời đã tôn Chúa Giê-xu lên cao hơn hết mọi người. Ngài đã lập Chúa Giê-xu làm Đấng cứu rỗi và cai trị chúng ta. Ngài cho phép dân Y-sơ-ra-ên chúng ta từ bỏ tội lỗi để Ngài có thể tha tội cho chúng ta.
\v 32 Chúng tôi rao báo cho dân chúng những việc mà chúng tôi biết đã xảy đến cho Chúa Giê-xu. Đức Thánh Linh, là Đấng Đức Chúa Trời đã sai đến với chúng tôi, là những người vâng lời Ngài, cũng xác nhận rằng những việc này là thật.”
\s5
\v 33 Khi các thành viên Hội Đồng nghe lời này, họ nổi giận cùng các sứ đồ và muốn giết chết họ.
\v 34 Nhưng có một thành viên trong Hội Đồng tên là Ga-ma-li-ên. Ông là thành viên phái Pha-ri-si. Ông dạy cho dân chúng về luật Do Thái, và toàn thể dân Do Thái đều kính trọng ông. Ga-ma-li-ên đứng dậy giữa Hội Đồng và truyền cho quân lính đưa các sứ đồ ra ngoài một lát.
\s5
\v 35 Sau khi lính đã đưa các sứ đồ ra ngoài, Ga-ma-li-ên nói với các thành viên Hội Đồng khác rằng: “Các bạn Y-sơ-ra-ên, anh em phải suy nghĩ kỹ về những gì mình muốn làm với những người này.
\v 36 Mấy năm trước, có một người tên Thêu-đa nổi loạn chống lại chính quyền. Hắn bảo dân chúng rằng mình là một nhân vật quan trọng, và có khoảng bốn trăm người đã theo hắn. Nhưng khi hắn bị giết chết thì những người đi theo hắn đều tan lạc. Như vậy, bọn chúng chẳng thể làm thành việc mà chúng đã dự tính.
\v 37 Sau đó, trong thời gian người ta kê khai danh sách những người nộp thuế, cũng có một người Ga-li-lê tên là Giu-đa nổi lên chiêu mộ một số người theo hắn. Rồi tên này cũng bị giết chết, và hết thảy những người đi theo hắn cũng bị tan tác.
\s5
\v 38 Vậy nên tôi khuyên anh em thế này: Đừng hãm hại mấy người này làm gì! Cứ thả họ ra! Tôi nói như vậy vì nếu những việc đang xảy ra đây là do con người mưu tính, thì sẽ có người ngăn họ và họ sẽ thất bại.
\v 39 Nhưng nếu Đức Chúa Trời đã truyền dạy họ làm các việc này, thì anh em sẽ không thể ngăn cản họ, vì anh em sẽ nhận ra rằng mình đang chống lại Đức Chúa Trời! ” Những thành viên khác chấp nhận đề nghị của Ga-ma-li-ên.
\s5
\v 40 Họ truyền cho những người lính canh gác đền thờ đem các sứ đồ ra đánh đòn. Vậy là lính đem họ vào phòng hội đồng rồi đánh đòn họ. Các thành viên Hội Đồng ra lệnh cho họ không được nói cho dân chúng về Chúa Giê-xu nữa, rồi thả họ ra.
\v 41 Vậy là các sứ đồ từ Hội Đồng đi ra. Họ vui mừng vì biết Đức Chúa Trời đã tôn quý họ khi để cho người khác sỉ nhục họ vì họ theo Chúa Giê-xu.
\v 42 Sau các việc đó, ngày nào các sứ đồ cũng đến khuôn viên đền thờ và ghé lại nhà nhiều người, tiếp tục dạy bảo dân chúng rằng Chúa Giê-xu chính là Chúa Cứu Thế.
\s5
\c 6
\p
\v 1 Trong thời gian đó, có thêm nhiều người tin Chúa. Những người Do Thái không phải là dân bản xứ bắt đầu phàn nàn về những người Y-sơ-ra-ên bản xứ, vì các góa phụ của họ không nhận được phần lương thực hằng ngày.
\s5
\v 2 Vì thế, sau khi nghe họ trình bày, mười hai sứ đồ triệu tập toàn thể các tín hữu khác tại Giê-ru-sa-lem cùng họp lại. Rồi các sứ đồ nói với họ: “Thật không phải nếu chúng tôi ngừng việc giảng dạy sứ điệp của Đức Chúa Trời để đi phân phát thức ăn cho mọi người!
\v 3 Vì thế, tôi đề nghị anh em tín hữu hãy cẩn thận chọn ra bảy người từ trong vòng anh em, những người mà anh em biết có Thánh Linh của Đức Chúa Trời dẫn dắt, và vô cùng khôn ngoan. Rồi chúng tôi sẽ hướng dẫn họ làm công tác này.
\v 4 Về phần chúng tôi, chúng tôi sẽ tiếp tục dùng thì giờ của mình mà cầu nguyện và giảng dạy sứ điệp về Chúa Giê-xu.”
\s5
\v 5 Tất cả các tín hữu khác đều hài lòng trước lời đề nghị của các sứ đồ. Vậy là họ chọn ra Ê-tiên, một người có đức tin mạnh mẽ nơi Đức Chúa Trời, cũng là người hoàn toàn được Đức Thánh Linh điều khiển. Họ cũng chọn ra Phi-líp, Bô-cô-rơ, Ni-ca-no, Ti-môn, Ba-mê-na và Ni-cô-la người An-ti-ốt. Ni-cô-la đã theo đạo Do Thái trước khi ông tin Chúa Giê-xu.
\v 6 Các tín hữu đưa bảy vị này đến với các sứ đồ. Các sứ đồ cầu nguyện cho họ và đặt tay lên đầu mỗi người để giao phó công việc cho họ.
\s5
\v 7 Vậy, các tín hữu tiếp tục rao truyền sứ điệp của Đức Chúa Trời cho nhiều người. Số người tại Giê-ru-sa-lem tin nhận Chúa Giê-xu tăng lên rất nhanh. Trong số này có nhiều thầy tế lễ Do Thái nghe theo sứ điệp đã dạy họ phải tin cậy Chúa Giê-xu như thế nào.
\s5
\v 8 Đức Chúa Trời ban cho Ê-tiên quyền năng để làm nhiều phép lạ diệu kỳ giữa vòng dân chúng để chứng tỏ sứ điệp về Chúa Giê-xu là thật.
\v 9 Tuy nhiên, có một số người chống đối Ê-tiên. Họ là những người Do Thái thuộc một nhóm người thường xuyên hội họp tại một nhà hội gọi là Hội Đường Của Người Tự Do, họ xuất thân từ thành Sy-ren và A-léc-xan-đơ cũng như từ hai tỉnh Si-li-si và A-si. Tất cả họ bắt đầu tranh cãi với Ê-tiên.
\s5
\v 10 Nhưng họ không thể chứng minh Ê-tiên sai, vì Thánh Linh của Đức Chúa Trời giúp ông ăn nói rất khôn ngoan.
\v 11 Vì thế họ ngấm ngầm thuyết phục một số người cáo gian Ê-tiên. Những người này nói rằng: “Chúng tôi nghe anh ta nói phạm đến Môi-se và Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 12 Vậy, họ khiến những người Do Thái khác, bao gồm các trưởng lão và các thầy dạy luật Do Thái, nổi giận với Ê-tiên. Tất cả họ bắt Ê-tiên và dẫn ông đến Hội Đồng xét xử Do Thái.
\v 13 Họ cũng dẫn theo những kẻ cáo gian ông. Những người này nói: “Gã này liên tục nói phạm đến đền thánh và luật pháp mà Môi-se đã nhận lãnh từ Đức Chúa Trời.
\v 14 Ý của chúng tôi là chúng tôi đã nghe gã nói rằng Giê-xu người thị trấn Na-xa-rét sẽ phá hủy đền thờ này và dạy chúng ta vâng giữ những thói tục khác với những điều Môi-se đã dạy cha ông chúng ta. ”
\v 15 Mọi người trong phòng Hội Đồng nhìn Ê-tiên chằm chằm và thấy mặt ông giống như mặt của một thiên sứ.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Rồi thầy tế lễ thượng phẩm hỏi Ê-tiên: “Những điều họ nói về anh có đúng không? ”
\v 2 Ê-tiên đáp: “Thưa anh em người Do Thái và các vị lãnh đạo đáng kính, xin hãy nghe tôi nói! Đức Chúa Trời vinh hiển mà chúng ta thờ phượng đã hiện ra cho ông tổ chúng ta là Áp-ra-ham khi người vẫn đang sống tại vùng Mê-sô-bô-ta-mi, trước khi chuyển đến thành Cha-ran.
\v 3 Đức Chúa Trời đã phán với người: Hãy rời khỏi xứ mà con và họ hàng con đang sinh sống, rồi đi đến một xứ mà Ta sẽ chỉ cho.
\s5
\v 4 Vậy, Áp-ra-ham rời khỏi nơi còn được gọi là Canh-đê, đi đến Cha-ran và sinh sống tại đó. Sau khi cha người qua đời, Đức Chúa Trời bảo người chuyển đến vùng đất mà các ông cũng như tôi đang sống.
\v 5 Lúc đó, Đức Chúa Trời chưa ban cho Áp-ra-ham đất đai để sở hữu dầu là một mẫu đất nhỏ cũng không. Nhưng Đức Chúa Trời hứa rằng về sau Ngài sẽ ban vùng đất này cho Áp-ra-ham cùng dòng dõi người, và nó sẽ mãi mãi thuộc về họ. Tuy nhiên, lúc đó, Áp-ra-ham chưa có người con nào để thừa hưởng xứ đó.
\s5
\v 6 Sau đó, Đức Chúa Trời nói với Áp-ra-ham: “Con cháu con sẽ đến sinh sống tại một đất nước xa lạ. Họ sẽ sống ở đó bốn trăm năm, và suốt thời gian này, những người lãnh đạo của đất nước đó sẽ ngược đãi dòng dõi con, buộc họ làm việc như nô lệ.
\v 7 Nhưng Ta sẽ hình phạt dân tộc đã bắt họ làm nô lệ. Rồi con cháu con sẽ rời khỏi xứ đó mà vào thờ phượng Ta trong xứ này.
\v 8 Rồi Đức Chúa Trời truyền lệnh tất cả các người nam trong nhà của Áp-ra-ham, cùng toàn bộ những người nam thuộc dòng dõi người phải chịu cắt bì để chứng tỏ rằng họ thuộc về Đức Chúa Trời. Sau đó, con trai của Áp-ra-ham là Y-sác ra đời; khi Y-sác được tám ngày tuổi thì Áp-ra-ham làm phép cắt bì cho con trẻ. Sau này, con trai của Y-sác là Gia-cốp ra đời. Gia-cốp là cha của mười hai người mà chúng ta gọi là các tộc trưởng, tức là tổ phụ của chúng ta.
\s5
\v 9 Anh em biết rằng các con trai lớn của Gia-cốp ghen tức vì cha ưu ái đứa em nhỏ của mình là Giô-sép. Vì vậy, họ đã bán người cho các lái buôn, người bị dẫn đến Ai Cập, và trở thành nô lệ. Nhưng Đức Chúa Trời đã cứu giúp Giô-sép;
\v 10 bất kỳ khi nào người ta hãm hại người thì Đức Chúa Trời bảo vệ người. Ngài ban cho Giô-sép sự khôn ngoan và khiến Pha-ra-ôn, tức vua Ai Cập, có ấn tượng tốt đối với Giô-sép. Vì thế Pha-ra-ôn chỉ định người cai quản xứ Ai Cập và trông coi mọi tài sản của Pha-ra-ôn.
\s5
\v 11 Trong lúc Giô-sép đảm nhận công việc này thì xảy ra một cơn đói kém tại Ai Cập cũng như tại Ca-na-an. Dân chúng lâm vào cảnh khốn đốn. Gia-cốp và các con trai ông ở Ca-na-an cũng không có đủ lương thực.
\v 12 Khi Gia-cốp nghe nói người ta có thể mua lúa thóc tại Ai Cập, ông sai các anh của Giô-sép đến đó mua lúa. Họ đến mua lúa từ tay Giô-sép, nhưng không nhận ra ông. Rồi họ trở về quê nhà.
\v 13 Khi các anh Giô-sép đến Ai Cập lần thứ hai, họ cũng lại mua lúa từ Giô-sép. Và lần này thì ông cho họ biết mình là ai. Vậy, Pha-ra-ôn biết được dân tộc của Giô-sép là dân tộc Hê-bơ-rơ, và những người từ Ca-na-na đến đó là các anh của ông.
\s5
\v 14 Thế rồi, sau khi Giô-sép tiễn các anh lên đường về nhà, họ nói với cha, tức Gia-cốp, rằng Giô-sép muốn ông và cả gia đình xuống Ai Cập. Lúc ấy, gia đình Gia-cốp gồm bảy mươi lăm người.
\v 15 Sau khi nghe xong, Gia-cốp và cả gia đình đều đến sinh sống tại Ai Cập. Sau này, Gia-cốp qua đời tại đó, các tổ phụ khác của chúng ta, tức các con trai người, cũng mất ở đó.
\v 16 Thi hài của họ được đưa về xứ chúng ta và được chôn cất trong ngôi mộ mà Áp-ra-ham đã mua của các con trai Hê-mô tại thành Si-chem.
\s5
\v 17 Cha ông chúng ta đã sinh được rất nhiều con cháu khi gần đến thời điểm Đức Chúa Trời giải cứu họ khỏi Ai Cập, đúng như điều Ngài đã hứa với Áp-ra-ham.
\v 18 Một vị vua khác đã lên ngôi cai trị tại Ai Cập. Vua không biết rằng từ rất lâu trước thời của ông, Giô-sép đã có công lớn với dân Ai Cập.
\v 19 Vua đó tìm cách trừ diệt tổ phụ chúng ta một cách tàn bạo. Vua đàn áp họ, khiến họ rất khốn khổ. Thậm chí, vua còn truyền lệnh ném các em bé sơ sinh của họ ra ngoài để chúng chết đi.
\s5
\v 20 Trong thời gian đó, Môi-se ra đời, và Đức Chúa Trời thấy cậu là một đứa bé rất xinh đẹp. Vì vậy, cha mẹ cậu đã bí mật chăm sóc cậu trong nhà ba tháng.
\v 21 Rồi họ phải để cậu ở ngoài; nhưng con gái Pha-ra-ôn tìm thấy cậu và chăm sóc cậu như con ruột của mình.
\s5
\v 22 Môi-se được học mọi tri thức của người Ai Cập và khi lớn lên, ông đã nói và làm nhiều việc đầy quyền uy.
\v 23 Ngày nọ, khi Môi-se được khoảng bốn mươi tuổi, ông quyết định đi thăm họ hàng mình là người Y-sơ-ra-ên.
\v 24 Ông thấy một người Ai Cập ngược đãi một người Y-sơ-ra-ên. Vậy là ông xông đến cứu giúp người Y-sơ-ra-ên, và báo thù cho người Y-sơ-ra-ên bằng cách giết chết người Ai Cập kia.
\v 25 Môi-se nghĩ rằng những anh em Y-sơ-ra-ên sẽ hiểu rằng Đức Chúa Trời đã sai phái ông đến để giải cứu họ khỏi cảnh nô lệ. Nhưng họ không hiểu.
\s5
\v 26 Ngày hôm sau, Môi-se thấy hai người Y-sơ-ra-ên đánh nhau. Ông cố gắng can ngăn bằng cách khuyên giải họ: “Này, hai anh cùng là người Y-sơ-ra-ên với nhau, sao lại đánh nhau như vậy? ”
\v 27 Nhưng người đang đả thương người kia đẩy Môi-se ra và nói với ông: Không ai cần anh cai quản và xét xử chúng tôi đâu!
\v 28 Anh cũng muốn giết chết tôi như đã giết người Ai Cập ngày hôm qua sao?
\s5
\v 29 Khi Môi-se nghe như vậy, ông chạy ra khỏi Ai Cập và trốn đến xứ Ma-đi-an. Ông sống ở đó mấy năm, ông kết hôn và vợ chồng ông có được hai con trai.
\v 30 Bốn mươi năm sau, một ngày nọ, Chúa là Đức Chúa Trời hiện ra với Môi-se trong hình một thiên sứ. Ngài hiện ra trong ngọn lửa của một bụi gai đang cháy trong hoang mạc gần núi Si-nai.
\s5
\v 31 Khi nhìn thấy cảnh tượng đó, ông rất ngạc nhiên vì bụi gai cháy mà không tàn. Khi ông bước đến để nhìn kỹ hơn thì ông nghe tiếng Chúa là Đức Chúa Trời phán với ông:
\v 32 Ta là Đức Chúa Trời mà tổ phụ con thờ phượng. Ta là Đức Chúa Trời mà Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp thờ phượng. Môi-se sợ run người. Ông không dám nhìn bụi gai nữa.
\s5
\v 33 Rồi Giê-hô-va Đức Chúa Trời phán với ông: Hãy cởi giày dưới chân con để tỏ lòng tôn kính Ta. Vì Ta ở đây nên chỗ mà con đang đứng thuộc riêng về Ta.
\v 34 Dĩ nhiên, Ta đã thấy thể nào người Ai Cập liên tục gây khốn khổ cho dân Ta. Ta đã nghe dân Ta than van về điều này. Vì vậy, Ta đã xuống để giải cứu họ ra khỏi Ai Cập. Bây giờ hãy sẵn sàng, vì Ta sẽ sai con quay trở về Ai Cập.
\s5
\v 35 Môi-se này chính là người đã tìm cách cứu giúp dân Y-sơ-ra-ên chúng ta, nhưng đã bị họ khước từ và nói rằng: Không ai cần anh cai quản và xét xử chúng tôi! Môi-se là người mà chính Đức Chúa Trời đã sai đến để lãnh đạo họ và giải phóng họ khỏi thân phận nô lệ. Ông là người đã được thiên sứ từ trong bụi gai truyền phải làm công việc đó.
\v 36 Môi-se là người đã đưa tổ phụ chúng ta ra khỏi Ai Cập. Người đã làm đủ thứ phép lạ tại Ai Cập để chứng tỏ Đức Chúa Trời ở cùng mình, tại Biển Đỏ cũng như trong suốt bốn mươi năm dân Y-sơ-ra-ên sống trong hoang mạc.
\v 37 Môi-se này là người đã nói với dân Y-sơ-ra-ên, rằng: Từ giữa vòng dân sự anh em, Đức Chúa Trời sẽ lập lên một người làm tiên tri cho anh em giống như tôi vậy.
\s5
\v 38 Chính Môi-se này đã ở giữa con dân Y-sơ-ra-ên tập trung trong hoang mạc; ông đã ở cùng vị thiên sứ phán với mình trên núi Si-nai. Chính Môi-se là người đã được Đức Chúa Trời sai thiên sứ trên núi Si-nai ban luật pháp của chúng ta cho, và ông là người đã truyền lại cho tổ phụ chúng ta những gì thiên sứ phán bảo. Ông là người đã nhận lãnh từ Đức Chúa Trời những lời chỉ cho chúng ta cách sống đời đời và truyền lại cho chúng ta.
\v 39 Tuy nhiên, tổ phụ chúng ta không muốn vâng lời Môi-se. Thay vào đó, họ đã khước từ vai trò lãnh đạo của ông và muốn quay trở về Ai Cập.
\v 40 Vì vậy họ nói với anh của ông là A-rôn rằng: Hãy đúc cho chúng ta những hình tượng để làm thần dẫn dắt chúng ta. Vì chúng tôi chẳng biết chuyện gì đã xảy đến cho Môi se, là người đã dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập!
\s5
\v 41 Thế là họ làm một hình tượng trông giống một con bò con. Rồi họ dâng tế lễ tỏ lòng tôn kính hình tượng đó; họ cũng ca hát, nhảy múa ăn mừng công trình chính mình đã làm ra.
\v 42 Vì vậy, Đức Chúa Trời không sửa dạy họ nữa. Ngài bỏ mặc họ thờ phượng mặt trời, mặt trăng, các vì sao trên trời. Điều này hoàn toàn đúng như lời mà một trong các nhà tiên tri đã viết: Đức Chúa Trời phán: Hỡi dân Y-sơ-ra-ên, trong suốt bốn mươi năm các con ở trong hoang mạc, mỗi khi các con giết súc vật và dùng chúng để dâng tế lễ, các con có dâng cho Ta không?
\s5
\v 43 Không, từ nơi này đến nơi khác, các con mang theo mình những lều tạm chứa hình tượng thần Mo-lóc mà các con thờ lạy. Các con cũng mang theo hình ngôi sao gọi là Rom-phan. Đó là những hình tượng các con đã làm ra, và các con thờ phượng chúng thay vì Ta. Vậy nên Ta sẽ khiến các con bị đưa đi biệt xứ, đến những vùng đất xa hơn cả nước Ba-by-lôn.
\s5
\v 44 “Trong lúc tổ phụ chúng ta ở trong hoang mạc, họ thờ phượng Đức Chúa Trời tại Lều Thánh, cho thấy Ngài ở đó với họ. Họ làm lều tạm này y như Đức Chúa Trời đã truyền cho Môi-se. Nó giống y như kiểu mẫu mà Môi-se đã thấy khi ông ở trên núi.
\v 45 Về sau, các tổ phụ khác của chúng ta mang lều tạm đó đi cùng với họ khi Giô-suê đưa họ vào xứ này. Chính trong thời gian họ đánh chiếm xứ này cho mình, Đức Chúa Trời đã buộc dân đang định cư ở đó phải ra đi. Lều tạm này cứ ở trong xứ và vẫn còn ở đây cho đến khi vua Đa-vít trị vì.
\v 46 Đa-vít làm vui lòng Đức Chúa Trời, và ông xin Ngài cho phép ông xây một ngôi nhà, là nơi mà ông và toàn thể dân Y-sơ-ra-ên chúng ta có thể thờ phượng Đức Chúa Trời.
\s5
\v 47 Nhưng Đức Chúa Trời phán bảo rằng con trai Đa-vít là Sa-lô-môn sẽ xây dựng một ngôi nhà là nơi dân sự có thể thờ phượng Ngài.
\v 48 "Tuy nhiên, chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời vĩ đại hơn tất cả, Ngài không sống trong những ngôi nhà mà người ta làm ra. Như nhà tiên tri Ê-sai có viết:
\v 49-50 Đức Chúa Trời phán: “Trời là ngai Ta, đất là bệ chân Ta. Chính Ta đã tạo dựng nên muôn vật, cả trên trời lẫn dưới đất. Vậy nên, loài người các con không thể làm ra một nơi xứng đáng để Ta ngự ở đó!”
\s5
\v 51 "Các ông thật quá ương ngạnh đối với Ngài! Các ông giống y như tổ phụ mình! Các ông cứ luôn chống cự Đức Thánh Linh, như họ đã làm!
\v 52 Tổ phụ các ông đã bắt bớ tất cả các nhà tiên tri. Thậm chí họ còn giết chết những tiên tri đã rao báo rằng Đấng Cứu Thế sẽ đến, tức là Đấng luôn làm vui lòng Đức Chúa Trời. Và Đấng Cứu Thế đã đến! Ngài là Đấng mà gần đây các ông đã giao nộp cho quân thù và đòi họ giết chết Ngài cho bằng được!
\v 53 Các ông là kẻ đã nhận lãnh luật pháp của Đức Chúa Trời. Đó là luật pháp mà Đức Chúa Trời đã dùng các thiên sứ ban bố cho tổ phụ chúng ta. Tuy nhiên, các ông đã không vâng giữ luật pháp ấy!”
\s5
\v 54 Khi các thành viên Hội Đồng Xét Xử Do Thái và những người khác nghe mọi điều Ê-tiên nói, thì rất tức tối. Họ nghiến răng vì quá căm giận!
\v 55 Nhưng Đức Thánh Linh hoàn toàn làm chủ Ê-tiên. Ông nhìn lên trời và thấy ánh sáng chói lòa từ Đức Chúa Trời; ông cũng thấy Chúa Giê-xu đứng bên phải Đức Chúa Trời.
\v 56 Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra, và tôi thấy Con Người đang đứng bên phải Đức Chúa Trời!”
\s5
\v 57 Khi các thành viên Hội Đồng Xét Xử Do Thái và những người khác nghe thấy vậy thì hét lên và lấy tay bịt tai lại để khỏi nghe Ê-tiên nữa, rồi họ xông vào ông.
\v 58 Họ lôi ông ra bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem và ném đá ông. Những kẻ buộc tội Ê-tiên cởi áo ngoài ra để không bị vướng víu, và bỏ áo đó dưới đất, ngay chân của một thanh niên có tên là Sau-lơ, để anh ta giữ áo cho họ.
\s5
\v 59 Trong khi bị họ ném đá thì Ê-tiên cầu nguyện: “Ôi Chúa Giê-xu, xin tiếp lấy linh hồn con! ”
\v 60 Rồi Ê-tiên quỳ xuống kêu lớn tiếng: “Ôi Chúa, xin đừng hình phạt họ vì tội này! ” Sau khi nói xong thì ông mất.
\s5
\c 8
\p
\v 1-2 Một số người kính sợ Đức Chúa Trời đem chôn xác Ê-tiên trong mộ và khóc thương ông. Cũng trong ngày đó, người ta bắt đầu bức hại dữ dội những tín hữu đang sống tại Giê-ru-sa-lem. Vì vậy, phần lớn các tín hữu chạy trốn sang những nơi khác trong khắp cả xứ Giu-đê và Sa-ma-ri. Các sứ đồ là những tín hữu duy nhất còn ở lại Giê-ru-sa-lem.
\v 3 Trong khi người ta giết Ê-tiên, Sau-lơ có mặt ở đó và đồng tình với họ, cho rằng Ê-tiên đáng bị giết. Vậy, Sau-lơ cũng bắt đầu tìm cách tiêu diệt cộng đồng tín hữu. Ông vào từng nhà, lôi những ai tin Chúa Giê-xu đi và tống họ vào tù.
\s5
\v 4 Các tín hữu đã chạy khỏi Giê-ru-sa-lem, đi từ nơi này đến nơi khác, tiếp tục rao giảng sứ điệp về Chúa Giê-xu.
\v 5 Một trong những tín hữu đó tên là Phi-líp đã từ Giê-ru-sa-lem xuống một thành nọ thuộc xứ Sa-ma-ri. Ở đó, ông nói cho mọi người biết rằng Chúa Giê-xu chính là Chúa Cứu Thế.
\s5
\v 6 Nhiều người tại đó nghe Phi-líp giảng và chứng kiến những phép lạ ông làm, nên họ đều chăm chú lắng nghe lời ông.
\v 7 Chẳng hạn, Phi-líp truyền cho tà linh ra khỏi nhiều người, chúng hét lớn lên và ra khỏi. Ngoài ra, cũng có nhiều người bại liệt và què được chữa lành.
\v 8 Vì vậy nhiều người trong thành rất đỗi vui mừng.
\s5
\v 9 Có một người trong thành đó tên là Si-môn hành nghề phù thủy đã lâu. Ông ta khiến dân chúng trong xứ Sa-ma-ri kinh ngạc về phép thuật của mình. Ông ta tự xưng là “Si-môn vĩ đại! ”
\v 10 Mọi người ở đó, cả dân thường lẫn giới quan chức, đều nghe lời ông ta. Họ bảo: “Người này là Đấng Quyền Năng Vĩ Đại của Đức Chúa Trời. ”
\v 11 Họ cứ chú tâm nghe theo ông ta vì trong một thời gian dài ông đã khiến họ vô cùng ngạc nhiên nhờ tài phù phép của mình.
\s5
\v 12 Nhưng rồi họ tin sứ điệp Phúc âm của Phi-líp về việc Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ vương quyền của Ngài cũng như về Chúa Cứu Thế Giê-xu.
\v 13 Chính Si-môn cũng tin sứ điệp của Phi-líp và chịu báp-têm. Ông ta bắt đầu đi theo Phi-líp, và cứ kinh ngạc không thôi trước các phép lạ vĩ đại mà Phi-líp đang làm, là những điều chứng tỏ Phi-líp đang nói sự thật.
\s5
\v 14 Khi các sứ đồ tại Giê-ru-sa-lem hay tin nhiều người khắp vùng Sa-ma-ri đã tin sứ điệp của Đức Chúa Trời, thì họ phái Phi-e-rơ và Giăng đến đó.
\v 15 Khi Phi-e-rơ và Giăng đến Sa-ma-ri, hai người cầu nguyện cho các tân tín hữu nhận lãnh được Đức Thánh Linh.
\v 16 Vì rõ ràng là Đức Thánh Linh chưa ngự xuống trên ai trong vòng họ. Họ chỉ mới được báp-têm trong danh Chúa Giê-xu.
\v 17 Thế thì Phi-e-rơ và Giăng đặt tay trên họ, và họ nhận lãnh Đức Thánh Linh.
\s5
\v 18 Si-môn thấy các sứ đồ đặt tay trên mọi người và họ được ban cho Đức Thánh Linh. Nên ông đưa tiền cho các sứ đồ,
\v 19 và nói “Xin khiến tôi làm được điều mà các ông làm, để khi tôi đặt tay lên ai thì người đó cũng nhận được Đức Thánh Linh.”
\s5
\v 20 Nhưng Phi-e-rơ đáp lại: “Nguyện cho ông và tiền của ông đều bị hủy diệt, vì ông đã cố dùng tiền bạc để có được ơn ban của Đức Chúa Trời!
\v 21 Ông không thể dự phần gì vào công việc chúng tôi đang làm, vì lòng ông không ngay thẳng với Đức Chúa Trời!
\v 22 Ông phải ngưng ngay lối suy nghĩ gian ác ấy đi, và cầu xin Chúa để nếu Ngài muốn, Ngài sẽ tha thứ cho việc làm xuất phát từ ý tưởng gian ác trong lòng ông!
\v 23 Hãy từ bỏ các đường lối gian tà của mình, vì tôi nhận thấy rằng ông đang vô cùng ghen tức với chúng tôi, và đang làm nô lệ cho ước muốn làm ác không ngừng của mình!”
\s5
\v 24 Si-môn đáp lại rằng: “Xin cầu nguyện Chúa để Ngài không làm cho tôi điều mà ông vừa mới nói với tôi!”
\s5
\v 25 Sau khi Phi-e-rơ và Giăng nói cho dân chúng ở đó về những gì mà cá nhân họ kinh nghiệm về Chúa Giê-xu và rao truyền sứ điệp của Chúa thì họ trở về Giê-ru-sa-lem. Trên đường về, hai ông rao giảng Phúc âm về Chúa Giê-xu cho dân chúng trong xứ Sa-ma-ri.
\s5
\v 26 Một ngày nọ, một thiên sứ do Đức Chúa Trời sai đến đã truyền lệnh cho Phi-líp: “Hãy chuẩn bị và đi xuống phía nam, dọc con đường từ Giê-ru-sa-lem đến thành Ga-xa. ” Đó là con đường nằm trong vùng hoang mạc.
\v 27 Vậy, Phi-líp lập tức đi lên con đường đó. Trên đường, ông gặp một người Ê-thi-ô-bi. Đó là một viên chức quan trọng có trách nhiệm trông coi toàn bộ ngân quỹ cho nữ hoàng Ê-thi-ô-bi. Trong tiếng Ê-thi-ô-bi, người ta gọi nữ hoàng của họ là Can-đác. Người này đã đến Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Đức Chúa Trời,
\v 28 và ông đang trên đường trở về nhà. Khi đang ngồi trên xe ngựa, ông đọc lớn tiếng sách của tiên tri Ê-sai.
\s5
\v 29 Thánh Linh của Đức Chúa Trời truyền cho Phi-líp: “Hãy lại gần và đi bên cạnh chiếc xe đó! ”
\v 30 Vậy, Phi-líp chạy đến chỗ chiếc xe ngựa; ông nghe viên quan đang đọc lời tiên tri Ê-sai đã viết. Phi-líp hỏi ông ta: ” Ông có hiểu lời mình đang đọc không? ”
\v 31 Viên quan đáp lại: “Không! Tôi không thể hiểu được nếu không có ai giải thích cho tôi! ” Rồi ông ta bảo Phi-líp: “Mời ông lên xe và ngồi cạnh tôi.”
\s5
\v 32 Phần Kinh Thánh mà viên quan đó đang đọc là: “Người yên lặng như con chiên bị người ta đem đi giết thịt. Như chiên con câm nín khi bị hớt lông, Người không hề mở miệng.
\v 33 Người sẽ bị làm nhục và đối xử bất công. Không ai biết được dòng dõi Người sẽ thế nào, vì Người sẽ bị giết đi.”
\s5
\v 34 Viên quan hỏi Phi-líp về những lời ông đang đọc: “Xin ông cho tôi biết tiên tri viết về ai? Ông ấy viết về mình hay về người nào khác?
\v 35 Vậy, Phi-líp trả lời cho viên quan. Ông bắt đầu với phần Kinh Thánh đó rồi nói cho viên quan nghe Phúc Âm về Chúa Giê-xu.
\s5
\v 36-37 Đang đi trên đường, họ gặp một chỗ có nước. Viên quan nói với Phi-líp: “Nhìn kìa, ở đây có nước! Tôi muốn ông làm báp-têm cho tôi, vì tôi thấy chẳng có gì ngăn trở tôi chịu báp-têm. ”
\v 38 Vậy là viên quan bảo người đánh xe dừng xe lại. Rồi Phi-líp cùng ông xuống nước, và Phi-líp làm báp-têm cho ông.
\s5
\v 39 Khi ở dưới nước lên, đột nhiên, Thánh Linh của Đức Chúa Trời đem Phi-líp đi mất. Viên quan chẳng bao giờ gặp lại Phi-líp nữa. Nhưng dầu không gặp lại Phi-líp, viên quan vẫn rất vui mừng và tiếp tục cuộc hành trình.
\v 40 Rồi Phi-líp nhận ra rằng bởi phép lạ Thánh Linh đã đem mình đến thành A-xốt. Trong khi đi khắp vùng này, ông tiếp tục rao truyền sứ điệp về Chúa Giê-xu trong tất cả các thị trấn giữa hai thành phố A-xốt và Sê-sa-rê, và cứ rao truyền cho đến khi ông tới Sê-sa-rê.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Trong khi đó, Sau-lơ tiếp tục đe dọa sát hại những người theo Chúa. Anh ta đến gặp thầy tế lễ thượng phẩm tại Giê-ru-sa-lem
\v 2 xin thầy tế lễ viết thư giới thiệu mình với lãnh đạo các nhà hội Do Thái tại Đa-mách. Trong thư yêu cầu họ cho Sau-lơ quyền bắt giữ bất kỳ người nam hay người nữ nào theo đạo mà Chúa Giê-xu đã dạy, rồi giải họ về Giê-ru-sa-lem để các lãnh đạo Do Thái xử phạt.
\s5
\v 3 Khi Sau-lơ và những người cùng đi với anh tiến gần đến Đa-mách. Bất ngờ, một ánh sáng chói lòa từ trời chiếu xuống chung quanh Sau-lơ.
\v 4 Lập tức, anh té xuống đất. Rồi anh nghe tiếng của ai đó nói với mình: “Này, Sau-lơ, Sau-lơ, sao con tìm cách bức hại Ta?”
\s5
\v 5 Sau-lơ hỏi lại: “Thưa Chúa, Chúa là ai? ” Đấng đó trả lời: “Ta là Giê-xu, Đấng mà con đang bức hại.
\v 6 Bây giờ, hãy đứng dậy và đi vào thành phố! Ở đó có người sẽ cho con biết điều Ta muốn con làm. ”
\v 7 Những người cùng đi với Sau-lơ vô cùng kinh ngạc đến độ không nói được lời nào. Họ chỉ đứng trân ra đó. Họ nghe tiếng Chúa phán, nhưng không thấy gì cả.
\s5
\v 8 Sau-lơ đứng dậy, nhưng khi mở mắt ra anh không nhìn thấy gì. Vì vậy, những người cùng đi với anh nắm tay dắt anh vào thành Đa-mách.
\v 9 Trong ba ngày tiếp sau đó, Sau-lơ chẳng thấy gì, và anh cũng chẳng ăn, chẳng uống.
\s5
\v 10 Tại Đa-mách có một môn đồ của Chúa Giê-xu tên là A-na-nia. Chúa Giê-xu cho anh thấy một khải tượng và phán với anh: “Này, A-na-nia! ” Anh đáp: “Thưa Chúa, con nghe đây. ”
\v 11 Chúa Giê-xu bảo anh: “Hãy đi ra Đường Thẳng, đến nhà của Giu-đa và xin được nói chuyện với một người có tên Sau-lơ quê ở Tạt-sơ, vì hiện người này đang cầu nguyện cùng Ta.
\v 12 Sau-lơ đã thấy một khải tượng về một người tên là A-na-nia đi vào nhà và đặt tay lên mình để giúp mắt mình có thể nhìn thấy lại.”
\s5
\v 13 A-na-nia đáp: “Nhưng, thưa Chúa, nhiều người đã nói với con về người này! Hắn đã làm nhiều việc ác đối với những người tin Ngài tại Giê-ru-sa-lem!
\v 14 Các thầy tế lễ cả đã ủy quyền cho hắn đến Đa-mách để bắt giữ những người tin Ngài! ”
\v 15 Nhưng Chúa Giê-xu bảo A-na-nia: “Hãy đi đến chỗ Sau-lơ! Hãy làm những gì Ta bảo, vì Ta đã chọn người này phục sự Ta, để anh ấy nói về Ta cho các dân ngoại cùng với vua của họ, cũng như cho dân Y-sơ-ra-ên. ”
\v 16 Chính Ta đã cho anh ấy biết rằng anh ấy sẽ phải thường xuyên chịu khổ để nói về Ta cho những người khác.”
\s5
\v 17 Vậy, A-na-nia đi, và sau khi tìm được nhà nơi Sau-lơ đang ở thì anh vào nhà. Gặp được Sau-lơ, anh đặt tay lên Sau-lơ và nói: “Này anh Sau-lơ, chính Chúa Giê-xu đã ra lệnh cho tôi đến gặp anh. Ngài cũng là Đấng đã hiện ra với anh khi anh đang trên đường đi đến Đa-mách. Ngài sai tôi đến với anh để anh có thể được sáng mắt lại và được Đức Thánh Linh hoàn toàn điều khiển. ”
\v 18 Tức thì, có vật gì đó giống như vảy cá rơi ra khỏi mắt Sau-lơ và anh có thể nhìn thấy trở lại. Ngay lập tức anh đứng dậy và chịu báp-têm.
\v 19 Sau khi Sau-lơ ăn uống xong, anh được khỏe mạnh trở lại. Sau-lơ ở lại với các tín hữu khác tại Đa-mách trong mấy ngày.
\s5
\v 20 Ngay lập tức, anh bắt đầu giảng dạy về Chúa Giê-xu trong các nhà hội Do Thái. Anh nói cho họ biết rằng Chúa Giê-xu là Con Đức Chúa Trời.
\v 21 Mọi người nghe anh giảng đều kinh ngạc. Một số người nói: “Thật không tin nổi đây chính là kẻ từng truy bắt các tín hữu tại Giê-ru-sa-lem và là người đến đây để bắt họ giải về cho các thầy tế lễ cả tại Giê-ru-sa-lem! ”
\v 22 Nhưng Đức Chúa Trời khiến Sau-lơ rao giảng càng thuyết phục hơn cho nhiều người. Anh dùng Kinh Thánh để chứng minh rằng Chúa Giê-xu chính là Chúa Cứu Thế. Vì thế, những người lãnh đạo Do Thái tại Đa-mách không thể nghĩ ra cách để phản bác lời anh nói.
\s5
\v 23 Một thời gian sau, giới lãnh đạo Do Thái tại đó âm mưu giết anh.
\v 24 Cả ngày lẫn đêm, những người Do Thái này liên tục theo dõi những ai ra vào cổng thành, để nếu bắt gặp Sau-lơ thì họ sẽ giết chết anh. Tuy nhiên, có người báo cho Sau-lơ biết kế hoạch của họ.
\v 25 Vì vậy, một đêm nọ, những người mà anh đã đưa dắt trở lại tin Chúa đưa anh lên vách thành cao bằng đá bao quanh thành phố. Họ dùng dây thừng dòng anh xuống trong một cái giỏ qua một chỗ trống trên vách thành. Nhờ đó, anh trốn khỏi Đa-mách.
\s5
\v 26 Khi Sau-lơ đến Giê-ru-sa-lem, anh tìm cách gặp gỡ các tín hữu khác. Tuy nhiên, hầu như tất cả đều vẫn còn sợ anh, vì họ không tin rằng anh đã tin Chúa.
\v 27 Nhưng Ba-na-ba đưa anh đến giới thiệu với các sứ đồ. Ông giải thích cho các sứ đồ biết trong lúc Sau-lơ đang trên đường đến Đa-mách, anh đã gặp Chúa Giê-xu ra sao và tại đó Chúa đã phán với anh thế nào. Ông cũng kể cho họ biết Sau-lơ đã rao giảng một cách dạn dĩ thế nào về Chúa Giê-xu cho dân chúng tại Đa-mách.
\s5
\v 28 Vậy, Sau-lơ bắt đầu gặp gỡ các sứ đồ cũng như các tín hữu khác tại Giê-ru-sa-lem, và anh dạn dĩ nói về Chúa Giê-xu cho dân chúng.
\v 29 Sau-lơ cũng nói về Chúa Giê-xu cho những người Do Thái nói tiếng Hy Lạp, và biện luận với họ. Nhưng họ luôn tìm cách giết hại anh.
\v 30 Khi các tín hữu khác nghe tin người ta đang tìm cách giết anh, thì một số người đem Sau-lơ xuống thành Sê-sa-rê. Họ đưa anh lên tàu đi Tạt-sơ, quê hương của anh.
\s5
\v 31 Như vậy, các cộng đồng tín hữu ở khắp vùng Giu-đê, Ga-li-lê và Sa-ma-ri được sống bình an vì không còn ai bách hại họ nữa. Đức Thánh Linh khích lệ họ và khiến họ mạnh mẽ. Họ tiếp tục tôn cao Chúa Giê-xu, và Đức Thánh Linh khiến nhiều người trở lại tin nhận Chúa.
\v 32 Trong khi đi khắp các vùng này, có một lần Phi-e-rơ đến đồng bằng duyên hải để thăm viếng các tín hữu sống tại thị trấn Ly-đa.
\s5
\v 33 Tại đó, ông gặp một người tên là Ê-nê. Ê-nê nằm liệt gường đã tám năm vì bị bại liệt.
\v 34 Phi-e-rơ nói với ông: “Anh Ê-nê, Chúa Cứu Thế Giê-xu sẽ chữa lành cho anh! Hãy đứng dậy và dọn dẹp gường mình! ” Tức thì Ê-nê đứng dậy.
\v 35 Hầu hết dân chúng sống tại Ly-đa và miền đồng bằng Sa-rôn đều nhìn thấy Ê-nê sau khi anh được Chúa chữa lành, vì vậy họ tin nơi Chúa Giê-xu.
\s5
\v 36 Tại thành Gióp-bê, có một tín hữu tên là Ta-bi-tha. Tên của chị trong tiếng Hy Lạp là Đô-ca. Chị luôn làm việc lành cho người nghèo, chia sẻ cho họ những thứ họ cần.
\v 37 Trong thời gian Phi-e-rơ ở tại Ly-đa thì chị ngã bệnh và qua đời. Một số phụ nữ tại đó tắm rửa xác chị theo phong tục của người Do Thái. Rồi họ đặt thi hài chị trên lầu trong nhà chị và dùng vải phủ lên.
\s5
\v 38 Thị trấn Ly-đa gần thành Gióp-bê, vì vậy, khi các môn đồ nghe tin Phi-e-rơ vẫn còn ở Ly-đa, thì sai hai người đến gặp Phi-e-rơ. Khi hai người này đến chỗ Phi-e-rơ, họ giục ông: “Xin hãy cùng chúng tôi đến Gióp-bê ngay! ”
\v 39 Phi-e-rơ liền sửa soạn và lên đường đi với họ. Khi ông đến nhà ở Gióp-bê, họ đưa ông lên lầu chỗ đặt xác Đô-ca. Tất cả các góa phụ ở đó xúm lại quanh ông. Họ khóc lóc và đưa cho ông xem những áo dài và các trang phục khác mà Đô-ca đã may cho mọi người khi bà còn sống.
\s5
\v 40 Nhưng Phi-e-rơ bảo họ ra khỏi phòng, và quỳ xuống cầu nguyện. Sau đó ông quay về phía thi hài của Ta-bi-tha và nói: “Này chị Ta-bi-tha, hãy đứng dậy! ” Tức thì chị mở mắt, và khi nhìn thấy Phi-e-rơ, chị ngồi dậy.
\v 41 Ông nắm tay chị giúp chị đứng lên. Sau khi gọi các tín hữu, nhất là những góa phụ, quay trở vào, ông cho họ thấy chị đã sống lại.
\v 42 Chẳng bao lâu, dân chúng ở khắp nơi tại Gióp-bê đều biết về phép lạ đó, và kết quả là nhiều người đã tin Chúa Giê-xu.
\v 43 Phi-e-rơ ở lại Gióp-bê nhiều ngày tại nhà một người tên Si-môn, làm thợ thuộc da.
\s5
\c 10
\p
\v 1 Tại thành Sê-sa-rê có một người tên là Cọt-nây. Ông là sĩ quan chỉ huy một trăm quân trong một đơn vị lớn của binh lính La Mã từ nước Y-ta-li đến.
\v 2 Ông luôn gắng sức làm vui lòng Đức Chúa Trời; ông và mọi người trong nhà là những người thuộc dân ngoại luôn kính thờ Đức Chúa Trời. Thỉnh thoảng ông giúp đỡ tiền bạc cho những người Do Thái nghèo khó, và ông thường cầu nguyện với Đức Chúa Trời.
\s5
\v 3 Một ngày nọ, vào khoảng ba giờ chiều, Cọt-nây thấy một khải tượng. Ông thấy rõ ràng một thiên sứ do Đức Chúa Trời sai đến. Ông thấy vị thiên sứ vào phòng của ông và nói rằng: “Này, Cọt-nây! ”
\v 4 Cọt-nây nhìn chăm chăm vào vị thiên sứ và vô cùng kinh hãi. Rồi ông sợ sệt hỏi: “Thưa Ngài, Ngài cần gì ạ? ” Vị thiên sứ do Đức Chúa Trời sai đến đáp: “Ông đã làm hài lòng Đức Chúa Trời vì ông thường xuyên cầu nguyện với Ngài và thường giúp đỡ tiền bạc cho người nghèo. Những việc đó tựa như một của lễ đáng ghi nhớ đối với Đức Chúa Trời.
\v 5 Vậy, bây giờ, ông hãy sai mấy người đến Gióp-bê đón một người tên là Si-môn, còn gọi là Phi-e-rơ.
\v 6 Người này đang ở với một người cũng có tên Si-môn, làm thợ thuộc da. Nhà của ông ta ở gần biển.”
\s5
\v 7 Khi vị thiên sứ phán với Cọt-nây đã đi rồi thì ông gọi hai gia nhân trong nhà cùng với một binh sĩ dưới quyền, cũng là người kính thờ Đức Chúa Trời.
\v 8 Ông giải thích cho họ mọi điều mà thiên sứ đã truyền. Rồi ông bảo họ đến thành Gióp-bê mời Phi-e-rơ đến Sê-sa-rê.
\s5
\v 9 Khoảng giữa trưa ngày hôm sau, ba người này đang đi đường đến gần thành Gióp-bê. Khi họ gần đến Gióp-bê, thì Phi-e-rơ lên sân thượng cầu nguyện.
\v 10 Ông đói bụng và thèm ăn. Trong khi người ta đang sửa soạn thức ăn thì Phi-e-rơ thấy một khải tượng.
\v 11 Ông thấy trời mở ra và có một vật giống như tấm khăn lớn buộc bốn góc được hạ xuống đất.
\v 12 Bên trong khăn có đủ thứ sinh vật. Các sinh vật này gồm cả các loài thú và chim mà luật Môi-se cấm người Do Thái ăn. Có một số loài vật bốn chân, số khác là loài bò sát, và số khác nữa là chim trời.
\s5
\v 13 Rồi ông nghe Đức Chúa Trời phán với mình: “Này, Phi-e-rơ, hãy đứng dậy giết thịt vài con trong số này và ăn đi! ”
\v 14 Nhưng Phi-e-rơ đáp: “Thưa Chúa, chắc Ngài không muốn con làm như vậy đâu vì chưa bao giờ con ăn vật gì mà Ngài không cho phép trong luật Do Thái hay là vật gì chúng con không được ăn! ”
\v 15 Rồi Phi-e-rơ nghe Đức Chúa Trời phán với mình lần thứ hai rằng: “Ta là Đức Chúa Trời, vậy nếu Ta đã tạo ra vật gì ăn được thì đừng cho rằng nó không ăn được! ”
\v 16 Lời này lặp lại ba lần. Tức thì sau đó, tấm khăn với thú và chim kia được kéo trở lên trời.
\s5
\v 17 Đang khi Phi-e-rơ đang cố hiểu khải tượng đó có ý nghĩa thế nào thì mấy người được Cọt-nây sai đi đã đến nơi. Họ hỏi thăm đường đến nhà Si-môn. Khi tìm thấy họ đứng bên ngoài cổng.
\v 18 Họ gọi và hỏi có phải ông Si-môn, còn gọi là Phi-e-rơ, đang ở đó hay không.
\s5
\v 19 Trong lúc Phi-e-rơ còn đang cố gắng để hiểu ý nghĩa của khải tượng thì Thánh Linh của Đức Chúa Trời phán với ông: “Hãy nghe này! Có ba người đến đang muốn gặp con.
\v 20 Vậy, hãy đứng dậy đi xuống dưới nhà, và cùng đi với họ! Đừng từ chối, vì Ta đã sai họ đến đây! ”
\v 21 Thế là Phi-e-rơ đi xuống gặp mấy người kia. Ông nói với họ: “Chào các ông! Tôi là người các ông đang tìm. Có việc gì mà các ông đến đây?”
\s5
\v 22 Họ đáp: “Ông Cọt-nây, một sĩ quan quân đội La Mã, sai chúng tôi đến đây. Ông là một người tốt, thờ kính Đức Chúa Trời; những người Do Thái biết ông đều công nhận ông rất đạo đức. Một thiên sứ đã phán với ông: Hãy sai người đến Gióp-bê gặp Si-môn Phi-e-rơ và mời ông về đây, để các ngươi có thể nghe những gì người nói. ’”
\v 23 Vậy là Phi-e-rơ mời họ vào nhà và bảo họ ở lại đó qua đêm. Ngày hôm sau, Phi-e-rơ sửa soạn rồi lên đường đi với họ. Một số tín hữu ở Gióp-bê cũng cùng đi với ông.
\s5
\v 24 Hôm sau, họ đến thành Sê-sa-rê. Cọt-nây đang đợi họ. Ông cũng đã mời bà con họ hàng cùng các bạn hữu thân thích đến, nên họ cũng đang có mặt trong nhà ông.
\s5
\v 25 Khi Phi-e-rơ vào nhà, Cọt-nây ra gặp ông và quỳ rạp xuống trước ông để thờ lạy ông.
\v 26 Nhưng Phi-e-rơ nắm tay Cọt-nây đỡ ông đứng lên và nói: “Xin đứng dậy! Đừng tôn thờ tôi như vậy! Chính tôi cũng chỉ là người, giống như ông thôi!”
\s5
\v 27 Vừa đi vừa nói chuyện với Cọt-nây, Phi-e-rơ cùng những người kia vào nhà và thấy có nhiều người đã nhóm lại tại đó.
\v 28 Phi-e-rơ nói với họ: “Hết thảy anh em đều biết rằng bất kỳ người Do Thái nào cũng sẽ nghĩ rằng chúng tôi không tuân thủ luật pháp Do Thái nếu giao du với một người thuộc dân ngoại hoặc thậm chí nếu chúng tôi ghé thăm người ấy. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã bày tỏ cho tôi biết qua một khải tượng rằng không nên nói bất cứ người nào là ô uế và bất khiết đến độ Đức Chúa Trời không chấp nhận được.
\v 29 Thế nên khi ông phái người mời tôi đến thì tôi đi ngay mà không ngần ngại gì. Vậy, xin cho tôi biết vì sao ông lại mời tôi đến?”
\s5
\v 30 Cọt-nây đáp: “Khoảng giờ này cách đây ba hôm, tôi đang cầu nguyện với Đức Chúa Trời tại nhà như tôi vẫn thường làm vào lúc ba giờ chiều. Bỗng có một người mặc trang phục sáng lòa đứng trước mặt tôi
\v 31 mà nói rằng: Cọt-nây ơi, Đức Chúa Trời đã nghe lời cầu nguyện của ông. Ngài cũng đã thấy ông thường xuyên giúp tiền cho người nghèo, và Ngài rất vui lòng về điều đó.
\v 32 Vậy, ông hãy sai người đến thành Gióp-bê để mời Si-môn, cũng gọi là Phi-e-rơ, đến đây. Người đang ở với một người cũng tên Si-môn, làm thợ thuộc da, nhà gần biển.
\v 33 Vậy là tôi lập tức sai người đi mời ông đến đây, và tôi rất cảm kích vì ông đã đến. Bây giờ, tất cả chúng tôi đã tề tựu ở đây, biết rằng Đức Chúa Trời đang ở với chúng ta, để nghe mọi điều mà Chúa là Đức Chúa Trời đã truyền cho ông phải nói. Vì vậy, xin ông hãy nói cho chúng tôi.”
\s5
\v 34 Vậy là Phi-e-rơ bắt đầu nói. Ông nói với họ: “Bây giờ thì tôi hiểu rằng Đức Chúa Trời không chỉ ban ơn cho một số cộng đồng nào đó.
\v 35 Thay vào đó, từ mỗi dân tộc, Ngài chấp nhận bất kỳ ai tôn kính Ngài và làm điều đẹp lòng Ngài.
\s5
\v 36 Anh em biết sứ điệp mà Đức Chúa Trời gửi cho dân Y-sơ-ra-ên chúng tôi. Ngài công bố cho chúng tôi tin mừng rằng Ngài sẽ khiến người ta được hòa thuận với Ngài nhờ những gì Đức Chúa Cứu Thế Giê-xu đã làm. Ngài không chỉ là Chúa của người Y-sơ-ra-ên chúng tôi, mà Ngài cũng là Chúa cai trị mọi người.
\v 37 Anh em biết những gì Ngài đã làm trên khắp xứ Giu-đê, bắt đầu tại Ga-li-lê. Ngài đã bắt đầu làm các việc đó sau khi Giăng rao truyền cho dân chúng biết họ cần phải từ bỏ nếp sống tội lỗi trước khi ông làm báp-têm cho họ.
\v 38 Anh em biết là Đức Chúa Trời đã ban Thánh Linh Ngài cho Chúa Giê-xu, người Na-xa-rét, và ban cho Ngài quyền năng để làm các phép lạ. Anh em cũng biết thể nào Chúa Giê-xu đã đi nhiều nơi, làm việc lành và chữa bệnh cho dân chúng. Ngài cũng chữa cho những người bị ma quỷ hành hạ. Chúa Giê-xu có thể làm những việc đó vì Đức Chúa Trời luôn giúp đỡ Ngài.”
\s5
\v 39 Chúng tôi đều thấy những việc Chúa Giê-xu đã làm tại Giê-ru-sa-lem và khắp mọi miền đất nước Y-sơ-ra-ên là nơi Ngài sống. Kẻ thù của Ngài đã giết Ngài bằng cách đóng đinh Ngài trên cây thập hình bằng gỗ.
\v 40 Sau đó, Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại vào ngày thứ ba sau khi Ngài chịu chết, và đảm bảo cho nhiều người nhìn thấy Ngài đã sống sau khi Ngài được sống lại. Người ta chắc chắn rằng Ngài chính là người đã chết, bây giờ họ tận mắt nhìn thấy Ngài và hoàn toàn được thuyết phục, ấy là Ngài đã sống lại.
\v 41 Khi đó Đức Chúa Trời không cho tất cả mọi người nhìn thấy Ngài, mà chỉ những người được chọn để có thời gian ở với Ngài và dùng bữa cùng nhau vào những ngày đầu tiên sau khi Đức Chúa Trời khiến Ngài sống lại.
\s5
\v 42 Đức Chúa Trời đã truyền cho chúng tôi rao giảng cho dân chúng và Ngài bảo chúng tôi nói với họ rằng Ngài đã lập Chúa Giê-xu để làm quan án của mọi người vào một ngày nào đó, là ngày chắc chắn sẽ đến. Ngài sẽ phán xét cả người sống lẫn người đã chết trước thời điểm đó.
\v 43 Tất cả các tiên tri từng viết về Ngài cách đây đã lâu đều nói cho người ta biết về Ngài. Họ viết rằng nếu ai tin nơi Ngài thì Đức Chúa Trời sẽ tha mọi tội họ đã phạm nhờ những gì Ngài, tức là Chúa Giê-xu đã làm cho họ.”
\s5
\v 44 Trong lúc Phi-e-rơ còn đang nói những lời đó thì Đức Thánh Linh giáng xuống trên tất cả những người từ các dân tộc khác đang lắng nghe sứ điệp.
\v 45 Những người Do Thái từ Gióp-bê cùng đi với Phi-e-rơ đều kinh ngạc vì Đức Chúa Trời cũng ban Đức Thánh Linh một cách dư dật cho những người từ mọi dân tộc khác nhau nữa.
\s5
\v 46 Các tín hữu người Do Thái biết rằng Đức Chúa Trời đã làm điều đó vì họ nghe những người kia dùng các thứ tiếng họ chưa từng học để tán tụng Đức Chúa Trời. Rồi Phi-e-rơ nói
\v 47 với các tín hữu Do Thái đang có mặt ở đó rằng: “Đức Chúa Trời đã ban cho họ Đức Thánh Linh y như Ngài ban cho tín hữu Do Thái chúng ta, cho nên hết thảy anh em chắc sẽ đồng ý rằng chúng ta phải làm báp-têm cho những người này! ”
\v 48 Rồi Phi-e-rơ nói với những người thuộc dân ngoại đó rằng họ cần phải chịu báp-têm vì họ đã tin nơi Chúa Giê-xu. Vậy, họ làm báp-têm cho tất cả những người đó. Sau khi chịu báp-têm, họ yêu cầu Phi-e-rơ ở lại với họ thêm mấy ngày. Vậy, Phi-e-rơ và các tín hữu Do Thái khác ở lại.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Các sứ đồ và những tín hữu khác sinh sống tại những thị trấn khác trong xứ Giu-đê nghe kể rằng một số người thuộc dân ngoại cũng đã tin nhận sứ điệp của Đức Chúa Trời về Chúa Giê-xu.
\v 2 Nhưng có một số tín hữu Do Thái tại Giê-ru-sa-lem muốn tất cả những người theo Chúa Cứu Thế phải chịu cắt bì. Khi Phi-e-rơ từ Sê-sa-rê về đến Giê-ru-sa-lem, họ chỉ trích ông.
\v 3 Họ nói rằng: “Không những ông đã sai khi đến nhà của người thuộc dân ngoại chưa chịu cắt bì, mà ông còn ăn uống với họ!”
\s5
\v 4 Vì vậy, Phi-e-rơ bắt đầu giải thích rõ việc đã xảy ra.
\v 5 Ông nói: “Khi tôi đang cầu nguyện một mình tại thành Gióp-bê, thì trong cơn xuất thần tôi thấy một khải tượng. Tôi thấy có một vật giống như tấm khăn lớn túm bốn góc từ trên trời hạ xuống, đến ngay chỗ tôi.
\v 6 Khi tôi nhìn kỹ vào đó, tôi thấy một số gia súc cùng với thú hoang, các loài bò sát, và chim trời.
\s5
\v 7 Rồi tôi nghe Đức Chúa Trời truyền bảo tôi: Này Phi-e-rơ, hãy đứng dậy giết thịt và ăn đi.
\v 8 Nhưng tôi đáp: Thưa Chúa, chắc Ngài không thực sự muốn con làm điều đó đâu, vì con chưa bao giờ ăn bất kỳ thứ gì mà luật pháp không cho phép ăn!
\v 9 Đức Chúa Trời từ trên trời phán với tôi lần thứ hai: Ta là Đức Chúa Trời, cho nên nếu Ta đã khiến một vật ăn được thì đừng nói rằng nó không ăn được.
\v 10 Việc đó lặp lại thêm hai lần nữa, và rồi tấm khăn với tất cả thú và chim chóc trong đó được kéo trở lại lên trời.
\s5
\v 11 Ngay lúc ấy, có ba người được sai phái từ Sê-sa-rê đến ngôi nhà nơi tôi đang ở.
\v 12 Thánh Linh của Đức Chúa Trời bảo tôi không nên ngần ngại đi với họ cho dù họ không phải là người Do Thái. Có sáu tín hữu Do Thái cùng đi với tôi đến Sê-sa-rê, và chúng tôi vào nhà của người thuộc dân ngoại đó.
\v 13 Ông ấy cho chúng tôi biết ông đã thấy một thiên sứ đứng trong nhà mình. Thiên sứ bảo ông: Hãy sai mấy người đến Gióp-bê và đón Si-môn, còn gọi là Phi-e-rơ về.
\v 14 Người này sẽ cho ông biết ông và mọi người khác trong nhà phải làm gì để được cứu.
\s5
\v 15 Khi tôi bắt đầu nói thì Đức Thánh Linh bỗng giáng xuống trên họ, y như lúc đầu Ngài giáng trên chúng ta trong ngày lễ Ngũ tuần.
\v 16 Rồi tôi nhớ lại điều mà Chúa đã phán: Giăng đã làm báp-têm cho anh em bằng nước, nhưng Đức Chúa Trời sẽ làm báp-têm cho anh em bằng Đức Thánh Linh.
\s5
\v 17 Đức Chúa Trời đã ban cho những người thuộc dân ngoại đó cùng một Đức Thánh Linh mà Ngài đã ban cho chúng ta sau khi chúng ta tin Chúa Cứu Thế Giê-xu. Vì vậy, tôi không thể nào thưa với Đức Chúa Trời rằng Ngài đã sai khi ban Đức Thánh Linh cho họ! ”
\v 18 Sau khi các tín hữu Do Thái ấy nghe lời Phi-e-rơ thuật lại thì họ thôi chỉ trích ông. Thay vào đó, họ ngợi khen Đức Chúa Trời, rằng: “Vậy chúng ta thấy rõ rằng Đức Chúa Trời cũng chấp nhận dân ngoại quốc để họ cũng được hưởng sự sống đời đời, nếu họ từ bỏ lối sống tội lỗi của mình.”
\s5
\v 19 Sau khi Ê-tiên chết, nhiều tín hữu đã rời Giê-ru-sa-lem đi nơi khác vì ở Giê-ru-sa-lem họ quá khổ sở. Một số người đi đến Phê-ni-xi, một số đến đảo Chíp-rơ, và số khác thì đến An-ti-ốt, một thành phố tại Sy-ri. Ở những nơi này họ vẫn nói cho dân chúng sứ điệp về Chúa Giê-xu, nhưng họ chỉ nói với những người Do Thái khác mà thôi.
\v 20 Một số tín hữu là người ở đảo Chíp-rơ và thành Sy-ren thuộc Bắc Phi. Họ đến An-ti-ốt và cũng nói cho những người thuộc dân ngoại về Chúa Giê-xu.
\v 21 Chúa là Đức Chúa Trời đã ban năng quyền để những tín hữu này rao giảng một cách hiệu quả. Vì vậy, nhiều người thuộc dân ngoại đã tin sứ điệp của họ và tin cậy Chúa.
\s5
\v 22 Nhóm tín hữu tại Giê-ru-sa-lem hay tin nhiều người tại An-ti-ốt đã tin Chúa. Vậy, những người lãnh đạo nhóm tín hữu tại Giê-ru-sa-lem sai Ba-na-ba đến An-ti-ốt.
\v 23 Khi đến nơi, ông nhận ra rằng Đức Chúa Trời đã ban ơn cho các tín hữu. Vì vậy, ông rất vui mừng và khích lệ tất cả các tín hữu tiếp tục hết lòng tin cậy Chúa Giê-xu.
\v 24 Ba-na-ba là một người tốt được Đức Thánh Linh làm chủ hoàn toàn, hết lòng tin cậy Đức Chúa Trời. Nhờ các việc ông làm, nhiều người ở đó đã tin Chúa Giê-xu.
\s5
\v 25 Rồi Ba-na-ba đến thành Tạt-sơ thuộc Si-li-si để tìm Sau-lơ.
\v 26 Sau khi đã tìm gặp được anh, Ba-na-ba đưa anh trở lại An-ti-ốt để giúp dạy đạo cho các tín hữu. Vì vậy, suốt một năm, Ba-na-ba và Sau-lơ thường xuyên nhóm lại với Hội Thánh ở đó và dạy về Chúa Giê-xu cho rất nhiều người. Chính tại thành An-ti-ốt mà các môn đồ lần đầu tiên được người ta gọi là Cơ-đốc nhân.
\s5
\v 27 Trong thời gian Ba-na-ba và Sau-lơ ở tại An-ti-ốt, một số tín hữu là những tiên tri từ Giê-ru-sa-lem đã đến đây.
\v 28 Một người trong số họ, tên là A-ga-bút, được Thánh Linh của Đức Chúa Trời cảm thúc đứng dậy nói tiên tri rằng chẳng bao lâu sẽ có nạn đói tại nhiều nước. (Nạn đói này đã xảy ra trong thời Cơ-lốt làm hoàng đế La Mã.)
\s5
\v 29 Khi các tín hữu tại đó nghe được lời tiên tri của A-ga-bút, họ quyết định gửi tiền để giúp đỡ các tín hữu đang sống tại Giu-đê. Mỗi người quyết định đóng góp tiền bạc theo khả năng của mình.
\v 30 Họ nhờ Ba-na-ba và Sau-lơ gửi tiền đó cho những người lãnh đạo nhóm tín hữu tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Khoảng thời gian này, vua Hê-rốt Ạc-ríp-pa sai lính bắt một số người lãnh đạo nhóm tín hữu tại Giê-ru-sa-lem. Quân lính giam họ vào ngục. Vua làm vậy vì muốn bách hại các tín hữu.
\v 2 Vua sai một tên lính chém đầu sứ đồ Gia-cơ, anh của sứ đồ Giăng. Tên lính này liền đi thi hành mệnh lệnh.
\s5
\v 3 Khi Hê-rốt nhận thấy mình đã làm hài lòng những lãnh đạo dân Do Thái, ông ta lại ra lệnh cho lính bắt giữ Phi-e-rơ. Việc này xảy ra trong kỳ lễ ăn bánh không men của người Do Thái.
\v 4 Sau khi bắt Phi-e-rơ, họ giam ông vào ngục. Họ phân công bốn toán lính canh giữ Phi-e-rơ mỗi toán gồm bốn người. Hê-rốt muốn sau khi kết thúc lễ Vượt qua sẽ đem Phi-e-rơ ra xét xử trước người Do Thái. Vua còn lên kế hoạch sẽ xử tử Phi-e-rơ.
\s5
\v 5 Vậy, Phi-e-rơ bị giam trong ngục mấy ngày, nhưng các tín hữu tại Giê-ru-sa-lem tha thiết cầu nguyện với Đức Chúa Trời xin Ngài giải cứu Phi-e-rơ.
\v 6 Đêm trước khi Hê-rốt định đem Phi-e-rơ ra tử hình công khai, thì Phi-e-rơ mang hai xiềng ngủ giữa hai người lính trong khám. Có hai tên lính khác canh giữ cửa ngục.
\s5
\v 7 Bất ngờ, một thiên sứ của Chúa hiện ra đứng cạnh Phi-e-rơ, ánh sáng chói lòa trong buồng giam. Thiên sứ thúc vào sườn Phi-e-rơ đánh thức ông: “Hãy dậy mau! ” Khi Phi-e-rơ thức dậy thì xiềng rơi khỏi cổ tay ông. Tuy nhiên, lính canh không hay biết việc đang diễn ra.
\v 8 Rồi thiên sứ nói với ông: “Hãy thắt dây lưng và mang dép vào! ” Phi-e-rơ làm theo. Rồi thiên sứ bảo ông: “Hãy mặc áo khoác vào rồi đi theo ta!”
\s5
\v 9 Phi-e-rơ mặc áo và mang dép vào, rồi đi theo vị thiên sứ ra khỏi phòng giam, nhưng ông không biết rằng mọi việc này đang thực sự diễn ra. Ông nghĩ mình đang nằm mơ.
\v 10 Phi-e-rơ và thiên sứ đi ngang qua mấy người lính canh giữ hai cửa, nhưng những tên lính này không nhìn thấy họ. Rồi họ đến cổng sắt dẫn vào thành phố. Cánh cổng tự mở ra, và Phi-e-rơ cùng với thiên sứ đi ra khỏi ngục. Sau khi họ đi được một quãng trên đường, thiên sứ đột nhiên biến mất.
\s5
\v 11 Cuối cùng, Phi-e-rơ cũng nhận ra rằng những gì ông vừa trải qua không phải là khải tượng, mà là việc thực sự đã xảy ra. Vì thế, ông nghĩ: “Giờ thì mình biết rằng Chúa là Đức Chúa Trời đã sai thiên sứ giúp đỡ mình. Ngài đã giải cứu mình khỏi những gì mà Hê-rốt định làm đối với mình, cũng như mọi điều mà những người lãnh đạo Do Thái mong đợi. ”
\v 12 Khi Phi-e-rơ nhận biết Đức Chúa Trời đã giải cứu mình thì ông đến nhà của Ma-ri. Bà là mẹ của Giăng, còn gọi là Mác. Nhiều tín hữu đã nhóm lại tại đó và đang cầu nguyện xin Đức Chúa Trời giải cứu Phi-e-rơ.
\s5
\v 13 Khi Phi-e-rơ gõ cửa thì một cô đầy tớ tên Rô-đơ đi ra để xem ai đang ở bên ngoài.
\v 14 Khi Phi-e-rơ đáp lại thì cô nhận ra giọng của ông, nhưng cô quá vui sướng và phấn khích đến độ quên mở cửa! Thay vào đó, cô chạy trở vào nhà và báo cho các tín hữu biết rằng Phi-e-rơ đang đứng ngoài cửa.
\v 15 Nhưng một người trong họ nói với cô: “Cô thật vớ vẩn! ” Nhưng cô khăng khăng là đúng như vậy. Còn họ thì cứ bảo: “Không, không thể nào là Phi-e-rơ được. Có lẽ là thiên sứ của ông ấy.”
\s5
\v 16 Nhưng Phi-e-rơ tiếp tục gõ cửa. Cuối cùng, khi có người mở cửa, thì họ thấy đó chính là Phi-e-rơ, nên họ vô cùng kinh ngạc!
\v 17 Phi-e-rơ lấy tay ra hiệu cho họ im lặng. Rồi ông kể cho họ chính xác Đức Chúa Trời đã giải cứu ông ra khỏi tù giam như thế nào. Ông cũng bảo họ: “Hãy báo cho Gia-cơ, lãnh đạo của nhóm chúng ta, cùng với các anh em tín hữu khác biết chuyện đã xảy ra. ” Rồi Phi-e-rơ ra đi đến nơi khác.
\s5
\v 18 Sáng hôm sau những người lính canh giữ Phi-e-rơ vô cùng hoang mang vì họ chẳng biết chuyện gì xảy ra với ông.
\v 19 Khi Hê-rốt nghe tin, vua truyền cho lính truy tìm Phi-e-rơ, nhưng họ không tìm được. Rồi vua cho thẩm vấn những tên lính đã canh giữ Phi-e-rơ, và ra lệnh đưa họ đi xử tử. Sau đó, Hê-rốt từ tỉnh Giu-đê xuống thành Sê-sa-rê và ở lại đó một thời gian.
\s5
\v 20 Vua Hê-rốt rất giận dân cư sinh sống tại hai thành Ty-rơ và Si-đôn. Nhưng một ngày nọ, có mấy người đại diện cho họ cùng nhau đến thành Sê-sa-ra để ra mắt Hê-rốt. Họ thuyết phục Ba-la-tút, một trong các cận thần tin cẩn của Hê-rốt, báo cho Hê-rốt biết dân chúng các thành phố này muốn làm hòa với ông. Họ muốn được trao đổi, buôn bán với thần dân của Hê-rốt vì họ cần mua lương thực, thực phẩm từ các vùng này.
\v 21 Vào ngày Hê-rốt định gặp họ, vua mặc trang phục lộng lẫy, tỏ ra vương quyền của mình. Rồi vua ngồi trên ngai và truyền cho mọi người tập họp tại đó.
\s5
\v 22 Những người nghe ông phát biểu cứ hô vang: “Người đang nói này là thần, không phải là con người! ”
\v 23 Vậy, vì Hê-rốt đã để cho người ta chúc tụng mình thay vì tôn vinh Đức Chúa Trời, một thiên sứ do Chúa là Đức Chúa Trời sai đến đã khiến vua lâm trọng bệnh. Nhiều giun sán hủy hoại nội tạng của vua, và chẳng bao lâu sau ông ta chết thật đau đớn.
\s5
\v 24 Các tín hữu vẫn cứ rao truyền sứ điệp của Đức Chúa Trời cho dân chúng ở nhiều nơi, và số người tin Chúa Giê-xu tiếp tục tăng lên.
\v 25 Khi Ba-na-ba và Sau-lơ đã chuyển xong số tiền trợ giúp cho các tín hữu Do Thái tại xứ Giu-đê thì họ rời Giê-ru-sa-lem trở về thành An-ti-ốt, thuộc tỉnh Sy-ri. Họ đem theo Giăng, còn gọi là Mác.
\s5
\c 13
\p
\v 1 Trong số tín hữu tại An-ti-ốt thuộc tỉnh Sy-ri có các tiên tri và những người truyền dạy cho dân chúng về Chúa Giê-xu. Họ gồm Ba-na-ba; Si-mê-ôn, còn gọi là Ni-giê; Lu-xi-út, quê ở Sy-ren; Ma-na-ên, là người được nuôi dưỡng cùng với vua Hê-rốt An-ti-ba; và Sau-lơ.
\v 2 Trong khi họ đang thờ phượng Chúa và kiêng ăn, Đức Thánh Linh phán với họ: “Hãy chọn Ba-na-ba và Sau-lơ để phục vụ Ta và ra đi làm công việc mà Ta đã chọn họ làm! ”
\v 3 Vậy, họ tiếp tục kiêng ăn và cầu nguyện. Rồi họ đặt tay lên Ba-na-ba và Sau-lơ, cầu nguyện xin Đức Chúa Trời giúp đỡ hai người. Sau đó họ sai hai người ra đi làm công việc mà Đức Thánh Linh đã truyền cho.
\s5
\v 4 Đức Thánh Linh cho Ba-na-ba và Sau-lơ biết họ phải đi đâu. Vì thế họ từ An-ti-ốt đi xuống thành Sê-lơ-xi thuộc vùng duyên hải. Từ đó họ đi thuyền đến thành phố Sa-la-mi trên đảo Chíp-rơ.
\v 5 Tại Sa-la-mi, họ đến các nhà hội Do Thái, công bố sứ điệp của Đức Chúa Trời về Chúa Giê-xu. Giăng Mác đồng đi với họ và phụ giúp họ.
\s5
\v 6 Ba người băng ngang qua đảo đến thành Ba-phô. Ở đó, họ gặp một thuật sĩ tên là Ba Giê-xu. Ông này là người Do Thái, mạo nhận là một tiên tri.
\v 7 Ông ta ở với tổng đốc của đảo, là Sê-giút Phao-lút, một người khôn ngoan. Ngài tổng đốc sai người đi mời Ba-na-ba và Sau-lơ đến vì ông muốn nghe lời của Đức Chúa Trời.
\v 8 Tuy nhiên, gã thuật sĩ, có tên dịch sang tiếng Hy Lạp là Ê-ly-ma, tìm cách ngăn cản họ. Ông ta cứ cố gắng thuyết phục ngài tổng đốc đừng tin Chúa Giê-xu.
\s5
\v 9 Khi ấy, Sau-lơ, hiện đã đổi tên là Phao-lô, được Thánh Linh ban năng quyền, nhìn chằm vào gã thuật sĩ và nói:
\v 10 “Ông đang phục vụ ma quỷ và tìm cách ngăn chặn mọi việc tốt lành! Ông luôn nói dối dân chúng và làm nhiều việc gian ác đối với họ. Ông đừng có nói rằng chân lý về Chúa là Đức Chúa Trời là sai lạc nữa!
\s5
\v 11 Ngay bây giờ, Chúa là Đức Chúa Trời sẽ hình phạt ông! Ông sẽ bị mù và không thể nhìn thấy ánh mặt trời trong một thời gian. ” Tức thì ông ta bị mù, như thể đang ở trong màn sương tối đen, và ông ta phải sờ soạng tìm người cầm tay dắt mình.
\v 12 Khi ngài tổng đốc chứng kiến việc xảy ra cho Ê-ly-ma thì ông tin Chúa Giê-xu. Ông rất ngạc nhiên về những gì Phao-lô và Ba-na-ba giảng dạy về Chúa Giê-xu.
\s5
\v 13 Sau đó, Phao-lô và những người đồng hành từ Ba-phô đi thuyền đến thành phố Bẹt-giê thuộc tỉnh Bam-phi-ly. Tại Bẹt-giê, Giăng Mác bỏ họ mà trở về nhà tại Giê-ru-sa-lem.
\v 14 Còn Phao-lô và Ba-na-ba từ Bẹt-giê đi đường bộ đến thành An-ti-ốt Bi-si-đi thuộc tỉnh Ga-la-ti. Đến ngày Sa-bát, họ vào nhà hội và ngồi xuống.
\v 15 Có người đọc lớn tiếng từ các sách luật pháp của Môi-se. Tiếp đến, họ lại đọc trong các sách tiên tri. Rồi những người lãnh đạo nhà hội Do Thái tại đây nhắn với Phao-lô và Ba-na-ba: “Các anh em người Do Thái, nếu một trong hai người muốn lên tiếng để khích lệ những người đang có mặt thì xin cứ phát biểu.”
\s5
\v 16 Vậy, Phao-lô đứng dậy, dùng tay ra dấu để mọi người chú ý lắng nghe. Rồi ông nói: “Thưa anh em là người Y-sơ-ra-ên và những anh em người thuộc dân ngoại đang thờ phượng Đức Chúa Trời, xin nghe tôi nói!
\v 17 Đức Chúa Trời mà người Y-sơ-ra-ên chúng ta thờ kính đã chọn các tổ phụ chúng ta làm con dân của Ngài, và Ngài khiến họ thành một dân tộc đông đúc khi họ kiều ngụ tại Ai Cập. Rồi Đức Chúa Trời làm những việc quyền năng để đưa họ thoát khỏi cảnh nô lệ.
\v 18 Cho dù hết lần này đến lần khác họ không vâng lời Ngài, nhưng Ngài đã chịu đựng cách cư xử của họ trong suốt bốn mươi năm khi họ ở trong hoang mạc.
\s5
\v 19 Ngài giúp dân Y-sơ-ra-ên chinh phục bảy dân tộc lúc đó đang sống trong vùng Ca-na-an, và Ngài ban đất của họ cho dân Y-sơ-ra-ên sở hữu vĩnh viễn.
\v 20 Tất cả những việc này xảy ra bốn trăm năm mươi năm sau khi các tổ phụ của họ đến Ai Cập. ” “Sau đó Đức Chúa Trời đã chọn người, lập họ làm quan án và lãnh đạo để cai trị dân Y-sơ-ra-ên. Những người lãnh đạo đó tiếp tục cai trị dân tộc chúng ta cho đến thời Sa-mu-ên, vị quan án cuối cùng cai trị họ.
\s5
\v 21 Trong lúc Sa-mu-ên vẫn còn lãnh đạo, thì dân chúng yêu cầu ông chọn một vị vua để cai trị họ. Vậy nên Đức Chúa Trời đã chọn Sau-lơ, con trai của Kích, thuộc chi phái Bên-gia-min, làm vua. Ông cai trị họ trong bốn mươi năm.
\v 22 Sau khi Đức Chúa Trời loại bỏ Sau-lơ, không cho ông làm vua nữa, Ngài chọn Đa-vít làm vua của họ. Đức Chúa Trời phán về Đavít: Ta đã thấy Đa-vít, con trai Gie-sê, chính là người mong muốn điều Ta mong muốn. Người sẽ làm mọi việc Ta muốn người làm. ’”
\s5
\v 23 “Từ trong dòng dõi Đa-vít, Đức Chúa Trời đã ban cho dân Y-sơ-ra-ên chúng ta một Đấng, tức là Chúa Giê-xu, để cứu chúng ta, y như Ngài đã hứa với Đa-vít và các tổ phụ khác.
\v 24 Trước khi Chúa Giê-xu bắt đầu công tác của Ngài, Giăng, Người Làm Báptêm đã rao giảng cho tất cả những người Y-sơ-ra-ên đến với ông. Ông cho họ biết rằng họ cần phải từ bỏ lối sống tội lỗi và cầu xin Đức Chúa Trời tha tội cho mình. Rồi ông làm báp-têm cho họ.
\v 25 Khi Giăng sắp hoàn thành công việc Đức Chúa Trời giao phó, ông nói: Anh em cho rằng tôi chính là Đấng Mê-si-a mà Đức Chúa Trời đã hứa ban hay sao? Không, tôi không phải Đấng đó. Nhưng xin nghe tôi nói! Chẳng bao lâu nữa Đấng Mê-si-a sẽ đến. Ngài vĩ đại hơn tôi nhiều đến nỗi thậm chí tôi còn chẳng xứng được cởi giày cho Ngài. ’”
\s5
\v 26 “Thưa anh em Y-sơ-ra-ên, con cháu của Áp-ra-ham, và những anh em người thuộc dân ngoại đang thờ phượng Đức Chúa Trời, xin hãy nghe! Đức Chúa Trời đã gửi cho tất cả chúng ta sứ điệp nói về phương cách Ngài cứu rỗi loài người.
\v 27 Dân thành Giê-ru-sa-lem và những người lãnh đạo của họ không biết rằng Con Người Giê-xu này chính là Đấng mà Đức Chúa Trời đã sai đến để cứu họ. Mặc dầu sứ điệp của các tiên tri vẫn được tuyên đọc vào mỗi ngày Sa-bát, nhưng họ không hiểu điều mà các tiên tri đã viết về Đấng Mê-si-a. Vì vậy, những người lãnh đạo Do Thái đã kết án Chúa Giê-xu, xử Ngài tội chết, y như điều các tiên tri đã tiên báo.
\s5
\v 28 Nhiều người đã cáo buộc Chúa Giê-xu làm những việc gian ác, nhưng dầu không thể chứng minh được Ngài làm gì đáng chết, họ cũng yêu cầu tổng đốc Phi-lát xử Ngài tội chết.
\v 29 Họ đã làm cho Chúa Giê-xu mọi điều mà các tiên tri đã tiên báo từ trước. Họ đã giết chết Chúa Giê-xu bằng cách đóng đinh Ngài vào cây thập hình. Rồi người ta đưa thi hài của Ngài xuống khỏi cây thập hình và chôn trong phần mộ.
\s5
\v 30 Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã khiến Ngài sống lại từ cõi chết.
\v 31 Trong nhiều ngày, Ngài liên tục hiện ra cho các môn đồ của Ngài, là những người đã theo Ngài từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem. Những người được nhìn thấy Ngài hiện đang nói cho người khác biết về Ngài.”
\s5
\v 32 “Giờ đây, chúng tôi đang rao báo cho anh em Phúc Âm này. Chúng tôi muốn cho anh em biết rằng Đức Chúa Trời đã làm thành những gì Ngài đã hứa cùng các tổ phụ người Do Thái của chúng ta!
\v 33 Bấy giờ Ngài đã làm việc này cho chúng ta là con cháu của họ, nhưng cũng cho những anh em người thuộc dân ngoại, bằng cách khiến Chúa Giê-xu sống lại. Điều này đúng như những gì trong Thi Thiên thứ hai Đa-vít đã viết khi Đức Chúa Trời phán về việc sai phái Con Ngài: Con là Con Trai Ta, hôm nay ta lập Con làm Con Trai Ta.
\v 34 Đức Chúa Trời đã làm cho Đấng Mê-si-a sống lại từ cõi chết và sẽ không bao giờ để cho Ngài phải chết lần nữa. Đức Chúa Trời đã phán với các tổ phụ người Do Thái chúng ta: Chắc chắn Ta sẽ giúp đỡ con, như Ta đã hứa với Đa-vít.
\s5
\v 35 Trong một Thi thiên khác Đa-vít cũng nói về Đấng Mê-si-a rằng: Chúa sẽ không để cho thân thể Đấng Thánh của Chúa bị mục rữa.
\v 36 Khi Đa-vít còn sống, ông đã làm những gì Đức Chúa Trời muốn ông làm. Rồi khi ông chết đi, người ta đem chôn xác ông, giống như họ đã làm với các tổ phụ của ông, và cái xác ấy đã mục rữa. Cho nên trong Thi Thiên này, ông không nói về mình.
\v 37 Nhưng Chúa Giê-xu chính là Đấng được Đức Chúa Trời khiến sống lại từ cõi chết, và thân thể Ngài không bị mục rữa.”
\s5
\v 38 “Cho nên, thưa anh em Y-sơ-ra-ên và các bạn khác, anh em cần phải biết rằng Đức Chúa Trời có thể tha tội cho anh em nhờ những gì mà Chúa Giê-xu đã làm. Thậm chí Ngài sẽ tha thứ cho anh em những tội mà theo các điều luật Môi-se đã viết ra, anh em không thể nào được tha.
\v 39 Tất cả những người tin Chúa Giê-xu không còn bị lên án về những việc trái ý Đức Chúa Trời mà họ đã làm.
\s5
\v 40 Vậy nên, hãy cẩn thận để Đức Chúa Trời khỏi phán xét anh em, như lời các tiên tri đã nói!
\v 41 Vị tiên tri viết Đức Chúa Trời phán rằng: Hỡi những kẻ đã nhạo báng Ta, chắc chắn các ngươi sẽ kinh ngạc khi nhìn thấy những gì Ta sẽ làm và rồi các người sẽ bị hủy diệt. Các ngươi sẽ kinh ngạc vì Ta sẽ giáng tai họa kinh khiếp cho các ngươi khi các ngươi còn đang sống. Các ngươi không tin rằng Ta sẽ làm điều đó dù đã có người bảo cho các ngươi biết! ’”
\s5
\v 42 Sau khi Phao-lô nói xong và chuẩn bị ra về thì nhiều người ở đó xin ông quay trở lại vào ngày Sa-bát sau để nói tiếp về điều đó.
\v 43 Khi buổi nhóm kết thúc, nhiều người trong số họ bắt đầu đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Trong đó có cả người Do Thái lẫn người thuộc dân ngoại tôn kính thờ phượng Đức Chúa Trời. Phao-lô và Ba-na-ba tiếp tục nói chuyện với họ và nài khuyên họ cứ tin rằng Đức Chúa Trời sẽ lấy lòng nhân từ mà tha tội cho con người nhờ những gì mà Chúa Giê-xu đã làm.
\s5
\v 44 Đến ngày Sa-bát sau, hầu hết dân thành An-ti-ốt đến nhà hội Do Thái để nghe Phao-lô và Ba-na-ba nói về Chúa Giê-xu.
\v 45 Nhưng những người lãnh đạo Do Thái vô cùng ghen tức khi thấy đám đông dân chúng đến nghe Phao-lô và Ba-na-ba. Vì vậy, họ bắt đầu phản bác những điều Phao-lô nói, và còn nhục mạ ông.
\s5
\v 46 Phao-lô và Ba-na-ba dạn dĩ đáp trả những người lãnh đạo Do Thái đó rằng: “Chúng tôi phải tuyên rao sứ điệp từ Đức Chúa Trời về Chúa Giê-xu cho người Do Thái các ông trước khi rao truyền sứ điệp ấy cho dân ngoại vì Đức Chúa Trời truyền cho chúng tôi làm như vậy. Nhưng các ông lại khước từ sứ điệp của Đức Chúa Trời. Làm như vậy, các ông đã tự chứng tỏ mình không xứng đáng nhận lãnh sự sống đời đời. Vì thế, chúng tôi sẽ để mặc các ông và bây giờ chúng tôi sẽ đến với những người thuộc dân ngoại để rao truyền sứ điệp từ Đức Chúa Trời cho họ.
\v 47 Chúng tôi làm vậy cũng vì Đức Chúa Trời đã truyền lệnh cho chúng tôi. Ngài phán trong Kinh Thánh: Ta đã chọn các con làm người tỏ bày mọi điều về Ta cho dân ngoại, là những điều chẳng khác nào ánh sáng đối với họ. Ta đã chọn các con làm người rao báo cho muôn dân trên thế giới sứ điệp Ta muốn cứu họ. ’”
\s5
\v 48 Khi những người thuộc dân ngoại nghe những lời này, họ rất vui mừng và ca ngợi Đức Chúa Trời vì sứ điệp về Chúa Giê-xu. Tất cả những người thuộc dân ngoại được Đức Chúa Trời chọn lựa để được hưởng sự sống đời đời đều tin sứ điệp về Chúa Giê-xu.
\v 49 Trong lúc đó, nhiều tín hữu đi khắp nơi trong vùng phổ biến sứ điệp về Chúa Giê-xu.
\s5
\v 50 Tuy nhiên, có mấy người lãnh đạo Do Thái nói chuyện với một số phụ nữ có địa vị cùng sinh hoạt thờ phượng với họ, và những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong thành phố. Họ thuyết phục những người này tìm cách ngăn chặn Phao-lô và Ba-na-ba. Vì vậy, những người thuộc dân ngoại này đã huy động nhiều người chống lại Phao-lô và Ba-na-ba, họ còn đuổi hai ông ra khỏi khu vực của mình.
\v 51 Khi hai sứ đồ ra đi, họ phủi bụi dưới chân để cho những người lãnh đạo này thấy rằng Đức Chúa Trời đã khước từ họ và sẽ đoán phạt họ. Rồi họ rời thành An-ti-ốt đến thành Y-cô-ni.
\v 52 Trong khi đó, các tín hữu ngập tràn niềm vui và quyền năng của Đức Thánh Linh.
\s5
\c 14
\p
\v 1 Tại Y-cô-ni, như thường lệ, Phao-lô và Ba-na-ba vào nơi nhóm họp của người Do Thái và nói về Chúa Giê-xu một cách mạnh mẽ. Nhờ đó, có nhiều người Do Thái và ngoại quốc tin Chúa Giê-xu.
\v 2 Nhưng có một số người Do Thái không chịu tin sứ điệp đó. Họ xúi những người thuộc dân ngoại đừng tin, và khiến một số người thuộc dân ngoại nổi giận cùng các tín hữu tại đó.
\s5
\v 3 Vì vậy Phao-lô và Ba-na-ba dành nhiều thời gian ở đó, dạn dĩ bênh vực đạo Chúa và Chúa Giê-xu khiến họ làm nhiều phép lạ. Nhờ đó, Ngài cho tỏ bày cho dân chúng chân lý của sứ điệp cho biết Chúa sẽ cứu chúng ta, dầu chúng ta không xứng đáng.
\v 4 Dân chúng sống tại Y-cô-ni có hai ý kiến khác nhau. Một số đồng ý với những người Do Thái. Số khác đồng ý với các sứ đồ.
\s5
\v 5 Sau đó, những người thuộc dân ngoại và người Do Thái chống đối Phao-lô và Ba-na-ba cùng nhau bàn cách bức hại Phao-lô và Ba-na-ba. Một số người có chức quyền trong thành phố đồng ý giúp họ. Họ quyết định sẽ giết chết Phao-lô và Ba-na-ba bằng cách ném đá hai người.
\v 6 Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba biết dự định của họ, nên hai ông nhanh chóng đi qua xứ Ly-cô-ni. Họ đến các thành Lít-trơ và Đẹt-bơ cùng các làng phụ cận.
\v 7 Khi ở trong vùng đó, họ tiếp tục nói cho dân chúng nghe sứ điệp về Chúa Giê-xu.
\s5
\v 8 Tại Lít-trơ có một người bị liệt hai chân. Hai chân anh bị liệt từ khi mới sinh ra, nên anh chưa bao giờ đi được.
\v 9 Anh lắng nghe khi Phao-lô nói về Chúa Giê-xu. Phao-lô nhìn thẳng vào anh và qua vẻ mặt của anh, Phao-lô biết anh tin Chúa Giê-xu có thể chữa lành cho mình.
\v 10 Vậy là Phao-lô lớn tiếng bảo anh: “Hãy đứng lên! ” Khi nghe lời đó, anh lập tức nhảy lên và bắt đầu đi lại.
\s5
\v 11 Đám đông chứng kiến việc Phao-lô vừa làm, họ cho rằng Phao-lô và Ba-na-ba là các vị thần mà họ tôn thờ. Vì thế họ la lên đầy phấn khích bằng tiếng Y-cô-ni: “Kìa! Các thần lấy hình con người từ trên trời xuống cứu giúp chúng ta! ”
\v 12 Họ nói rằng chắc chắn Ba-na-ba là thần Dớt, chúa của các vị thần. Họ cũng nói Phao-lô là Thần Hẹt-mê, sứ giả của các thần. Họ nghĩ như vậy vì Phao-lô là người đang nói với họ.
\v 13 Ngay bên ngoài cổng thành có một ngôi đền nơi người ta thờ thần Dớt. Thầy tư tế ở đó nghe biết những gì Phao-lô và Ba-na-ba làm, nên ông ta đến cổng thành, nơi đã có nhiều người tụ tập lại. Ông mang đến hai con bò đực cùng với các vòng hoa đeo quanh cổ chúng. Thầy tư tế và đám đông dân chúng định giết hai con bò như là một phần trong nghi lễ thờ cúng Phao-lô và Ba-na-ba.
\s5
\v 14 Nhưng khi hai sứ đồ là Ba-na-ba và Phao-lô nghe thấy vậy, họ rất buồn và xé áo mình. Họ xông vào giữa đám đông, la lên:
\v 15 “Này, các ông không được giết chết mấy con bò kia để thờ cúng chúng tôi! Chúng tôi chẳng phải thần! Chúng tôi chỉ là những con người có cùng những cảm xúc như các ông thôi! Chúng tôi đến để báo cho các ông biết tin mừng! Chúng tôi đến để nói cho các ông biết về Đức Chúa Trời Toàn Năng. Ngài muốn các ông thôi thờ cúng các thần khác, vì chúng không cứu giúp các ông được. Đức Chúa Trời Chân Thần này đã tạo dựng trời, đất, biển và mọi vật trong đó.
\v 16 Trong quá khứ, tất cả các ông là người thuộc dân ngoại đã thờ lạy những vị thần mình muốn. Đức Chúa Trời đã để cho các ông làm vậy vì các ông chưa biết Ngài.
\s5
\v 17 Nhưng Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy Ngài rất nhân từ với chúng ta. Ngài chính là Đấng đã khiến trời mưa và làm cho cây trồng phát triển. Ngài là Đấng ban cho các ông thực phẩm dồi dào, và khiến lòng các ông đầy vui mừng. ”
\v 18 Dân chúng nghe những gì Phao-lô nói, nhưng họ vẫn nghĩ cần phải dâng các con bò kia để thờ cúng Phao-lô và Ba-na-ba. Nhưng rồi cuối cùng họ quyết định thôi không làm nữa.
\s5
\v 19 Tuy nhiên, có một số người Do Thái từ An-ti-ốt và Y-cô-ni đến thuyết phục nhiều người tại Lít-trơ rằng sứ điệp mà Phao-lô rao giảng không phải là sự thật. Những kẻ tin lời mấy người Do Thái đó nổi giận với Phao-lô. Họ để cho người Do Thái ném đá ông cho đến khi ông gục xuống bất tỉnh. Họ nghĩ ông đã chết, nên kéo ông ra bên ngoài thành phố và bỏ ông nằm đó.
\v 20 Nhưng khi có một số tín hữu tại Lít-trơ đến đứng quanh chỗ Phao-lô đang nằm dưới đất thì ông tỉnh lại! Ông đứng lên cùng các tín hữu đi trở vào thành. Ngày hôm sau, Phao-lô và Ba-na-ba rời thành Lít-trơ để đến thành Đẹt-bơ.
\s5
\v 21 Họ ở đó mấy ngày và cứ nói cho mọi người biết Phúc Âm về Chúa Giê-xu. Nhiều người đã trở thành tín hữu. Sau đó, Phao-lô và Ba-na-ba lên đường quay trở về. Một lần nữa họ trở lại Lít-trơ. Từ đó họ đến Y-cô-ni, và rồi đến thành An-ti-ốt trong tỉnh Bi-si-đi.
\v 22 Tại mỗi nơi, họ nài khuyên các tín hữu cứ tin cậy Chúa Giê-xu. Họ nói với các tín hữu: “Chúng ta phải chịu nhiều khó khăn gian khổ trước khi Đức Chúa Trời cai trị trên chúng ta mãi mãi.”
\s5
\v 23 Phao-lô và Ba-na-ba chọn lãnh đạo cho mỗi Hội Thánh. Trước khi rời khỏi nơi nào, Phao-lô và Ba-na-ba tập trung các tín hữu lại, dành thì giờ kiêng ăn, cầu nguyện. Rồi hai ông giao phó những người lãnh đạo cùng các tín hữu cho Chúa Giê-xu, là Đấng họ đã tin, để Ngài chăm sóc họ.
\v 24 Sau khi Phao-lô và Ba-na-ba đã đi khắp xứ Bi-si-đi thì họ đi về phía Nam đến xứ Bam-phi-li.
\v 25 Tại đây, họ đến thành Bẹt-giê và rao giảng sứ điệp của Đức Chúa Trời về Chúa Giê-xu cho dân chúng tại đó. Rồi họ đi xuống vùng duyên hải ở thị trấn Át-ta-li.
\v 26 Tại đó họ lên tàu trở về thành phố An-ti-ốt trong xứ Sy-ri. Đó là nơi Phao-lô và Ba-na-ba đã được chọn để ra đi rao giảng, cũng là nơi các tín hữu đã cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ Phao-lô và Ba-na-ba trong công tác mà giờ đây họ đã hoàn tất.
\s5
\v 27 Khi đến thành An-ti-ốt, Phao-lô và Ba-na-ba tập trung các tín hữu lại. Rồi hai ông thuật lại cho họ mọi việc mà Đức Chúa Trời đã giúp họ thực hiện. Đặc biệt, hai ông cho các tín hữu biết thể nào Đức Chúa Trời đã khiến nhiều người thuộc dân ngoại tin nhận Chúa Giê-xu.
\v 28 Sau đó Phao-lô và Ba-na-ba ở lại An-ti-ốt cùng các tín hữu khác trong một thời gian dài.
\s5
\c 15
\p
\v 1 Lúc đó có một số tín hữu người Do Thái từ xứ Giu-đê xuống An-ti-ốt. Họ bắt đầu dạy dỗ các tín hữu người thuộc dân ngoại rằng: “Anh em phải chịu cắt bì để chứng tỏ mình thuộc về Đức Chúa Trời, như Môi-se đã truyền dạy trong các điều luật mà ông nhận lãnh từ Đức Chúa Trời. Nếu không làm vậy thì anh em sẽ không được cứu. ”
\v 2 Phao-lô và Ba-na-ba mạnh mẽ phản đối những người Do Thái kia và bắt đầu tranh cãi với họ. Vậy là các tín hữu tại An-ti-ốt chỉ định Phao-lô và Ba-na-ba cùng một số tín hữu khác đi Giê-ru-sa-lem để bàn bạc vấn đề này với các sứ đồ và những người lãnh đạo khác.
\s5
\v 3 Sau khi Phao-lô, Ba-na-ba và những người khác được các tín hữu tại An-ti-ốt sai đi, họ băng qua xứ Phê-ni-xi và Sa-ma-ri. Dọc đường, mỗi khi dừng lại tại nơi nào, họ tường trình cho các tín hữu tại nơi đó biết rằng nhiều người thuộc dân ngoại đã tin Chúa. Vì vậy, tất cả các tín hữu tại những nơi đó rất vui mừng.
\v 4 Khi Phao-lô, Ba-na-ba và những người khác đến Giê-ru-sa-lem, họ được các sứ đồ, các trưởng lão và các tín hữu tại đó đón tiếp. Rồi Phao-lô và Ba-na-ba thuật lại những việc Đức Chúa Trời đã giúp họ thực hiện giữa những người thuộc dân ngoại.
\s5
\v 5 Nhưng có một số tín hữu Do Thái thuộc phái Pha-ri-si đứng lên giữa các tín hữu khác và nói với họ rằng: “Những người thuộc dân ngoại tin Chúa Giê-xu phải chịu cắt bì, và cũng cần phải dạy họ tuân giữ các luật lệ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Môi-se. ”
\v 6 Sau đó các sứ đồ và các trưởng lão họp lại để bàn về vấn đề này.
\s5
\v 7 Sau khi đã bàn luận rất lâu, Phi-e-rơ đứng lên nói với mọi người, rằng: “Thưa các anh em tín hữu, hết thảy anh em đều biết rằng từ lâu Đức Chúa Trời đã chọn tôi trong vòng các sứ đồ, để tôi cũng nói cho dân ngoại về tình yêu của Đức Chúa Trời, hầu cho họ cũng tin Ngài.
\v 8 Đức Chúa Trời biết lòng mọi người. Ngài đã tỏ cho tôi cùng những người khác biết rằng Ngài đã chấp nhận những người thuộc dân ngoại làm con cái của Ngài bằng cách ban Đức Thánh Linh cho họ, y như Ngài đã ban cho chúng ta.
\v 9 Đức Chúa Trời không phân biệt chúng ta với họ, vì Ngài đã khiến họ thanh sạch trong lòng chỉ bởi đức tin họ đặt nơi Chúa Giê-xu. Đó chính là phương cách Ngài đã tha thứ cho chúng ta.
\s5
\v 10 Vì sao anh em lại muốn ép buộc các tín hữu người ngoại tuân giữ các nghi thức và luật lệ của người Do Thái chúng ta? Làm vậy chẳng khác nào đặt một gánh nặng lên họ, vì chúng ta ép họ phải tuân giữ những luật lệ mà cả cha ông chúng ta lẫn người Do Thái chúng ta ngày nay đều không theo nổi!
\v 11 Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời cứu người Do Thái chúng ta nhờ vào những gì mà Chúa Giê-xu đã làm cho chúng ta. Đức Chúa Trời cứu chúng ta y như cách Ngài cứu những người thuộc dân ngoại đã tin Chúa Giê-xu vậy."
\s5
\v 12 Sau khi Phi-e-rơ nói xong, mọi người có mặt đều yên lặng. Rồi họ lắng nghe Ba-na-ba và Phao-lô thuật lại nhiều phép lạ lớn lao mà Đức Chúa Trời đã khiến họ thực hiện giữa những người thuộc dân ngoại, là những phép lạ cho thấy Đức Chúa Trời đã chấp nhận người thuộc dân ngoại.
\s5
\v 13 Khi Ba-na-ba và Phao-lô nói xong, Gia-cơ, lãnh đạo của nhóm tín hữu tại Giê-ru-sa-lem, nói với họ: “Thưa anh em tín hữu, xin hãy nghe tôi nói đây.
\v 14 Si-môn Phi-e-rơ đã cho anh em biết thể nào trước đây Đức Chúa Trời đã ban ơn cho dân ngoại. Đức Chúa Trời làm việc đó bằng cách lựa chọn giữa vòng họ một dân thuộc riêng về Ngài.
\s5
\v 15 Những lời mà Đức Chúa Trời phán cách đây đã lâu, là lời được viết ra bởi một trong các tiên tri, nói lên ý này, rằng:
\v 16 Sau đó, Ta sẽ trở lại và chọn một vua từ dòng dõi của Đa-vít, giống như người ta xây lại ngôi nhà sau khi nó bị đổ xuống.
\v 17 Ta sẽ làm điều này để cho mọi người khác có thể ra sức tìm kiếm Ta, tức Chúa là Đức Chúa Trời. Thậm chí, trong đó sẽ có những người thuộc dân ngoại mà Ta đã kêu gọi để thuộc về Ta. Các con có thể tin chắc rằng việc này sẽ xảy ra vì chính Ta, Chúa là Đức Chúa Trời, đã phán những lời này.
\v 18 Từ lâu, Ta đã làm những điều này và khiến cho dân Ta biết về chúng.”
\s5
\v 19 Gia-cơ tiếp tục nói rằng: “Vì vậy, tôi nghĩ chúng ta đừng gây rắc rối cho những người thuộc dân ngoại đã từ bỏ tội lỗi mà quay về với Đức Chúa Trời. Nghĩa là, chúng ta không nên bắt họ phải vâng giữ mọi luật lệ và nghi lễ của chúng ta.
\v 20 Thay vào đó, chúng ta nên viết thư cho họ, yêu cầu họ bốn điều, đó là: Không được ăn thịt người ta đã dâng cúng cho thần tượng, không được phạm tội gian dâm, không được ăn thịt thú vật chết ngạt, và không được ăn huyết thú vật.
\v 21 Lâu nay, tại nhiều thành phố người ta vẫn công bố những điều luật mà Môi-se đã viết ra, là những luật ngăn cấm các việc ấy. Trong mỗi ngày Sa-bát, các luật lệ đó vẫn được đọc tại các nơi nhóm họp của người Do Thái. Cho nên, nếu người thuộc dân ngoại nào muốn biết thêm về các luật lệ này thì họ có thể tìm hiểu tại các nhà hội.”
\s5
\v 22 Các sứ đồ và các trưởng lão, cùng với mọi tín hữu khác tại Giê-ru-sa-lem, đồng ý với những gì Gia-cơ vừa nói. Họ quyết định chọn ra một số người có mặt tại đó và sai đến An-ti-ốt cùng với Phao-lô và Ba-na-ba, để thông báo cho các tín hữu tại đây biết quyết định của những người lãnh đạo tại Giê-ru-sa-lem. Vậy là họ chọn Giu-đe, còn gọi là Ba-sa-ba, và Si-la. Cả hai người đều là những người lãnh đạo nhóm tín hữu tại Giê-ru-sa-lem.
\v 23 Rồi họ viết thư nhờ Giu-đa và Si-la mang đến các tín hữu tại An-ti-ốt. Thư viết: “Chúng tôi là các sứ đồ và trưởng lão, những người có cùng đức tin với anh em, gởi lời chào thăm anh em, là những tín hữu sống tại An-ti-ốt cũng như các nơi khác trong xứ Sy-ri và Si-li-si.
\s5
\v 24 Chúng tôi được biết có một số người trong chúng tôi đã đến chỗ anh em, mặc dầu chúng tôi không hề sai phái họ. Chúng tôi nghe nói họ đã làm anh em lo phiền khi nói những điều khiến anh em phải suy nghĩ.
\v 25 Vì vậy, sau khi họp nhau tại đây, chúng tôi quyết định chọn ra một số người và nhờ họ đến với anh em, cùng với Ba-na-ba và Phao-lô là những người chúng tôi rất quý mến.
\v 26 Hai người ấy đã liều mình để phục vụ Đức Chúa Cứu Thế Giê-xu chúng ta.
\s5
\v 27 Chúng tôi cũng sai phái Giu-đe và Si-la đến với anh em. Họ sẽ trực tiếp nói cho anh em những điều mà chúng tôi viết trong thư.
\v 28 Dường như cả Đức Thánh Linh và chúng tôi đều thấy rằng không nên yêu cầu anh em phải vâng giữ đủ thứ luật lệ phiền toái của người Do Thái. Thay vào đó, chúng tôi chỉ yêu cầu anh chị em tuân thủ các huấn thị sau đây:
\v 29 Anh em không được ăn thịt mà người ta đã dâng cúng cho thần tượng. Anh em không được ăn huyết của động vật; cũng không được ăn thịt những con vật chết ngạt. Ngoài ra, anh em cũng không được phạm tội gian dâm. Nếu anh chị em tránh xa các tội này thì anh em đang làm điều đúng đắn. Kính chào.”
\s5
\v 30 Bốn người được chọn từ Giê-ru-sa-lem đi đến An-ti-ốt. Khi tất cả các tín hữu tại đây nhóm họp lại thì họ trao thư cho.
\v 31 Các tín hữu đọc thư và rất vui mừng vì nội dung trong thư đã khích lệ họ.
\v 32 Vốn là tiên tri, nên Giu-đe và Si-la phát biểu nhiều điều khích lệ các tín hữu tại đó và giúp họ thêm lòng tin cậy mạnh mẽ nơi Chúa Giê-xu.
\s5
\v 33 Sau khi Giu-đe và Si-la đã lưu lại một thời gian và chuẩn bị quay trở về Giê-ru-sa-lem, thì các tín hữu tại An-ti-ốt chúc họ mạnh khỏe, và họ lên đường.
\v 34 Các bản sao chép cổ xưa đáng tin cậy nhất lượt bỏ câu 34 (tham khảo Công Vụ Các Sứ Đồ 15: 40). Câu 34, Nhưng Si-la nghĩ rằng tốt nhất ông nên ở lại đó.
\v 35 Tuy nhiên, Phao-lô và Ba-na-ba còn ở lại An-ti-ốt. Trong thời gian đó, họ cùng với nhiều người khác cứ giảng dạy sứ điệp về Chúa Giê-xu cho mọi người.
\s5
\v 36 Sau một thời gian, Phao-lô nói với Ba-na-ba: “Chúng ta hãy quay trở lại thăm viếng các anh em tín hữu tại những thành phố mà trước đây chúng ta đã rao giảng sứ điệp về Chúa Giê-xu. Như thế, chúng ta sẽ biết được họ có còn tin nơi Chúa Giê-xu hay không.
\v 37 Ba-na-ba đồng ý với Phao-lô, và nói muốn đem Giăng, còn gọi là Mác, cùng đi với họ một lần nữa.
\v 38 Tuy nhiên, Phao-lô nói với Ba-na-ba rằng theo ông, họ không nên đem Mác theo, vì trước đây, khi họ đến vùng Bam-phi-li thì Mác đã bỏ ngang, không tiếp tục công tác với họ.
\s5
\v 39 Phao-lô và Ba-na-ba bất đồng với nhau dữ dội về vấn đề này, nên họ phân rẽ nhau. Ba-na-ba đem Mác cùng đi với mình. Họ xuống tàu đi đến đảo Chíp-rơ.
\v 40 Còn Phao-lô thì chọn Si-la, lúc đó đã quay lại An-ti-ốt, để làm việc với mình. Các tín hữu ở đó cầu nguyện cùng Chúa là Đức Chúa Trời, xin Ngài giúp đỡ cho Phao-lô và Si-la. Rồi hai người rời khỏi An-ti-ốt.
\v 41 Phao-lô tiếp tục đi cùng Si-la qua xứ Sy-ri và Si-li-si. Tại các nơi này họ giúp các nhóm tín hữu mạnh mẽ tin cậy Chúa Giê-xu.
\s5
\c 16
\p
\v 1 Phao-lô và Si-la đến thành Đẹt-bơ và Lít-trơ viếng thăm các tín hữu tại đó. Có một tín hữu tên là Ti-mô-thê sống tại Lít-trơ. Mẹ của anh là một tín hữu người Do Thái, nhưng cha anh là người Hy Lạp.
\v 2 Các tín hữu Tại Lít-trơ và Y-cô-ni đều nói tốt về Ti-mô-thê,
\v 3 và Phao-lô muốn đem Ti-mô-thê đi cùng mình đến những nơi khác, nên ông làm cắt bì cho Ti-mô-thê. Ông làm vậy để những người Do Thái sống tại những nơi đó chấp nhận Ti-mô-thê, vì họ biết rằng cha của anh chưa làm cắt bì cho anh.
\s5
\v 4 v 4 Vậy, Ti-mô-thê cùng đi với Phao-lô và Si-la đến nhiều thị trấn khác. Tại mỗi thị trấn, họ cho các tín hữu biết những quy định đã được các sứ đồ và trưởng lão tại Giê-ru-sa-lem thông qua.
\v 5 Họ giúp tín hữu tại các thị trấn này thêm lòng tin cậy Chúa Giê-xu, và mỗi ngày đều có thêm người tin Chúa.
\s5
\v 6 Đức Thánh Linh ngăn Phao-lô và các bạn đồng hành giảng đạo ở Châu Á, nên họ đi ngang qua xứ Phi-ri-gi và Ga-la-ti.
\v 7 Họ đến ranh giới của xứ My-si-a và muốn đi lên phía bắc mà vào Bi-thi-ni, nhưng một lần nữa Thánh Linh của Chúa Giê-xu ngăn không cho họ đến đó.
\v 8 Vì vậy, họ băng qua xứ My-si-a và đến Trô-ách, một thành phố ven biển.
\s5
\v 9 Đêm đó, Đức Chúa Trời ban cho Phao-lô một khải tượng, ông thấy một người đến từ tỉnh Ma-xê-đoan kêu mình, rằng: “Hãy đến Ma-xê-đoan cứu giúp chúng tôi! ”
\v 10 Sau khi Phao-lô thấy khải tượng, chúng tôi lên đường đi Ma-xê-đoan vì chúng tôi tin rằng Đức Chúa Trời đã kêu gọi chúng tôi rao giảng Phúc âm cho dân chúng tại đó.
\s5
\v 11 Chúng tôi xuống tàu ở Trô-ách để đi Sa-mô-tra-xơ, và ngày hôm sau thì đến thành phố Nê-a-pô-li.
\v 12 Rồi chúng tôi rời Nê-a-pô-li đi đến Phi-líp. Đây là thành phố rất quan trọng tại Ma-xê-đoan, nơi có nhiều công dân La Mã sinh sống. Chúng tôi lưu lại Phi-líp nhiều ngày.
\v 13 Vào ngày Sa-bát, chúng tôi ra ngoài thành, đến mé sông. Chúng tôi nghe nói có người Do Thái nhóm lại cầu nguyện tại đó. Đến nơi, chúng tôi thấy có một số phụ nữ đã nhóm lại cầu nguyện, vậy, chúng tôi ngồi xuống và bắt đầu nói cho họ nghe về Chúa Giê-xu.
\s5
\v 14 Trong số các phụ nữ đang nghe Phao-lô giảng, có một phụ nữ tên là Ly-đi. Chị đến từ thành Thi-a-ti-rơ, bán vải tía, và kính thờ Đức Chúa Trời. Chúa là Đức Chúa Trời khiến chị chăm chú nghe sứ điệp mà Phao-lô nói ra, và chị bằng lòng tin.
\v 15 Sau khi Phao-lô và Si-la làm báp-têm cho Ly-đi cùng những người khác sống cùng nhà với chị, thì chị nói với họ: “Nếu hai ông tin rằng tôi trung tín với Chúa thì xin hãy đến ở tại nhà tôi. ” Nghe chị nói vậy, chúng tôi đến trú ngụ tại nhà chị.
\s5
\v 16 Một ngày kia, trên đường đi đến nơi nhóm họp cầu nguyện thì chúng tôi gặp một thiếu nữ nô lệ. Một tà linh đã cho cô khả năng đoán trước tương lai của người khác. Người ta trả tiền cho những người chủ của cô để cô cho họ biết chuyện gì sẽ xảy đến với họ.
\v 17 Thiếu nữ này đi theo Phao-lô và chúng tôi mà la lên: “Những người này phục vụ Đức Chúa Trời, là Đấng cao cả nhất trong tất cả các vị thần! Họ sẽ nói cho các người biết phương cách Đức Chúa Trời cứu rỗi các người."
\v 18 Cô cứ làm như vậy trong nhiều ngày. Cuối cùng, Phao-lô nổi giận, quay sang cô và nói với tà linh đang ở trong cô: “Nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-xu, hãy ra khỏi cô ấy! ” Tức thì tà linh lìa khỏi cô.
\s5
\v 19 Những người chủ nhận thấy cô không còn kiếm được tiền cho họ nữa vì cô không thể tiên đoán việc sẽ xảy đến cho người ta, nên họ rất tức giận. Họ lôi Phao-lô và Si-la đến quãng trường nơi có trụ sở lãnh đạo thành phố.
\v 20 Các chủ nhân của người thiếu nữ đem hai người trình diện các vị lãnh đạo thành phố và thưa rằng: “Mấy người này là dân Do Thái, đang gây nhiều phiền toái cho dân chúng trong thành phố chúng ta.
\v 21 Họ dạy rằng chúng ta phải theo những luật lệ mà luật pháp không cho phép người La Mã chúng ta vâng giữ!”
\s5
\v 22 Nhiều người trong đám đông hùa theo những kẻ đang tố cáo Phao-lô và Si-la, và họ bắt đầu đánh đập hai ông. Kế đó các vị lãnh đạo người La Mã sai lính lột áo của Phao-lô và Si-la, dùng roi đánh đòn họ.
\v 23 Vậy là quân lính dùng roi đánh đập họ dã man. Sau đó, họ giam hai ông vào ngục và căn dặn viên cai ngục phải bảo đảm họ không thể trốn thoát.
\v 24 Vì các quan chức đã ra lệnh như vậy, nên viên cai ngục đem Phao-lô và Si-la giam vào tận buồng giam trong cùng. Ông ta để hai người ngồi dưới nền dạng chân họ ra. Rồi ông khóa chặt cổ chân họ vào giữa hai mảnh gỗ lớn có khoét lỗ, để Phao-lô và Si-la không thể cử động chân.
\s5
\v 25 Khoảng nửa đêm, khi Phao-lô và Si-la đang cầu nguyện và hát ca ngợi Đức Chúa Trời. Các tù nhân khác đều lắng nghe họ.
\v 26 Đột nhiên, có một trận động đất cường độ cực mạnh làm rung chuyển nhà lao. Trận động đất khiến tất cả các cánh cửa trong nhà lao bật mở và mọi dây xích trói buộc tù nhân bung ra.
\s5
\v 27 Viên cai ngục thức giấc thấy cửa nhà giam mở toang vì trận động đất. Ông nghĩ rằng tù nhân đã thoát ra ngoài, nên rút gươm ra định tự vẫn, vì ông biết giới lãnh đạo thành phố sẽ xử tử ông nếu tù nhân trốn thoát.
\v 28 Phao-lô nhìn thấy viên cai ngục và la lên: “Xin đừng tự hại mình! Tù nhân chúng tôi còn cả đây!”
\s5
\v 29 Viên cai ngục lớn tiếng gọi người đem đuốc đến để ông kiểm tra xem những ai còn lại trong ngục. Sợ run người, ông quỳ xuống trước mặt Phao-lô và Si-la.
\v 30 Rồi ông đưa Phao-lô và Si-la ra khỏi phòng giam và hỏi: “Thưa các ông, tôi phải làm gì để được cứu? ”
\v 31 Hai ông đáp: “Hãy tin cậy Chúa Giê-xu, thì ông và cả nhà ông sẽ được cứu.”
\s5
\v 32 Rồi Phao-lô và Si-la nói về Chúa Giê-xu cho ông và tất cả mọi người trong nhà.
\v 33 Sau đó viên cai ngục lau rửa vết thương cho hai ông, ngay giữa đêm khuya. Rồi Phao-lô và Si-la làm báp-têm cho ông cùng mọi người trong nhà.
\v 34 Viên cai ngục đem Phao-lô và Si-la về nhà, cho họ ăn uống. Ông và cả nhà rất vui mừng vì mình đã tin Đức Chúa Trời.
\s5
\v 35 Sáng hôm sau, những người lãnh đạo thành phố sai mấy người lính đến nhà giam nói với viên cai ngục: “Hãy thả hai tù nhân kia ra! ”
\v 36 Viên cai ngục nghe xong liền đến nói với Phao-lô: “Các vị lãnh đạo thành phố truyền cho tôi phóng thích các ông. Vậy bây giờ hai ông có thể ra khỏi tù và đi bình an!”
\s5
\v 37 Nhưng Phao-lô nói với viên cai ngục: “Những người lãnh đạo thành phố đã cho người đánh đập chúng tôi trước mặt mọi người, bất chấp chúng tôi là công dân La Mã, rồi tống chúng tôi vào ngục. Giờ họ lại âm thầm thả chúng tôi ra! Chúng tôi không chấp nhận như vậy! Chính những người lãnh đạo đó phải đến đây thả chúng tôi ra. ”
\v 38 Vậy, những người lính đi báo lại cho những người lãnh đạo thành phố điều Phao-lô đã nói. Khi các vị lãnh đạo này biết được Phao-lô và Si-la là công dân La Mã, thì họ rất lo sợ vì đã làm một việc sai trái.
\v 39 Thế là họ đến với Phao-lô và Si-la, xin lỗi hai ông về những gì họ đã gây ra cho hai ông. Các vị lãnh đạo thành phố đưa họ ra khỏi ngục và yêu cầu họ rời khỏi thành phố.
\s5
\v 40 Sau khi Phao-lô và Si-la ra khỏi ngục, đến nhà Ly-đi. Ở đó, họ gặp Ly-đi và các tín hữu khác. Hai sứ đồ khích lệ các tín hữu tiếp tục tin cậy Chúa Giê-xu, rồi họ rời khỏi thành Phi-líp.
\s5
\c 17
\p
\v 1 Họ đi qua hai thành Am-phi-pô-li và A-pô-li-ni đến thành Tê-sa-lô-ni-ca. Tại đây có một nhà hội của người Do Thái.
\v 2 Vào ngày Sa-bát, Phao-lô đến nhà hội như ông vẫn thường làm. Trong ba tuần, ông đều đến đó vào ngày Sa-bát. Ông cho mọi người biết thế nào Kinh Thánh đã phán rằng Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế.
\s5
\v 3 Ông dùng Kinh Thánh để chứng minh các nhà tiên tri đã viết rằng Đấng Mê-si-a sẽ phải chết và sống lại. Ông nói: “Con người Giê-xu này chính là Đấng Cứu Thế. Ngài đã chết và sau đó Ngài sống lại, y như lời các tiên tri đã nói trước. ”
\v 4 Một số người Do Thái tại đó tin lời Phao-lô rao giảng và bắt đầu tiếp xúc với Phao-lô và Si-la. Cũng có nhiều người thuộc dân ngoại và các quý bà thờ kính Đức Chúa Trời tin sứ điệp về Chúa Giê-xu, và họ cũng bắt đầu gặp gỡ Phao-lô cùng Si-la.
\s5
\v 5 Nhưng một số người lãnh đạo Do Thái phẫn nộ vì nhiều người tin vào những điều Phao-lô truyền dạy. Vì thế họ đến quảng trường thuyết phục một số kẻ gian ác theo mình. Bằng cách đó, những người lãnh đạo Do Thái đã tập hợp được một đám đông và xúi giục họ gây ồn ào. Những người Do Thái đó cùng với mấy người kia kéo đến nhà của một người tên là Gia-sôn, nơi Phao-lô và Si-la đang ở. Họ định đem Phao-lô và Si-la ra chỗ đám đông đang tụ tập.
\v 6 Không tìm thấy Phao-lô và Si-la ở nhà, vì chỉ thấy Gia-sôn nên họ bắt anh. Họ lôi anh cùng với các tín hữu đang có mặt với anh đến chỗ các vị lãnh đạo thành phố. Họ nói rằng: “Bọn người đã đi khắp nơi gây rối giờ cũng đã đến đây,
\v 7 và gã Gia-sôn này đã chứa chấp họ. Họ đang chống lại hoàng đế. Họ nói rằng một kẻ khác, tên là Giê-xu, mới thật là vua!”
\s5
\v 8 Nghe thấy vậy, đám đông dân chúng và những người lãnh đạo thành phố rất tức giận và kích động.
\v 9 Lãnh đạo thành phố bắt Gia-sôn và các tín hữu kia nộp phạt và cho biết họ sẽ hoàn tiền lại nếu Phao-lô và Si-la không còn gây rắc rối nữa. Rồi họ cho Gia-sôn và các tín hữu kia ra về.
\s5
\v 10 Thế là ngay đêm hôm đó, các tín hữu đưa Phao-lô và Si-la rời khỏi Tê-sa-lô-ni-ca để đi Bê-rê. Khi Phao-lô và Si-la đến đó, họ lại vào nhà hội của người Do Thái.
\v 11 Đa số người Do Thái tại Tê-sa-lô-ni-ca chưa sẵn sàng để nghe sứ điệp của Đức Chúa Trời, nhưng những người Do Thái sống tại Bê-rê lại sẵn sàng, nên họ chăm chú lắng nghe sứ điệp về Chúa Giê-xu.
\v 12 Qua sự dạy dỗ của Phao-lô, nhiều người Do Thái đã tin Chúa Giê-xu; cũng có một số quý bà cùng nhiều người thuộc dân ngoại tin Ngài.
\s5
\v 13 Nhưng rồi người Do Thái tại Tê-sa-lô-ni-ca hay được Phao-lô đang ở Bê-rê rao giảng sứ điệp của Đức Chúa Trời về Chúa Giê-xu. Thế là họ đến Bê-rê gieo rắc những điều khiến dân chúng ở đó nổi giận cùng Phao-lô.
\v 14 Một số tín hữu tại Bê-rê đưa Phao-lô ra bờ biển để đến thành phố khác. Còn Si-la và Ti-mô-thê vẫn ở lại Bê-rê.
\v 15 Khi Phao-lô và những người kia tới bờ biển, họ xuống tàu đi đến thành A-thên. Rồi Phao-lô nói với những người đi cùng ông rằng: “Hãy bảo Si-la và Ti-mô-thê đến gặp tôi tại A-thên sớm nhất có thể. ” Rồi những người đó rời A-thên quay trở về Bê-rê.
\s5
\v 16 Tại A-thên, Phao-lô chờ Si-la và Ti-mô-thê đến. Trong lúc chờ đợi, ông đi dạo quanh thành phố. Ông rất đau lòng vì trong thành có quá nhiều hình tượng.
\v 17 Vậy, ông đến nhà hội Do Thái và nói chuyện với người Do Thái, cùng những người Hy Lạp đã chấp nhận niềm tin của người Do Thái, về Chúa Giê-xu. Mỗi ngày ông cũng đến quảng trường và trò chuyện với những người mà ông gặp.
\s5
\v 18 Phao-lô gặp một số giáo sư thích luận bàn về niềm tin của họ. Trong số họ có một vài người theo trường phái hưởng lạc, số khác theo trường phái khắc kỷ. Họ nói cho Phao-lô nghe điều họ tin, và cũng hỏi về niềm tin của ông. Rồi có mấy người nói với nhau: “Ông ta nói về những vị thần lạ. ” Họ nói vậy vì Phao-lô nói với họ rằng Chúa Giê-xu đã chết và rồi sau đó sống lại.
\s5
\v 19 Vậy, họ đưa ông đến chỗ những người lãnh đạo thành phố hội họp. Khi đến nơi, họ nói với Phao-lô: “Xin cho chúng tôi biết sứ điệp mới mẻ mà ông đang truyền dạy cho dân chúng là gì?
\v 20 Ông dạy những điều chúng tôi không hiểu, nên chúng tôi muốn biết những điều đó có nghĩa là gì. ”
\v 21 Dân thành A-thên cũng như người từ các nơi khác đến đây sinh sống thích bàn về những điều mới mẻ đối với họ.
\s5
\v 22 Thế là Phao-lô đứng lên trước mặt mọi người và nói rằng: “Anh em dân thành A-thên thân mến, tôi thấy anh em rất mộ đạo.
\v 23 Tôi nói vậy vì trong lúc đi dạo, tôi nhìn thấy các thần tượng mà anh em thờ lạy; thậm chí tôi còn thấy một bàn thờ có khắc dòng chữ: BÀN THỜ VỊ THẦN CHÚNG TÔI KHÔNG BIẾT. Cho nên bây giờ tôi sẽ nói về Vị Thần mà anh em đang thờ phượng nhưng không biết là ai.
\s5
\v 24 Ngài là Đức Chúa Trời đã tạo dựng thế giới này và mọi vật trong đó. Ngài cai trị muôn loài trên trời lẫn dưới đất, Ngài không sống trong các đền miếu người ta xây dựng.
\v 25 Ngài không cần người ta làm bất kỳ điều gì cho Ngài vì Ngài khiến cho con người sống và thở, và ban cho họ mọi thứ họ cần.
\s5
\v 26 Ban đầu Đức Chúa Trời tạo dựng nên một cặp vợ chồng, và từ họ Ngài sinh ra mọi dân tộc hiện đang sinh sống khắp nơi trên đất. Ngài đặt mỗi dân tộc vào đúng vị trí và thời điểm.
\v 27 Ngài muốn người ta nhận biết rằng họ cần Ngài. Rồi biết đâu họ sẽ tìm kiếm Ngài và gặp được Ngài. Đức Chúa Trời muốn chúng ta tìm kiếm Ngài, mặc dầu Ngài ở rất gần mỗi chúng ta.
\s5
\v 28 Chính nhờ Đức Chúa Trời mà chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu, như một người trong anh em đã nói: Vì chúng ta là con cái Ngài.
\v 29 Như vậy, vì chúng ta là con cái Đức Chúa Trời, nên chúng ta đừng nghĩ rằng Ngài giống như vàng, bạc hay đá được người ta chế tác thành hình dạng nào đó.
\s5
\v 30 Trong thời kỳ con người chưa biết điều Đức Chúa Trời muốn họ làm, thì Ngài không hình phạt họ vì các việc họ làm. Nhưng giờ đây Đức Chúa Trời truyền cho mọi người ở khắp mọi nơi từ bỏ các việc làm gian ác của mình.
\v 31 Ngài cho chúng ta biết rằng đến ngày Ngài đã định, Ngài sẽ phán xét tất cả chúng ta một cách công minh bởi Đấng mà Ngài đã chọn, và Ngài đã khiến Đấng ấy sống lại từ cõi chết để bảo đảm rằng chúng ta hiểu điều này.”
\s5
\v 32 Khi nghe Phao-lô nói về một người sống lại sau khi chết, có mấy người trong số họ cười nhạo ông. Nhưng một số khác mời ông quay trở lại vào một dịp khác để nói cho họ biết về điều này.
\v 33 Sau khi nghe họ nói như vậy, Phao-lô bỏ đi.
\v 34 Tuy nhiên, có mấy người đi theo Phao-lô và tin sứ điệp về Chúa Giê-xu. Trong số những người tin Chúa Giê-xu ấy có một người tên Đê-ni. Ngoài ra, còn có một phụ nữ tên Đa-ma-ri và một số người khác cũng tin.
\s5
\c 18
\p
\v 1 Sau đó, Phao-lô rời thành A-thên đến thành Cô-rinh-tô.
\v 2 Tại Cô-rinh-tô, ông gặp một người Do Thái tên là A-qui-la, đến từ xứ Bông. A-qui-la và vợ là Bê-rít-sin vừa từ thành Rô-ma, xứ Y-ta-li, đến đây được một thời gian ngắn. Họ rời khỏi Rô-ma vì Cơ-lốt, hoàng đế La Mã, đã ra lệnh cho tất cả những người Do Thái phải rời khỏi đó.
\v 3 A-qui-la và Bê-rít-sin sống bằng nghề may lều trại. Phao-lô cũng làm nghề này, nên ông lưu lại với họ, và họ cùng làm việc với nhau.
\s5
\v 4 Mỗi ngày Sa-bát, Phao-lô đến nhà hội Do Thái, nói chuyện với cả người Do Thái lẫn người thuộc dân ngoại. Ông dạy họ về Chúa Giê-xu.
\v 5 Sau đó Si-la và Ti-mô-thê từ vùng Ma-xê-đoan đến. Khi họ đến, Phao-lô không hành nghề may trại nữa. Ông dành hết thì giờ nói về Chúa Giê-xu cho người Do Thái. Ông nói với họ rằng Chúa Giê-xu chính là Đấng Cứu Thế.
\v 6 Nhưng người Do Thái bắt đầu chống đối Phao-lô và vu cáo ông. Vì vậy, ông giũ áo để cho họ thấy Đức Chúa Trời không hài lòng về họ, rồi ông nói với họ: “Nếu Đức Chúa Trời hình phạt các người thì đó là do các người, không phải do tôi! Từ rày trở đi tôi sẽ giảng dạy cho những người thuộc dân ngoại!”
\s5
\v 7 Vậy, Phao-lô rời khỏi nhà hội Do Thái và vào một ngôi nhà kế bên nhà hội mà giảng dạy. Ti-ti-u Giút-tu, chủ nhà, là một người thuộc dân ngoại thờ kính Đức Chúa Trời.
\v 8 Sau đó, người quản lý nhà hội Do Thái, tên là Cơ-rít-bu, cùng cả gia đình tin Chúa Giê-xu. Nhiều người khác tại Cô-rinh-tô nghe Phao-lô giảng cũng tin Chúa Giê-xu và nhận báp-têm.
\s5
\v 9 Một đêm nọ Phao-lô thấy một khải tượng trong đó Chúa Giê-xu phán với ông: “Đừng sợ những người chống đối con, hãy tiếp tục nói về Ta,
\v 10 vì Ta sẽ ở cùng con và không ai có thể làm hại con được. Hãy cứ nói cho dân chúng về Ta, vì trong thành phố này có nhiều người thuộc về Ta. ”
\v 11 Vì vậy Phao-lô ở lại Cô-rinh-tô trong một năm rưỡi, truyền dạy cho dân chúng sứ điệp của Đức Chúa Trời về Chúa Giê-xu.
\s5
\v 12 Khi Ga-li-ôn lên làm tổng đốc La Mã cai quản xứ A-chai thì những người lãnh đạo Do Thái họp lại với nhau bắt giữ Phao-lô. Họ đem ông đến trước mặt quan tổng đốc và tố cáo ông,
\v 13 rằng: “Tên này dạy người ta thờ phượng Đức Chúa Trời theo cách trái với luật pháp của người Do Thái chúng tôi.”
\s5
\v 14 Khi Phao-lô định lên tiếng thì Ga-li-ôn nói với mấy người Do Thái đó: “Nếu người này vi phạm luật La Mã thì tôi sẽ nghe dân Do Thái các ông trình bày.
\v 15 Tuy nhiên, các ông lại nói về những từ ngữ, danh hiệu và luật lệ riêng của dân Do Thái các ông, nên chính các ông phải tự giải quyết với anh ta. Tôi không xử những chuyện thế này!”
\s5
\v 16 Nói xong, Ga-li-ôn truyền quân lính đuổi những lãnh đạo Do Thái kia ra khỏi tòa án.
\v 17 Rồi người ta bắt Sốt-then, lãnh đạo của người Do Thái, đánh đập ông ngay trước mặt quan tòa. Nhưng Ga-li-ôn chẳng can thiệp gì cả.
\s5
\v 18 Phao-lô ở lại với các tín hữu Cô-rinh-tô thêm nhiều ngày nữa. Rồi ông cùng Bê-rít-sin và A-qui-la xuống tàu đi đến tỉnh Sy-ri. Tại Sen-cơ-rê ông đã cạo đầu vì một lời thề nguyện mà ông đã lập.
\v 19 Họ đến thành phố Ê-phê-sô, Bê-rít-sin và A-qui-la ở lại đó. Còn Phao-lô thì đi vào nhà hội Do Thái nói về Chúa Giê-xu cho người Do Thái.
\s5
\v 20 Họ yêu cầu ông ở lại thêm, nhưng ông từ chối.
\v 21 Nhưng khi rời đi, ông bảo họ: “Tôi sẽ quay trở lại, nếu Đức Chúa Trời muốn. ” Rồi ông xuống tàu rời khỏi Ê-phê-sô.
\s5
\v 22 Khi tàu đến thành Sê-sa-rê, Phao-lô lên bờ và đi thẳng lên Giê-ru-sa-lem chào hỏi các tín hữu tại đó. Rồi ông đến thành An-ti-ốt thuộc xứ Sy-ri.
\v 23 Phao-lô ở lại với các tín hữu tại đó một thời gian. Rồi ông rời An-ti-ốt và theo đường bộ đến nhiều thành trong xứ Ga-la-ti và Phi-ri-gi. Ông nài khuyên các tín hữu thêm lên lòng tin cậy vào sứ điệp của Đức Chúa Trời về Chúa Giê-xu.
\s5
\v 24 Khi Phao-lô đi qua các nơi trong xứ Ga-la-ti và Phi-ri-gi thì có một người Do Thái tên A-pô-lô đến Ê-phê-sô. Ông từ thành A-léc-xan-đờ-ri-a đến và rất giỏi Kinh Thánh.
\v 25 Các tín hữu khác đã dạy cho A-pô-lô biết Chúa Giê-xu muốn người ta sống thế nào, và ông hăng hái dạy lại những điều đó cho người khác. Tuy nhiên, ông không truyền dạy hết mọi điều về Chúa Giê-xu, vì ông chỉ biết phép báp-têm của Giăng Báp-tít.
\v 26 A-pô-lô đến nhà hội và nói với những người ở đó về những điều ông đã học được. Khi Bê-rít-sin và A-qui-la nghe những điều ông dạy, họ mời ông về nhà và chỉ dạy thêm về Chúa Giê-xu cho ông.
\s5
\v 27 Khi A-pô-lô quyết định đi đến vùng A-chai thì các tín hữu tại Ê-phê-sô rất đồng tình với quyết định của ông. Họ viết thư cho các tín hữu tại A-chai để những người này tiếp đón A-pô-lô. Sau khi đến đó, A-pô-lô giúp đỡ những người được Đức Chúa Trời, bởi lòng nhân từ, đã cảm động họ tin Chúa Giê-xu.
\v 28 A-pô-lô nói chuyện với những người lãnh đạo Do Thái một cách đầy uy quyền trong khi nhiều người khác ngồi nghe. Nhờ đọc Kinh Thánh, ông có thể chỉ cho họ thấy rằng Chúa Giê-xu chính là Đấng Mê-si-a.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Trong khi A-pô-lô ở Cô-rinh-tô thì Phao-lô rời Phi-ri-gi và Ga-la-ti băng qua vùng Tiểu Á để trở lại Ê-phê-sô. Ông gặp một số người tự nhận mình là các tín hữu.
\v 2 Ông hỏi họ: “Anh em đã nhận lãnh Đức Thánh Linh khi tin sứ điệp của Đức Chúa Trời chưa? ” Họ đáp: “Chưa, chúng tôi thậm chí còn không biết là có Đức Thánh Linh.”
\s5
\v 3 Phao-lô hỏi họ: “Vậy, khi nhận báp-têm, thì anh em đã biết những gì? ” Họ trả lời: “Chúng tôi tin những điều Giăng Báp-Tít dạy. ”
\v 4 Phao-lô nói: “Giăng làm báp-têm cho những người từ bỏ việc làm gian ác của mình. Ông cũng bảo người ta phải tin Đấng sẽ đến sau ông, và Đấng đó là Chúa Giê-xu.”
\s5
\v 5 Khi những người này nghe như vậy, họ chịu báp-têm trong danh Chúa Giê-xu.
\v 6 Phao-lô đặt tay lên đầu từng người, và quyền năng của Đức Thánh Linh giáng xuống trên họ. Đức Thánh Linh ban cho họ năng quyền nói các thứ tiếng mà họ chưa từng học, và họ cũng nói ra sứ điệp mà Đức Thánh Linh truyền cho mình.
\v 7 Có khoảng mười hai người được Phao-lô làm báp-têm và nhận được Đức Thánh Linh.
\s5
\v 8 Trong ba tháng tiếp theo, cứ đến ngày Sa-bát thì Phao-lô vào nhà hội Do Thái tại Ê-phê-sô giảng dạy và thuyết phục người ta về Chúa Giê-xu cũng như về việc Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ vương quyền của Ngài.
\v 9 Nhưng một số người Do Thái không tin sứ điệp và cũng không muốn nghe thêm nữa. Họ nói xấu đủ thứ về những điều Phao-lô dạy. Vậy, Phao-lô bỏ họ và đem riêng các tín hữu ra, nhóm lại tại hội trường Ti-ra-nu.
\v 10 Phao-lô giảng dạy tại đó trong hai năm. Nhờ vậy, phần lớn người Do Thái và dân ngoại sống trong vùng Tiểu Á đều được nghe sứ điệp về Chúa Giê-xu.
\s5
\v 11 Đức Chúa Trời cũng ban cho Phao-lô quyền năng làm phép lạ.
\v 12 Những ai bị bệnh không thể đến với Phao-lô thì người ta lấy mấy tấm vải mà Phao-lô đã chạm đến đắp lên những người bệnh đó. Kết quả là người bệnh được lành và tà linh ra khỏi họ.
\s5
\v 13 Cũng có một số người Do Thái đi từ nơi này đến nơi khác ra lệnh cho các tà linh ra khỏi người bị ám. Vài người trong số họ truyền cho tà linh ra khỏi người mà chúng ám thế này: “Bởi quyền năng của Chúa Giê-xu, Đấng mà Phao-lô rao giảng, ta truyền cho mày phải ra khỏi! ”
\v 14 Có bảy người thực hành cách đuổi quỷ ấy. Họ là các con trai của một người Do Thái tên Sê-va, tự xưng mình là thầy tế lễ cả.
\s5
\v 15 Nhưng một ngày nọ, khi họ đang làm như vậy, thì tà linh không chịu ra khỏi người bị ám. Thay vào đó, nó nói với họ: “Ta biết Giê-xu, và ta cũng biết Phao-lô, nhưng chẳng có ai cho các ngươi quyền năng để làm bất cứ điều gì với ta! ”
\v 16 Sau khi nói xong, người bị tà linh ám bất ngờ nhảy bổ vào các con trai Sê-va. Anh ta đánh ngã cả bọn, hành hạ từng người. Anh ta xé quần áo họ và gây thương tích cho họ. Họ kinh hoảng bỏ chạy khỏi nhà.
\v 17 Tất cả mọi người sống tại Ê-phê-sô, cả người Do Thái lẫn ngoại quốc, đều sợ hãi vì thấy người bị quỷ ám kia quá mạnh mẽ. Đồng thời, họ cũng tôn kính danh Chúa Giê-xu.
\s5
\v 18 Cùng lúc đó, trong khi các tín hữu khác nghe giảng thì nhiều tín hữu xưng ra những việc gian ác mà họ đã làm.
\v 19 Một số người là phù thủy đem hết sách vở dạy cách làm phép thuật ra đốt công khai trước mắt mọi người. Khi người ta tính giá các sách vở đó thì số tiền lên đến năm mươi ngàn đồng bạc.
\v 20 Nhờ vậy, nhiều người nghe biết sứ điệp về Chúa Giê-xu và tin Ngài.
\s5
\v 21 Sau khi Phao-lô làm xong việc tại Ê-phê-sô, Thánh Linh cảm thúc ông quyết định đi Giê-ru-sa-lem, nhưng trước hết ông muốn đi thăm các tín hữu trong xứ Ma-xê-đoan và A-chai. Phao-lô nói: “Sau khi đi Giê-ru-sa-lem, thì tôi sẽ đi Rô-ma. ”
\v 22 Ông phái hai phụ tá là Ti-mô-thê và Ê-rát sang Ma-xê-đoan, còn ông tiếp tục lưu lại thành Ê-phê-sô trong xứ Tiểu Á.
\s5
\v 23 Chẳng bao lâu sau, dân chúng tại Ê-phê-sô bắt đầu gây nhiều rắc rối vì cớ Chúa Giê-xu và sự dạy dỗ về Ngài.
\v 24 Có một người tên Đê-mê-triu, chuyên đúc tượng nữ thần Đi-anh bằng bạc. Đê-mê-triu giúp tất cả những người đúc và bán những hình tượng này kiếm được nhiều tiền.
\v 25 Đê-mê-triu tập hợp những thợ đúc tượng lại, rồi nói với họ: “Này các anh, các anh biết là công việc này sinh lợi rất nhiều cho chúng ta.
\s5
\v 26 Các anh cũng biết là tên Phao-lô đã dạy nhiều người sống ở Ê-phê-sô đừng mua tượng mà chúng ta đúc ra. Giờ đây, ngay cả cư dân ở nhiều thị trấn khác trong tỉnh cũng không còn muốn mua tượng của chúng ta nữa. Tên Phao-lô nói với dân chúng rằng các thần mà chúng ta thờ không phải là thần, và chúng ta không nên thờ họ nữa.
\v 27 Nếu dân chúng nghe theo hắn thì việc kinh doanh của chúng ta cũng chấm dứt. Dân chúng sẽ không còn nghĩ rằng phải đến đền thờ của Đi-anh để thờ cúng nữ thần nữa. Họ sẽ không còn nghĩ rằng Đi-anh rất vĩ đại nữa. Trong khi đó, toàn tỉnh Tiểu Á và thậm chí cả thế giới đều thờ nữ thần!”
\s5
\v 28 Mọi người có mặt đều phẫn nộ với Phao-lô khi họ nghe lời Đê-mê-triu nói. Họ hô lớn: “Nữ thần Đi-anh của người Ê-phê-sô thật vĩ đại! ”
\v 29 Nhiều người trong thành phố cũng phẫn nộ với Phao-lô và bắt đầu gào thét. Một số người bắt Gai-út và A-ri-tạt, hai người bạn đồng hành với Phao-lô từ Ma-xê-đoan đến. Rồi cả đám người vừa chạy vừa kéo hai người đến hội trường thành phố.
\s5
\v 30 Phao-lô muốn đến hội trường để nói chuyện với dân chúng, nhưng các tín hữu khác không để cho ông đi.
\v 31 Một số lãnh đạo thành phố là bạn của Phao-lô hay được những gì đang xảy ra. Họ sai người đến bảo Phao-lô đừng đến hội trường.
\v 32 Đám đông trong hội trường tiếp tục hò hét. Mỗi người hét một kiểu. Nhưng phần lớn những người này thậm chí còn chẳng biết vì sao họ tập hợp ở đó!
\s5
\v 33 Một trong những người Do Thái có mặt tại đó tên là A-léc-xan-đơ. Một số người Do Thái đẩy anh ta lên trước đám đông để anh ta nói với dân chúng. A-léc-xan-đơ đưa tay lên ra dấu để mọi người im lặng. Anh ta muốn nói cho họ biết rằng không phải người Do Thái muốn gây rắc rối.
\v 34 Nhưng nhiều người thuộc dân ngoại biết A-léc-xan-đơ là người Do Thái, và cũng biết rằng người Do Thái không thờ nữ thần Đi-anh. Vì vậy, trong suốt hai tiếng đồng hồ, những người thuộc dân ngoại này cứ tiếp tục reo hò: “Vĩ đại thay nữ thần Đi-anh của người Ê-phê-sô!”
\s5
\v 35 Rồi một trong những người lãnh đạo thành phố yêu cầu đám đông thôi hò hét. Ông ta nói với họ: “Thưa các công dân trong thành phố, mọi người trên thế giới đều biết pho tượng nữ thần Đi-anh thiêng liêng của chúng ta từ trên trời sa xuống!
\v 36 Mọi người đều biết điều đó, và không ai có thể chối cãi được. Cho nên, xin anh em hãy bình tĩnh. Xin đừng làm việc gì dại dột.
\v 37 Đáng ra anh em chẳng nên đem hai người này đến đây, vì họ chưa làm điều ác nào cả. Họ chưa từng vào các đền đài của chúng ta lấy bất kỳ thứ gì, và họ cũng chưa nói phạm đến nữ thần của chúng ta.
\s5
\v 38 Vì vậy, nếu Đê-mê-triu và các đồng nghiệp của ông ta muốn cáo buộc bất kỳ ai về tội nào, thì họ phải thực hiện việc đó theo đúng thủ tục. Họ có thể đến tòa án nếu họ muốn, ở đó có những quan án được chính quyền chọn ra. Ở đó anh em có thể thưa kiện bất kỳ ai.
\v 39 Nhưng nếu anh em thắc mắc việc gì khác thì anh em nên yêu cầu các vị lãnh đạo của anh em xem xét khi họ họp lại.
\v 40 Tụ tập thế này thật không phải! Anh em phải cẩn thận giải quyết việc này vì chúng ta không muốn chống đối chính quyền. Nếu các vị lãnh đạo hỏi tôi anh em náo động về việc gì thì e tôi sẽ không thể trả lời họ một cách thỏa đáng được. ”
\v 41 Đó là lời vị lãnh đạo thành phố nói với đám đông. Sau đó ông ta bảo họ giải tán và họ ra về.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Sau khi dân chúng tại Ê-phê-sô ngưng náo loạn, Phao-lô nhóm các tín hữu lại. Ông nài khuyên họ tiếp tục tin cậy Chúa Giê-xu. Sau đó không lâu, ông tạm biệt họ để đi Ma-xê-đoan.
\v 2 Khi đến đó, ông nài khuyên các tín hữu tiếp tục tin cậy Chúa Giê-xu. Rồi ông sang Hy Lạp.
\v 3 Ông lưu lại Hy Lạp trong ba tháng. Tiếp đến, Phao-lô định quay trở về Sy-ri bằng đường biển, nhưng ông hay tin một số người Do Thái ở đó đang tìm cách giết ông trên đường đi. Vậy, Phao-lô quyết định đi bằng đường bộ, và một lần nữa ông đi ngang qua xứ Ma-xê-đoan.
\s5
\v 4 v 4 Những người sẽ cùng đi với Phao-lô đến Giê-ru-sa-lem gồm Sô-ba-tê, con trai Bi-ru, người Bê-rê; A-ri-tạc và Xê-cun-đu, người Tê-sa-lô-ni-ca; Gai-út, người thành Đẹt-bơ; Ti-mô-thê, gốc ở vùng Ga-la-ti; Ti-chi-cơ và Trô-phin, quê ở xứ A-si.
\v 5 Bảy người đó đi bằng tàu trước Phao-lô và tôi, Lu-ca, họ xuất phát từ Ma-xê-đoan nên đến thành Trô-ách trước chúng tôi và chờ hai chúng tôi ở đó.
\v 6 Phao-lô và tôi thì đi bằng đường bộ đến thành Phi-líp. Sau lễ Bánh Không Men của người Do Thái, chúng tôi lên tàu đến Trô-ách. Năm ngày sau, chúng tôi đến Trô-ách và gặp những người đã đến đây trước chúng tôi. Rồi tất cả chúng tôi ở lại Trô-ách trong bảy ngày.
\s5
\v 7 Vào ngày đầu tiên của tuần lễ, chúng tôi họp lại và dùng bữa với nhau cùng các tín hữu khác. Phao-lô nói chuyện với các tín hữu đến tận nửa đêm vì ông định hôm sau sẽ rời Trô-ách.
\v 8 Người ta thắp nhiều đèn dầu trong căn phòng trên lầu nơi chúng tôi nhóm họp.
\s5
\v 9 Một thanh niên tên Ơ-tích cũng dự nhóm. Anh ngồi trên bậu cửa sổ đang mở ở tầng ba của ngôi nhà. Khi Phao-lô cứ tiếp tục nói trong một thời gian dài, thì Ơ-tích càng thêm buồn ngủ. Cuối cùng, anh ngủ gật và rơi từ cửa sổ xuống đất. Một số tín hữu chạy ngay xuống đỡ anh dậy, nhưng anh đã chết.
\v 10 Phao-lô cũng xuống. Ông cúi sát xuống úp mình trên người anh, tay ôm lấy anh. Rồi ông nói với những người đang xúm lại chung quanh: “Đừng lo cậu ấy sống lại rồi!”
\s5
\v 11 Phao-lô trở lên lầu, ông chuẩn bị thức ăn và dùng bữa. Sau đó, ông lại nói chuyện với các tín hữu cho đến rạng sáng rồi mới đi.
\v 12 Những người khác đưa anh thanh niên về nhà và được an ủi rất nhiều vì anh đã sống lại.
\s5
\v 13 Rồi chúng tôi ra bến tàu. Nhưng Phao-lô không xuống tàu cùng chúng tôi tại Trô-ách, vì ông muốn đi đường bộ để đến A-sốt cho nhanh. Số người còn lại chúng tôi thì xuống tàu đi A-sốt.
\v 14 Chúng tôi gặp lại Phao-lô tại A-sốt. Ông xuống tàu với chúng tôi và tất cả cùng đi đến thành Mi-ti-len.
\s5
\v 15 Ngày hôm sau, chúng tôi đến Mi-ti-len, từ đó chúng tôi đi tiếp và đến một nơi gần đảo Chi-ô. Ngày kế tiếp, chúng tôi đi thuyền đến đảo Sa-mốt. Kế đến, chúng tôi rời Sa-mốt đi thuyền đến thành Mi-lê.
\v 16 Mi-lê ở ngay phía nam thành Ê-phê-sô. Phao-lô không muốn dừng lại tại Ê-phê-sô vì ông không muốn dành thời gian ở Tiểu Á. Ông muốn đến Giê-ru-sa-lem cho kịp thời điểm lễ Ngũ tuần, vốn đã gần rồi.
\s5
\v 17 Khi tàu đến Mi-lê, Phao-lô phái một sứ giả đến Ê-phê-sô mời các trưởng lão của nhóm tín hữu tại đó đến nói chuyện với ông.
\v 18 Khi các trưởng lão đã đến, Phao-lô nói với họ: “Từ ngày đầu tiên tôi đến xứ Tiểu Á này cho tới khi tôi từ giã anh em, anh em biết tôi đã sống thế nào giữa vòng anh em trong suốt thời gian tôi ở với anh em.
\v 19 Anh em biết tôi vẫn khiêm tốn phục vụ Chúa Giê-xu thế nào và đôi khi tôi phải đổ nước mắt ra sao. Anh em cũng biết tôi đã chịu khổ thế nào vì những người Do Thái chưa tin thường tìm cách hãm hại tôi.
\v 20 Anh em cũng biết rằng khi tôi rao giảng sứ điệp của Đức Chúa Trời cho anh em, tôi chưa bao giờ bỏ sót điều gì ích lợi cho anh em. Anh em biết rằng tôi đã truyền dạy sứ điệp của Đức Chúa Trời cho anh em khi có mặt nhiều người, và tôi cũng đến nhà riêng của anh em để dạy dỗ anh em.
\v 21 Tôi rao giảng cho cả người Do Thái lẫn người thuộc dân ngoại, nói với hết thảy mọi người rằng họ phải từ bỏ nếp sống tội lỗi của mình và tin Chúa Giê-xu.”
\s5
\v 22 “Giờ đây tôi sắp đi Giê-ru-sa-lem, vì Đức Thánh Linh đã tỏ cho tôi một cách rõ ràng rằng tôi phải đi đến đó, và tôi phải vâng theo Ngài. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy đến cho tôi tại đó.
\v 23 Nhưng tôi biết rằng tại mỗi thành phố mà tôi đã ghé thăm thì Đức Thánh Linh đều cho tôi biết tại Giê-ru-sa-lem, người ta sẽ bắt giam tôi và hành hạ tôi.
\v 24 Nhưng tôi không quan tâm, cho dù người ta có giết chết tôi đi nữa, miễn sao tôi có thể làm xong công việc mà Chúa Giê-xu đã giao cho tôi làm. Ngài kêu gọi tôi để nói cho mọi người biết Phúc Âm về việc Đức Chúa Trời cứu chúng ta bằng cách làm cho chúng ta điều chúng ta không xứng đáng nhận lãnh.
\s5
\v 25 Tôi đã rao giảng cho anh em sứ điệp nói về phương cách Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ vương quyền của Ngài. Nhưng bây giờ tôi biết rằng đây là lần cuối anh em tín hữu gặp tôi.
\v 26 Vậy nên tôi muốn hết thảy anh em hiểu rằng nếu có ai đó đã nghe tôi giảng rồi qua đời mà chưa tin cậy Chúa Giê-xu, thì đó không phải là lỗi của tôi,
\v 27 vì tôi đã bày tỏ cho anh em biết mọi điều mà Đức Chúa Trời đã hoạch định cho chúng ta.
\s5
\v 28 Anh em là những người lãnh đạo cần phải tiếp tục tin và vâng theo sứ điệp của Đức Chúa Trời. Anh em cũng phải giúp các tín hữu khác, là những người mà Đức Thánh Linh đã giao cho anh em chăm sóc. Hãy giữ lấy mình và tập thể tín hữu của Chúa như người chăn canh giữ bầy chiên của mình. Đức Chúa Trời đã chuộc mua anh em bằng máu mà Con Ngài đã đổ ra trên cây thập hình.
\v 29 Tôi biết rất rõ rằng sau khi tôi ra đi, sẽ có những kẻ dạy dỗ điều dối trá xen vào giữa vòng anh em và sẽ gây tổn hại lớn cho các tín hữu. Họ sẽ giống như chó sói hung dữ giết hại bầy chiên.
\v 30 Ngay cả trong nhóm lãnh đạo của anh em cũng sẽ có người lừa dối các tín hữu khác bằng cách dạy họ những điều sai trật. Họ sẽ dạy những sứ điệp đó để lôi kéo một số người tin theo họ và trở thành môn đồ của họ.
\s5
\v 31 Vậy nên, hãy cảnh giác để đừng có ai trong anh em đánh mất lòng tin nơi sứ điệp chân thật về Chúa Giê-xu chúng ta! Hãy nhớ rằng trong suốt ba năm, cả ngày lẫn đêm, tôi đã dạy cho anh em sứ điệp đó và đổ nước mắt mà nài khuyên anh em trung tín với Chúa. ”
\v 32 “Giờ đây, khi tôi từ giã anh em, tôi cầu xin Đức Chúa Trời bảo vệ anh em và giúp anh em vững vàng tin vào sứ điệp cho biết Ngài cứu chúng ta bằng cách thực hiện cho chúng ta điều mà chúng ta không xứng đáng nhận lãnh. Nếu anh em cứ tin sứ điệp mà tôi đã truyền cho thì anh em sẽ nên mạnh mẽ, và Đức Chúa Trời sẽ mãi mãi ban cho anh em những phước lành mà Ngài đã hứa ban cho những người thuộc về Ngài.
\s5
\v 33 Về phần tôi, tôi không bao giờ muốn tiền bạc hoặc quần áo đẹp của ai.
\v 34 Chính anh em biết rằng tôi đã dùng đôi tay này để kiếm tiền nuôi sống tôi và bạn bè tôi.
\v 35 Trong mọi việc tôi làm, tôi đã cho anh em thấy rằng chúng ta phải chăm chỉ làm việc để có đủ tiền chia sẻ cho những người thiếu thốn. Chúng ta phải nhớ chính Chúa Giê-xu chúng ta từng nói: “Một người sẽ hạnh phúc khi ban cho hơn là khi nhận lãnh từ người khác. ’”
\s5
\v 36 Khi Phao-lô nói xong, ông quỳ gối xuống cầu nguyện cùng với tất cả các trưởng lão.
\v 37 Ai nấy đều khóc rất nhiều, và họ ôm hôn Phao-lô.
\v 38 Họ rất buồn vì ông nói rằng họ sẽ không bao giờ gặp lại ông. Rồi tất cả mọi người tiễn ông ra bến tàu.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Sau khi từ giã các trưởng lão Ê-phê-sô, chúng tôi xuống tàu và đi bằng đường biển đến đảo Cốt, nơi tàu neo đậu để nghỉ đêm. Ngày hôm sau chúng tôi đi tiếp từ đảo Cốt đến đảo Rô-đơ, và tàu lại thả neo tại đây. Ngày sau đó chúng tôi đến thị trấn Ba-ta-ra, và tàu cũng neo đậu lại lần nữa.
\v 2 Tại Ba-ta-ra chúng tôi lên bờ, có người cho chúng tôi biết có một con tàu khác sắp đi Phê-ni-xi. Vì thế chúng tôi xuống tàu đó và đi.
\s5
\v 3 Chúng tôi đi trên biển cho đến khi có thể nhìn thấy đảo Chíp-rơ. Chúng tôi băng qua phía nam của đảo và tiếp tục đi cho đến khi đến thành Ty-rơ thuộc vùng Phê-ni-xi, trong xứ Sy-ri. Tàu phải neo đậu ở đây nhiều ngày để nhân công dỡ hàng.
\v 4 Có người cho chúng tôi biết nơi ở của các tín hữu tại Ty-rơ, nên chúng tôi đến lưu lại với họ bảy ngày. Vì Thánh Linh của Đức Chúa Trời bày tỏ cho họ biết người ta sẽ bức hại Phao-lô tại Giê-ru-sa-lem, nên họ khuyên Phao-lô đừng nên đến đó.
\s5
\v 5 Nhưng đến lúc tàu lại rời bến, chúng tôi chuẩn bị để tiếp tục hành trình đến Giê-ru-sa-lem. Khi chúng tôi rời khỏi Ty-rơ, tất cả đàn ông, vợ và con họ đều ra tiễn chúng tôi ở mé biển. Tại đó, tất cả chúng tôi quỳ xuống bên bờ biển mà cầu nguyện.
\v 6 Sau khi tất cả chúng tôi chào từ biệt nhau xong, Phao-lô và chúng tôi là những cộng sự của ông xuống tàu, còn các tín hữu kia quay trở về nhà.
\s5
\v 7 Sau khi rời khỏi Ty-rơ, chúng tôi tiếp tục đi trên con tàu đó đến đảo Bê-tô-lê-mai. Ở đó cũng có các tín hữu nên chúng tôi đến thăm họ và ở lại với họ đêm hôm ấy.
\v 8 Ngày kế tiếp, chúng tôi rời Bê-tô-lê-mai và đi tàu đến thành Sê-sa-rê, tại đó chúng tôi ở lại nhà của Phi-líp, là người đã dành thời giờ nói cho người khác biết cách để trở nên môn đồ của Chúa Giê-xu. Ông là một trong bảy người mà các tín hữu tại Giê-ru-sa-lem đã chọn để chăm sóc các góa phụ.
\v 9 Ông có bốn cô con gái sống độc thân, thường nói ra sứ điệp mà Đức Thánh Linh bày tỏ cho mình.
\s5
\v 10 Khi chúng tôi ở nhà Phi-líp được mấy ngày thì có một tín hữu tên A-ga-bút từ Giu-đê xuống Sê-sa-rê. Anh này thường nói ra sứ điệp mà Đức Chúa Trời đã tỏ cho anh biết.
\v 11 Sau khi đến thẳng chỗ chúng tôi đang ở, anh cởi dây nịt lưng của Phao-lô ra. Rồi anh lấy dây nịt đó tự buộc chân tay của mình lại, và nói: “Đức Thánh Linh phán: Những người lãnh đạo Do Thái tại Giê-ru-sa-lem sẽ trói tay chân của chủ nhân chiếc dây nịt này như thế này, và họ sẽ giao nộp người cho người ngoại như tù nhân. ’”
\s5
\v 12 Khi những người còn lại trong chúng tôi nghe như vậy, chúng tôi và các tín hữu khác tại đó xin Phao-lô: “Xin anh đừng lên Giê-ru-sa-lem làm gì! ”
\v 13 Nhưng Phao-lô đáp: “Xin đừng khóc lóc và tìm cách làm tôi nản lòng! Vì sao anh em làm như vậy để làm gì? Tôi sẵn sàng đi tù và cũng bằng lòng chết tại Giê-ru-sa-lem vì tôi hầu việc Chúa Giê-xu. ”
\v 14 Khi chúng tôi hiểu rằng ông đã nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem thì chúng tôi không tìm cách ngăn ông nữa. Chúng tôi nói: “Nguyện ý Chúa được nên!”
\s5
\v 15 Sau những ngày lưu lại tại Sê-sa-rê, chúng tôi chuẩn bị hành trang và khởi hành bằng đường bộ đến Giê-ru-sa-lem.
\v 16 Một số tín hữu ở Sê-sa-rê cũng đi với chúng tôi. Họ đưa chúng tôi đến ở nhà của một người tên Ma-na-sôn. Anh này là người đảo Chíp-rơ, và anh đã tin Chúa Giê-xu khi người dân ở đây lần đầu được nghe sứ điệp về Ngài.
\s5
\v 17 Khi chúng tôi đến Giê-ru-sa-lem, một nhóm tín hữu vui vẻ chào đón chúng tôi.
\v 18 Ngày hôm sau, Phao-lô và những người còn lại trong chúng tôi đến nói chuyện với Gia-cơ, lãnh đạo Hội Thánh ở đây. Tất cả những người lãnh đạo khác trong Hội Thánh cũng có mặt.
\v 19 Phao-lô chào hỏi họ và rồi ông thuật lại cho họ mọi điều Đức Chúa Trời đã giúp ông thực hiện giữa những người thuộc dân ngoại.
\s5
\v 20 Sau khi nghe xong, Gia-cơ và các trưởng lão khác cảm tạ Đức Chúa Trời. Rồi một người trong số họ nói với Phao-lô: “Người anh em, anh biết là hàng ngàn người Do Thái chúng ta tại đây đã tin Chúa Giê-xu. Và anh cũng biết là tất cả chúng tôi vẫn tiếp tục cẩn thận vâng giữ luật lệ mà Môi-se đã truyền cho chúng ta.
\v 21 Nhưng các anh em tín hữu người Do Thái nghe nói khi anh ở với những người thuộc dân ngoại thì anh bảo các tín hữu người Do Thái sống ở đó không nên vâng giữ luật pháp Môi-se nữa. Người ta còn bảo rằng anh khuyên các tín hữu Do Thái ở đó đừng làm phép cắt bì cho con trai mình và cũng đừng giữ những phong tục khác của chúng ta. Chúng tôi không tin những gì họ nói về anh.
\s5
\v 22 Nhưng các anh em tín hữu người Do Thái của chúng ta sẽ hay tin anh đã đến, và họ sẽ nổi giận với anh. Vì thế, anh cần phải làm điều gì đó để cho họ thấy những gì họ nghe nói về anh là không đúng.
\v 23 Vậy, xin hãy làm thế này. Có bốn người trong chúng tôi ở đây đã thề nguyện với Đức Chúa Trời.
\v 24 Hãy cùng đi với những người này lên đền thờ và thực hiện các nghi thức mà anh và những người đó cần thực hiện để có thể thờ phượng trong đền thờ. Rồi đến lúc họ dâng sinh tế thì hãy chi trả cho của lễ mà họ dâng lên. Sau đó, họ có thể cạo đầu mình để tỏ ra rằng họ đã thực hiện những điều họ đã hứa nguyện. Khi người ta thấy anh trong sân đền thờ với những người đó, thì họ sẽ biết rằng những gì họ nghe về anh là không đúng. Thay vào đó, mọi người sẽ biết rằng anh có vâng giữ mọi luật lệ của người Do Thái chúng ta.
\s5
\v 25 Về phần các tín hữu thuộc dân ngoại, các trưởng lão chúng tôi tại Giê-ru-sa-lem đã nói cho họ biết họ phải tuân giữ những luật lệ nào của chúng ta, và chúng tôi đã viết thư báo cho họ quyết định của chúng tôi. Chúng tôi đã viết trong thư rằng họ không được ăn thịt đã dâng cúng cho bất kỳ thần tượng nào, không được ăn huyết thú vật, và không được ăn thịt thú vật chết ngạt. Chúng tôi cũng cho họ biết rằng họ không được gian dâm. ”
\v 26 Vậy, Phao-lô đồng ý làm theo điều họ yêu cầu. Ngày hôm sau, ông đem bốn người đi và họ cùng tẩy uế mình. Sau đó, Phao-lô đến sân đền thờ báo cho thầy tế lễ ngày nào họ sẽ tẩy uế xong cũng như khi nào họ sẽ dâng sinh tế cho từng người trong nhóm.
\s5
\v 27 Khi bảy ngày tự tẩy uế gần xong thì Phao-lô trở lại sân đền thờ. Một số người Do Thái từ Tiểu Á đến trông thấy ông ở đó thì họ nổi giận với ông. Họ kêu nhiều người Do Thái khác trong sân đền thờ đến giúp họ bắt Phao-lô.
\v 28 Họ la lên: “Thưa đồng bào Y-sơ-ra-ên, xin hãy đến giúp chúng tôi trừng phạt tên này! Đây chính là kẻ đi đến đâu cũng dạy người ta khinh miệt dân Do Thái. Hắn dạy người ta không nên tiếp tục tuân giữ luật lệ Môi-se hoặc tôn trọng đền thờ thánh này. Thậm chí hắn còn đem những người thuộc dân ngoại vào trong sân đền thờ của chúng ta, khiến nơi này bị ô uế! ”
\v 29 Họ nói như vậy vì đã nhìn thấy Phao-lô đi lại trong thành Giê-ru-sa-lem cùng với Trô-phim, một người thuộc dân ngoại. Luật của họ không cho phép người thuộc dân ngoại vào đền thờ, và họ nghĩ rằng hôm ấy Phao-lô đã đem Trô-phim vào sân đền thờ.
\s5
\v 30 Dân chúng khắp nơi trong thành phố nghe nói có rắc rối tại sân đền thờ, nên họ chạy đến. Họ bắt Phao-lô và kéo ông ra ngoài khu vực đền thờ. Các cửa dẫn vào sân đền thờ đều đóng lại, để người ta không gây bạo loạn trong khu vực đền thờ.
\v 31 Trong lúc họ đang cố giết chết Phao-lô thì có người chạy đến đồn lính gần đền thờ báo cho viên chỉ huy người La Mã rằng nhiều người ở Giê-ru-sa-lem đang gây bạo loạn tại đền thờ.
\s5
\v 32 Viên chỉ huy liền dẫn theo mấy sĩ quan và một toán lính rất đông chạy ngay đến khu vực đền thờ nơi đám đông đang tụ tập. Khi đám đông dân chúng đang la hét và đánh đập Phao-lô nhìn thấy viên chỉ huy cùng binh lính xuất hiện thì họ thôi đánh ông.
\v 33 Viên chỉ huy đến chỗ Phao-lô và bắt giữ ông. Ông ta ra lệnh cho quân lính buộc dây xích vào tay của Phao-lô. Rồi ông hỏi những người có mặt trong đám đông: “Người này là ai, và anh ta đã làm gì?”
\s5
\v 34 Những người có mặt ở đó người thì nói thế này, kẻ thì nói thế nọ. Vì họ cứ hò hét lớn tiếng nên viên chỉ huy không hiểu họ muốn nói gì. Vậy nên ông ta ra lệnh đưa Phao-lô về đồn để có thể tra hỏi ông.
\v 35 Binh lính dẫn Phao-lô đến các bậc tam cấp dẫn vào đồn, nhưng nhiều người vẫn cứ bám theo, tìm cách giết chết Phao-lô. Vì vậy, viên chỉ huy bảo lính khiêng Phao-lô lên các bậc thềm để đưa vào trong đồn.
\v 36 Đám đông đeo bám vẫn không ngừng hò hét: “Giết chết hắn đi! Giết chết hắn đi!”
\s5
\v 37 Khi Phao-lô sắp bị đưa vào trong đồn, ông nói với viên chỉ huy bằng tiếng Hy Lạp: “Tôi có thể nói với ông vài lời được chứ? ” Viên chỉ huy đáp: “Tôi rất ngạc nhiên vì ông lại nói được tiếng Hy Lạp!
\v 38 Tôi cứ nghĩ ông là cái gã Ai Cập có ý nổi loạn chống lại chính quyền cách đây không lâu, và đã dẫn bốn ngàn kẻ hung bạo trốn ra ngoài hoang mạc kia chứ.”
\s5
\v 39 Phao-lô đáp: “Không, không phải. Tôi là người Do Thái. Tôi sinh ra ở Tạt-sơ, một thành phố quan trọng trong tỉnh Si-li-si. Tôi xin ông cho phép tôi nói chuyện với dân chúng. ”
\v 40 Viên chỉ huy đồng ý để cho Phao-lô nói. Vậy là Phao-lô đứng trên các bậc thềm, lấy tay ra dấu để đám đông trật tự. Sau khi dân chúng yên lặng, Phao-lô nói với họ bằng tiếng Hy-bá của họ.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Phao-lô nói: “Thưa các vị trưởng lão, cùng đồng bào Do Thái của tôi, xin hãy nghe điều tôi sắp nói với những kẻ buộc tội mình! ”
\v 2 Khi đám đông dân chúng nghe Phao-lô nói bằng tiếng Hy-bá, là ngôn ngữ của họ, thì họ yên lặng lắng nghe. Phao-lô nói với họ rằng:
\s5
\v 3 “Tôi là người Do Thái, giống như tất cả anh em. Tôi sinh ra ở thành Tạt-sơ, trong tỉnh Si-li-si, nhưng tôi lớn lên tại Giê-ru-sa-lem. Khi tôi còn trẻ, tôi được học luật pháp mà Môi-se đã truyền cho tổ phụ chúng ta. Ga-ma-li-ên là thầy dạy của tôi. Tôi vâng giữ những luật lệ đó vì tôi muốn vâng lời Đức Chúa Trời, và tôi chắc rằng hết thảy anh em cũng vâng giữ luật pháp đó.
\v 4 Đó là lý do vì sao tôi đã từng tìm cách bắt giữ những ai tin theo sứ điệp của Đức Chúa Trời về Chúa Giê-xu. Tôi đã tìm cách để tiêu diệt họ. Hễ phát hiện người nào tin sứ điệp ấy, bất kể là nam hay nữ, thì tôi tống họ vào tù.
\v 5 Các thầy tế lễ thượng phẩm biết điều này, và những người khác trong Hội Đồng Tôn giáo Do Thái cũng vậy. Họ đã trao thư cho tôi mang đến cho anh em người Do Thái của họ ở thành Đa-mách. Các lá thư này cho tôi thẩm quyền đến đó bắt giữ những người tin Chúa Giê-xu và dẫn giải họ như tù nhân về Giê-ru-sa-lem, để họ chịu xử phạt.
\s5
\v 6 Vậy là tôi đi Đa-mách. Khoảng giữa trưa, khi tôi đến gần Đa-mách, bất ngờ có ánh sáng chói lòa từ trên trời lóe sáng chung quanh tôi.
\v 7 Ánh sáng ấy chói lòa đến nỗi tôi té ngã xuống đất. Rồi tôi nghe tiếng của ai đó từ trên trời phán với tôi, rằng: Sau-lơ! Sau-lơ! Sao ngươi làm những việc gây tổn thương Ta?
\v 8 Tôi đáp: Thưa Chúa, Chúa là ai? Đấng đó đáp: Ta là Giê-xu Na-xa-rét, Đấng mà ngươi đang bức hại.
\s5
\v 9 Những người cùng đi với tôi thấy ánh sáng chói lòa đó, nhưng họ không hiểu tiếng phán đó nói gì.
\v 10 Rồi tôi hỏi: Thưa Chúa, Ngài muốn con làm gì? Chúa phán với tôi: Hãy đứng dậy đi vào trong thành Đa-mách. Một người ở đó sẽ nói cho con biết mọi việc mà ta đã dự tính cho con thực hiện.
\v 11 Sau đó, tôi không thấy đường vì ánh sáng chói lòa đó đã khiến tôi bị mù. Vì thế, những người đồng đi với tôi nắm tay dắt tôi đến Đa-mách.
\s5
\v 12 Một người tên là A-na-nia đến gặp tôi. Anh là người kính thờ Đức Chúa Trời và vâng giữ luật pháp Do Thái. Tất cả những người Do Thái sống tại Đa-mách đều nói tốt về anh.
\v 13 Anh đến đứng cạnh tôi và nói với tôi: Hỡi bạn Sau-lơ của tôi, hãy sáng mắt lại! Tức thì tôi được sáng mắt và nhìn thấy anh đứng cạnh mình.
\s5
\v 14 Rồi anh nói: Đức Chúa Trời mà chúng ta và tổ phụ chúng ta thờ phượng đã chọn anh, và sẽ bày tỏ cho anh những điều Ngài muốn anh làm. Ngài đã cho anh thấy Đấng công bình, là Giê-xu, tức là Đấng Mê-si-a, và anh đã nghe chính Đấng ấy phán với mình.
\v 15 Ngài muốn anh nói cho mọi người ở khắp nơi những gì anh đã thấy và nghe từ nơi Ngài.
\v 16 Vậy, bây giờ, xin đừng chậm trễ! Xin mời đứng lên để tôi làm báp-têm cho anh, cũng như cầu nguyện với Chúa Giê-xu và cầu xin Đức Chúa Trời tha tội cho anh! ’”
\s5
\v 17 “Sau đó, tôi trở về Giê-ru-sa-lem. Ngày nọ tôi lên sân đền thờ, trong lúc cầu nguyện, tôi thấy một khải tượng.
\v 18 Chúa phán với tôi: Đừng ở đây nữa! Hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem ngay vì dân chúng ở đây sẽ không tin điều con nói cho họ về Ta!
\s5
\v 19 Nhưng tôi thưa với Ngài: Thưa Chúa, họ biết con đã từng đến nhiều nhà hội để truy tìm người tin Ngài. Con đã bắt giam những người tin Ngài mà con tìm được, thậm chí con còn đánh đập họ.
\v 20 Họ vẫn nhớ rằng khi Ê-tiên bị giết chết vì nói cho người ta biết về Ngài, thì con đã đứng đó quan sát và đồng tình với những gì họ làm. Thậm chí con còn giữ áo choàng cho những người đang hành hình anh ấy!
\v 21 Nhưng Chúa phán với tôi: Không, đừng ở lại đây! Hãy rời khỏi Giê-ru-sa-lem, vì Ta sẽ sai con đến với những dân tộc khác sống cách xa đây, tức các dân ngoại! ’”
\s5
\v 22 Đám đông dân chúng lắng nghe Phao-lô cho đến khi ông nói rằng Chúa sai ông đến cùng các dân tộc khác thì họ bắt đầu la lên: “Hãy giết hắn đi! Hắn không đáng sống nữa! ”
\v 23 Trong khi hò hét, họ cởi áo ngoài ra và tung bụi lên trời để bày tỏ sự phẫn nộ.
\v 24 Vì vậy, viên chỉ huy ra lệnh đưa Phao-lô vào nhà giam. Ông ta sai binh lính đánh đòn Phao-lô để ông phải khai mình đã làm gì khiến người Do Thái phẫn nộ như vậy.
\s5
\v 25 Họ trói căng hai cánh tay ông ra để có thể đánh vào lưng ông. Nhưng Phao-lô nói với người lính đứng gần mình: “Các ông sẽ phạm luật nếu các ông đánh đòn tôi, một công dân La Mã chưa bị xét xử và kết án! ”
\v 26 Khi viên sĩ quan nghe như vậy, ông ta đến gặp người chỉ huy báo cáo lại sự việc. Ông nói với viên chỉ huy: “Người này là công dân La Mã! Chắc ngài sẽ không ra lệnh cho chúng tôi đánh đòn anh ta!”
\s5
\v 27 Viên chỉ huy rất ngạc nhiên khi nghe như vậy. Đích thân ông đến nhà giam hỏi Phao-lô: “Hãy cho tôi biết, anh có phải là công dân La Mã không? ” Phao-lô đáp: “Đúng vậy. ”
\v 28 Viên chỉ huy tiếp: “Tôi cũng là công dân La Mã. Tôi đã phải trả rất nhiều tiền để được quyền công dân ấy. ” Phao-lô nói: “Còn tôi khi sinh ra đã là công dân La Mã. ”
\v 29 Quân lính chuẩn bị đánh đòn Phao-lô để điều tra xem ông đã làm gì. Nhưng khi họ nghe lời Phao-lô nói thì bỏ đi. Viên chỉ huy cũng phát sợ vì biết rằng Phao-lô là công dân La Mã và mình đã phạm luật khi ra lệnh cho binh lính trói tay Phao-lô.
\s5
\v 30 Viên chỉ huy vẫn muốn biết vì sao người Do Thái lại buộc tội Phao-lô. Vậy nên ngày hôm sau, ông bảo quân lính tháo xiềng cho Phao-lô. Ông ta cũng triệu tập các thầy tế lễ cả và các thành viên khác của Hội Đồng Xét Xử Do Thái đến họp. Rồi ông dẫn Phao-lô ra và bảo ông ra đứng trước mặt mọi người.
\s5
\c 23
\p
\v 1 Phao-lô nhìn các thành viên Hội Đồng Xét Xử Do Thái, rồi nói: “Thưa đồng bào Do Thái, suốt cuộc đời mình, tôi đã sống tôn kính Đức Chúa Trời chúng ta, và tôi chưa từng làm việc gì mà tôi biết là sai trái. ”
\v 2 Khi thầy tế lễ thượng phẩm A-na-nia nghe lời đó, ông ta bảo những người đứng gần Phao-lô tát vào miệng ông.
\v 3 Phao-lô liền nói với A-na-nia: “Ông là kẻ giả hình. Đức Chúa Trời sẽ phạt ông vì việc này! Ông ngồi đó để xử tôi theo luật mà Đức Chúa Trời đã ban cho Môi-se, nhưng chính ông lại chẳng tuân giữ luật lệ, vì ông bảo người đánh tôi khi chưa chứng minh được tôi làm việc gì sai trái!”
\s5
\v 4 Những người đứng gần Phao-lô nói với ông: “Ông không được nói như thế với đầy tớ của Đức Chúa Trời, tức thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta. ”
\v 5 Phao-lô đáp: “Thưa các anh em, tôi rất tiếc đã nói như vậy. Tôi không biết người ra lệnh đánh tôi là thầy tế lễ thượng phẩm. Nếu tôi biết thì chắc tôi đã không nặng lời với thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta, vì tôi biết luật pháp có dạy: Đừng nói xấu người lãnh đạo ngươi! ’”
\s5
\v 6 Phao-lô biết một số thành viên trong Hội Đồng là những người thuộc phái Sa-đu-sê và một số người khác thuộc phái Pha-ri-si. Vì vậy, ông lớn tiếng nói trong phòng hội đồng: “Thưa anh em, tôi là người Pha-ri-si, giống như cha tôi. Tôi đã bị đem ra đây xét xử vì tôi chắc chắn rằng có ngày Đức Chúa Trời sẽ khiến những kẻ chết được sống lại. ”
\v 7 Khi ông nói như vậy, những người Pha-ri-si và Sa-đu-sê bắt đầu tranh cãi nhau về việc liệu người đã chết có sống lại hay không.
\v 8 Những người Sa-đu-sê không tin rằng sau khi người ta chết đi thì họ sẽ sống lại. Họ cũng chẳng tin có thiên sứ hoặc bất kỳ dạng thần linh nào. Nhưng người Pha-ri-si thì tin mọi điều này.
\s5
\v 9 Vậy là họ chia phe ra và bắt đầu to tiếng tranh luận với nhau. Một số thầy dạy luật là người Pha-ri-si đứng lên. Một người trong bọn họ nói: “Tôi tin rằng anh này chẳng làm điều gì sai trái. Biết đâu một thiên sứ hay thần linh nào khác đã phán với anh, và lời anh nói rất đúng. ”
\v 10 Rồi những người Pha-ri-si và Sa-đu-sê ẩu đả với nhau. Viên chỉ huy sợ họ sẽ xé xác Phao-lô, nên ông sai lính từ nhà tù xuống đưa Phao-lô ra khỏi tay các thành viên Hội Đồng và đem ông về đồn.
\s5
\v 11 Đêm hôm đó, Phao-lô thấy Chúa Giê-xu đến đứng gần mình. Chúa phán với ông: “Hãy vững lòng! Con đã nói cho dân chúng tại Giê-ru-sa-lem về Ta, thì con cũng phải nói cho dân chúng tại Rô-ma về Ta nữa.”
\s5
\v 12 Sáng hôm sau, một số người Do Thái thù ghét Phao-lô gặp nhau để bàn cách giết ông. Họ tự hứa sẽ không ăn uống gì cho đến khi giết được ông. Họ xin Đức Chúa Trời rủa sả mình nếu họ không thực hiện điều mình đã thề.
\v 13 Có hơn bốn mươi người muốn giết Phao-lô.
\s5
\v 14 Họ đến nói với các thầy tế lễ thượng phẩm và các trưởng lão Do Thái: “Đức Chúa Trời đã nghe chúng tôi hứa rằng sẽ chẳng ăn hay uống bất kỳ thứ gì cho đến khi chúng tôi giết chết Phao-lô.
\v 15 Vậy nên chúng tôi xin các ông hãy đến gặp viên chỉ huy, và thay mặt cho toàn thể Hội Đồng Xét Xử Do Thái yêu cầu đem tên Phao-lô xuống đây cho chúng ta. Xin hãy nói với ông ta rằng chúng ta muốn nói chuyện thêm với Phao-lô. Chúng tôi sẽ phục sẵn để giết chết Phao-lô trên đường hắn ta đến đây.”
\s5
\v 16 Nhưng người cháu gọi Phao-lô bằng cậu nghe được những gì họ đang bàn tính thực hiện, nên cậu vào đồn báo cho Phao-lô.
\v 17 Nghe xong, Phao-lô gọi một sĩ quan và nói với người này: “Xin đưa cậu thanh niên lên gặp chỉ huy vì cậu ta có việc cần báo.”
\s5
\v 18 Vậy, viên sĩ quan đưa cậu thanh niên đến gặp vị chỉ huy và nói với ông: “Tù nhân Phao-lô gọi tôi và nói: Xin hãy đưa cậu thanh niên này đến gặp chỉ huy vì cậu có việc cần báo. ’”
\v 19 Viên chỉ huy cầm tay cậu thanh niên và dẫn cậu ra chỗ khác rồi hỏi: “Cậu cần báo cho tôi việc gì?”
\s5
\v 20 Cậu đáp: “Có một số người Do Thái muốn đem Phao-lô ra trước Hội Đồng vào ngày mai. Họ sẽ nói họ muốn hỏi ông ấy thêm vài điều nữa. Nhưng không phải vậy.
\v 21 Xin ngài đừng làm theo điều họ yêu cầu, vì có hơn bốn mươi người Do Thái sẽ mai phục chờ giết chết Phao-lô trên đường ông đến Hội Đồng. Thậm chí họ còn hứa với Đức Chúa Trời rằng họ sẽ không ăn uống gì cho đến khi giết được Phao-lô. Họ đã sẵn sàng thực hiện việc này và hiện chỉ chờ ngài đồng ý làm theo điều họ nài xin.”
\s5
\v 22 Viên chỉ huy nói với cậu thanh niên: “Đừng nói cho ai biết là cậu đã báo cho tôi về kế hoạch của họ. ” Và ông cho cậu ra về.
\v 23 Rồi viên chỉ huy gọi hai sĩ quan đến căn dặn: “Hãy chuẩn bị một đội quân hai trăm lính để lên đường. Hãy dẫn theo bảy mươi kỵ binh và hai trăm binh lính khác cầm giáo. Tất cả phải sẵn sàng rời khỏi đây lúc chín giờ tối nay để xuống thành Sê-sa-rê.
\v 24 Cũng đem theo ngựa để Phao-lô cưỡi và hộ tống ông ta đến dinh tổng đốc Phê-lít.”
\s5
\v 25 Rồi viên chỉ huy viết thư cho ngài tổng đốc. Thư viết:
\v 26 “Tôi là Cơ-lốt Ly-sia viết thư này gửi đến ngài. Thưa Phê-lít, vị quan tổng đốc mà chúng tôi tôn kính, tôi xin gửi đến ngài lời chào thăm.
\v 27 Tôi đưa người này đến cho ngài, anh ta tên là Phao-lô, vì có mấy người Do Thái đã bắt giữ và sắp sửa giết anh. Nhưng tôi được biết anh ta là công dân La Mã nên tôi đã điều lính đến để giải cứu anh.
\s5
\v 28 Tôi muốn biết những người Do Thái đó nói anh ta đã làm chuyện sai trái gì, nên tôi đưa anh ta đến Hội Đồng Xét Xử Do Thái.
\v 29 Tôi theo dõi trong lúc họ chất vấn và ông ta trả lời. Các việc họ cáo buộc anh ta liên quan đến luật Do Thái của họ. Nhưng Phao-lô không vi phạm luật La Mã nào của chúng ta. Cho nên các quan chức chúng ta không nên xử tử hình anh ta, ngay cả việc bỏ tù anh ta, ta cũng không nên làm.
\v 30 Có người báo với tôi một số người Do Thái đang lên kế hoạch giết Phao-lô, nên tôi giải anh ta đến cho ngài để anh ta được xét xử một cách công minh. Tôi cũng bảo những người Do Thái tố cáo anh ta đến Sê-sa-rê để trình bày rõ họ cáo buộc anh ta tội gì. Kính chào.”
\s5
\v 31 Vậy, quân lính làm theo những gì vị chỉ huy căn dặn họ.
\v 32 Ngày hôm sau, toán lính bộ binh trở về Giê-ru-sa-lem trong khi các kỵ binh tiếp tục đưa Phao-lô đi.
\v 33 Khi họ đến thành Sê-sa-rê, họ trao thư cho ngài tổng đốc và dẫn Phao-lô trình diện trước mặt ông ta.
\s5
\v 34 Ngài tổng đốc đọc thư rồi hỏi Phao-lô: “Anh là người tỉnh nào? ” Phao-lô đáp: “Tôi đến từ tỉnh Si-li-si. ”
\v 35 Rồi ngài tổng đốc nói: “Khi nào những người buộc tội anh đến thì tôi sẽ nghe các bên trình bày, rồi sẽ xét xử trường hợp của anh. ” Rồi ông ta ra lệnh cho quân lính canh giữ Phao-lô trong dinh thự mà vua Hê-rốt Đại đế đã xây.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Năm ngày sau thầy tế lễ thượng phẩm A-na-nia từ Giê-ru-sa-lem xuống cùng với một số trưởng lão người Do Thái khác và một nhà diễn thuyết tên là Tẹt-tu-lu. Tại đó, họ trình cho ngài tổng đốc biết những việc Phao-lô làm mà họ cho là sai trái.
\v 2 Ngài tổng đốc ra lệnh đem Phao-lô đến. Khi Phao-lô vào, Tẹt-tu-lu bắt đầu kết tội ông. Ông ta nói với quan tổng đốc: “Thưa ngài tổng đốc đáng kính, trong suốt nhiều năm ngài cai quản chúng tôi thì chúng tôi luôn được sống an lành. Bởi sự hoạch định khôn ngoan mà ngài đã cải thiện được nhiều điều trong tỉnh này.
\v 3 Vì vậy, thưa tổng đốc Phê-lít, chúng tôi luôn biết ơn ngài về mọi điều mà ngài đã làm cho tất cả chúng tôi, ở bất cứ nơi nào mà ngài đã thực hiện những cải cách đó.
\s5
\v 4 Nhưng, để khỏi làm mất quá nhiều thời gian của ngài, tôi xin ngài vui lòng nghe những điều tôi trình bày.
\v 5 Chúng tôi nhận thấy rằng tên này đi đến đâu cũng gây rắc rối cho người Do Thái. Gã cầm đầu cả một phái gồm những kẻ được gọi là môn đồ của người Na-xa-rét.
\v 6 Thậm chí gã còn tìm cách làm những việc gây ô uế cho đền thờ tại Giê-ru-sa-lem, nên chúng tôi đã bắt giữ gã.
\s5
\v 7
\v 8 (Các bản sao chép cổ đáng tin cậy lượt bỏ câu 7, “Nhưng Ly-sia, chỉ huy pháo đài La Mã đem quân lính đến và bắt gã khỏi chúng tôi”) "Nếu ngài đích thân thẩm vấn gã thì ngài sẽ thấy mọi điều mà chúng tôi cáo buộc gã đều là sự thật. ”
\v 9 Sau đó các lãnh đạo Do Thái có mặt ở đó đều xác nhận với ngài tổng đốc những gì Tẹt-tu-lu nói là đúng.
\s5
\v 10 Rồi ngài tổng đốc lấy tay ra hiệu cho Phao-lô nói. Phao-lô đáp lại rằng: “Thưa tổng đốc Phê-lít, tôi biết ngài đã cai quản tỉnh Do Thái này được nhiều năm rồi. Vậy nên tôi rất vui được tự biện hộ cho mình.
\v 11 Ngài biết là từ lúc tôi lên Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Đức Chúa Trời cho đến nay không quá mười hai ngày.
\v 12 Không ai có thể nói rằng đã trông thấy tôi gây gổ với bất kỳ người nào khác trong sân đền thờ, vì tôi không làm chuyện đó. Không ai có thể nói rằng đã trông thấy tôi kích động dân chúng nổi loạn tại bất kỳ một nhà hội Do Thái nào, hoặc gây rối ở bất kỳ nơi nào khác tại Giê-ru-sa-lem, vì tôi không làm chuyện đó.
\v 13 Cho nên, trước mặt ngài, họ không thể chứng minh được những tội mà họ hiện đang tố cáo tôi.
\s5
\v 14 Nhưng tôi thừa nhận với ngài một việc, đó là tôi thờ phượng Đức Chúa Trời mà tổ phụ chúng tôi đã thờ phượng. Đúng là tôi theo đạo mà Chúa Giê-xu dạy chúng tôi. Tôi cũng tin mọi điều Môi-se viết trong luật pháp mà Đức Chúa Trời ban cho ông và mọi điều mà các tiên tri khác viết trong sách của họ.
\v 15 Cũng giống như những người này, tôi tin rằng rồi sẽ có một ngày Đức Chúa Trời khiến mọi người chết sống lại, cả người tốt lẫn kẻ xấu.
\v 16 Vì tôi tin rằng sẽ có ngày đó nên tôi luôn cố gắng làm điều đẹp lòng Đức Chúa Trời và những việc người ta cho là đúng.
\s5
\v 17 Sau nhiều năm đi đây đi đó, tôi quay trở lại Giê-ru-sa-lem để đem tiền về giúp đỡ những anh em người Do Thái đang gặp khó khăn của tôi.
\v 18 Một số người Do Thái từ Tiểu Á đến nhìn thấy tôi trong sân đền thờ sau khi tôi đã thực hiện xong nghi thức để được phép thờ phượng Đức Chúa Trời. Chẳng có đám đông nào tụ tập quanh tôi và tôi không kích động người ta bạo loạn.
\v 19 Chính những người Do Thái đó mới khiến dân chúng nổi loạn. Họ cần phải đến trước mặt ngài đây để cáo buộc tôi, nếu họ nghĩ rằng tôi đã làm chuyện sai quấy.
\s5
\v 20 Còn nếu họ không muốn làm vậy thì những người Do Thái hiện có mặt ở đây phải trình bày cho ngài những điều sai trái mà họ thấy tôi làm khi tôi tự bào chữa trước Hội Đồng của họ.
\v 21 Có thể lắm họ sẽ nói rằng tôi đã sai khi la lên: Hôm nay các người xét xử tôi chỉ vì tôi tin rằng Đức Chúa Trời sẽ khiến người chết sống lại. ’”
\s5
\v 22 Phê-lít đã biết khá nhiều về đạo mà người ta gọi là đạo của Giê-xu. Nhưng ông ta không để cho Phao-lô và những người Do Thái kia nói tiếp. Thay vào đó, ông bảo họ: “Đợi đến khi chỉ huy Ly-sia xuống đây thì tôi sẽ giải quyết trường hợp này. ”
\v 23 Rồi ông ta bảo viên sĩ quan canh giữ Phao-lô đưa Phao-lô trở lại nhà giam và bảo đảm lúc nào cũng có người canh gác. Nhưng ông ta cũng dặn không được xiềng Phao-lô, và nếu có bạn bè gì đến thăm thì viên sĩ quan phải cho phép họ tùy ý giúp đỡ Phao-lô.
\s5
\v 24 Mấy ngày sau, Phê-lít quay trở lại cùng với vợ là Đơ-ru-si, một phụ nữ Do Thái, và yêu cầu đưa Phao-lô ra nói chuyện. Phê-lít lắng nghe những gì Phao-lô nói về việc đặt lòng tin cậy nơi Chúa Cứu Thế Giê-xu.
\v 25 Phao-lô nói với ông về những điều Đức Chúa Trời muốn người ta làm để Ngài vui lòng. Ông cũng giải thích việc người ta nên kiểm soát hành động của mình vì sẽ có lúc Đức Chúa Trời phán xét mọi người. Phê-lít sợ hãi sau khi nghe những điều này, nên ông ta nói với Phao-lô: “Bây giờ tôi chỉ muốn nghe bấy nhiêu. Khi tôi có thời gian tôi sẽ yêu cầu anh đến nữa.”
\s5
\v 26 Phê-lít hy vọng Phao-lô sẽ đút lót tiền cho mình, nên ông ta sai đưa Phao-lô đến nhiều lần. Phao-lô nói chuyện với Phê-lít nhiều lần, nhưng ông chẳng đút lót Phê-lít đồng nào, nên Phê-lít không ra lệnh cho lính phóng thích Phao-lô khỏi nhà giam.
\v 27 Phê-lít giữ Phao-lô trong tù vì ông ta muốn làm hài lòng các lãnh đạo Do Thái. Sau hai năm, Bốt-tiu Phê-tu đến thay Phê-lít làm tổng đốc.
\s5
\c 25
\p
\v 1 Phê-tu lên làm tổng đốc của xứ. Ba ngày sau, ông rời thành Sê-sa-rê lên Giê-ru-sa-lem.
\v 2 Tại đó, các thầy tế lễ thượng phẩm và những người lãnh đạo Do Thái khác ra mắt Phê-tu và nói rằng Phao-lô đã làm những việc rất sai trái.
\v 3 Họ khẩn khoản xin Phê-tu đem Phao-lô về Giê-ru-sa-lem để xét xử. Nhưng thật ra họ đang lên kế hoạch tấn công và giết chết ông trên đường đi.
\s5
\v 4 Phê-tu đáp: “Phao-lô hiện đang bị giam giữ tại Sê-sa-rê, nên cứ để anh ta ở đó. Đích thân ta sẽ sớm xuống Sê-sa-rê.
\v 5 Vậy, trong các ông ai có thể đi được thì cũng nên xuống đó với ta. Nếu muốn cáo buộc Phao-lô về điều gì thì các ông có thể làm ở đó.
\s5
\v 6 Phê-tu lưu lại Giê-ru-sa-lem với những người lãnh đạo đền thờ thêm chừng tám hay mười ngày, rồi trở xuống thành Sê-sa-rê. Ngày hôm sau, Phê-tu ra lệnh giải Phao-lô lên trước tòa, nơi ông ngồi xử án.
\v 7 Sau khi Phao-lô được đưa đến, những người lãnh đạo Do Thái từ Giê-ru-sa-lem xuống họp lại chung quanh ông để cáo buộc ông đủ thứ tội trọng, nhưng họ chẳng thể chứng minh ông phạm tội.
\v 8 Đến phiên Phao-lô tự biện hộ cho mình, ông nói: “Tôi chưa làm điều gì trái với luật Do Thái, hoặc chống lại đền thờ, hay chống nghịch hoàng đế.”
\s5
\v 9 Nhưng Phê-tu muốn làm hài lòng những người lãnh đạo Do Thái, nên ông ta hỏi Phao-lô: “Anh có muốn lên Giê-ru-sa-lem để tôi xét xử anh về các cáo buộc này không? ”
\v 10 Phao-lô đáp: “Thưa không. Bây giờ tôi đang đứng đây trước mặt ngài, người đại diện cho hoàng đế. Tôi phải được xét xử ngay tại đây. Tôi chưa làm điều gì sai trái đối với người Do Thái, ngài thừa biết điều này.
\s5
\v 11 Nếu tôi có làm điều gì đáng chết thì tôi sẵn sàng chết; nhưng trong những tội họ tố cáo tôi, chẳng có tội nào đáng bị xử tử hình. Không ai có thể kết án tôi chỉ để vừa lòng họ. Tôi yêu cầu được chính Sê-sa xét xử. ”
\v 12 Sau khi Phê-tu hội ý với các cố vấn, ông ta nói: “Anh đã kháng cáo lên Sê-sa thì anh sẽ được đến chỗ của Sê-sa!”
\s5
\v 13 Mấy ngày sau, vua Ạc-ríp-ba đến Sê-sa-rê cùng với em gái vua là Bê-rê-nít. Họ đến để tỏ lòng kính trọng Phê-tu.
\v 14 Vua Ạc-ríp-ba và Bê-rê-nít lưu lại Sê-sa-rê nhiều ngày. Sau một thời gian, Phê-tu kể cho Ạc-ríp-ba nghe về trường hợp Phao-lô. Ông ta nói: “Ở đây có một người bị Phê-lít giam giữ.
\v 15 Khi tôi đến Giê-ru-sa-lem, các thầy tế lễ cả và các trưởng lão Do Thái đến gặp tôi và yêu cầu tôi xử anh ta tội chết.
\v 16 Nhưng tôi cho họ biết rằng khi có người bị cáo buộc phạm một tội nghiêm trọng thì người La Mã không có lệ kết án ngay lập tức. Thay vào đó, chúng tôi cho phép bên bị đối chất với bên nguyên để tự bảo vệ mình trước những lời cáo buộc của bên nguyên.
\s5
\v 17 Vì vậy, khi những người Do Thái đó đến đây, tôi đã không chậm trễ mà tiến hành xét xử ngay. Một ngày sau khi họ đến, tôi ngồi vào ghế quan tòa và ra lệnh đem tù nhân vào.
\v 18 Nhưng khi những người lãnh đạo Do Thái trình bày những tội mà tù nhân đã phạm thì tôi thấy chẳng có việc nào nghiêm trọng.
\v 19 Thay vào đó, những gì họ tranh cãi với anh ta chỉ là các vấn đề liên quan đến tôn giáo của họ và về một người có tên là Giê-xu đã chết, nhưng Phao-lô nói rằng vẫn còn sống.
\v 20 Tôi chẳng hiểu các vấn đề này, cũng không biết phải làm sao để tìm hiểu cho biết thật hư thế nào. Vậy nên tôi hỏi Phao-lô: Anh có muốn đi Giê-ru-sa-lem để ta xét xử về các vấn đề này không?
\s5
\v 21 Nhưng Phao-lô yêu cầu được chính Sê-sa xét xử trường hợp của mình, nên tôi đã ra lệnh giam anh ta lại cho đến khi tôi có thể giải anh ta lên Sê-sa. ”
\v 22 Rồi Ạc-ríp-ba nói với Phê-tu: “Chính tôi cũng muốn nghe để biết anh ta nói gì. ” Phê-tu đáp: “Tôi sẽ sắp xếp để vua được nghe anh ta nói vào ngày mai.”
\s5
\v 23 Ngày hôm sau, Ạc-ríp-ba và Bê-rê-nít vào phòng xử án và mọi người tiếp đón họ trọng thể. Một số chỉ huy người La Mã và các nhân vật quan trọng tại Sê-sa-rê cũng đi cùng họ. Rồi Phê-tu truyền cho lính giải Phao-lô vào.
\v 24 Sau khi Phao-lô vào, Phê-tu nói: “Thưa vua Ạc-ríp-ba và toàn thể quý vị đang hiện diện tại đây, các ông thấy người này! Nhiều lãnh đạo của người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem cũng như ở đây đã thỉnh cầu tôi không nên để cho anh ta sống nữa.
\s5
\v 25 Nhưng tôi chẳng thấy anh ta phạm tội nào đáng chết. Dầu vậy, anh ta đã kháng cáo lên Sê-sa, nên tôi quyết định sẽ giải anh ta đến Rô-ma.
\v 26 Nhưng tôi không biết đích xác phải viết cho hoàng đế như thế nào về trường hợp của anh ta. Đó là lý do vì sao tôi đã đưa anh ta ra đây để phát biểu trước tất cả mọi người, đặc biệt là với ngài, thưa vua Ạc-ríp-ba!
\v 27 Tôi cho rằng thật không phải nếu giải một tù nhân lên hoàng đế tại Rô-ma mà không biết chính xác những tội danh mà người ta cáo buộc đương sự.”
\s5
\c 26
\p
\v 1 Rồi Ạc-ríp-ba nói với Phao-lô: “Bây giờ anh được phép tự bào chữa. ” Vậy, Phao-lô giơ hai tay ra hiệu ông sắp sửa nói. Ông nói:
\v 2 “Tâu vua Ạc-ríp-ba, tôi tự thấy mình thật may mắn khi hôm nay tôi có thể giải bày trước đức vua lý do những người lãnh đạo Do Thái đã sai khi nói rằng tôi phạm những tội tày đình.
\v 3 Đặc biệt may mắn cho tôi khi vua đã biết rõ những tập tục của người Do Thái chúng ta cũng như những vấn đề chúng tôi đang tranh cãi. Vì vậy, tôi xin vua kiên nhẫn nghe tôi nói.”
\s5
\v 4 "Tất cả đồng bào Do Thái của tôi đều biết tôi đã sống cuộc đời như thế nào từ khi tôi còn bé. Họ biết tôi từng sống thế nào tại thành phố nơi tôi sinh ra và sau đó là tại Giê-ru-sa-lem.
\v 5 Họ đã biết tôi ngay từ ban đầu và, nếu muốn, họ có thể cho vua biết rằng từ khi còn nhỏ, tôi đã cẩn thận vâng giữ những luật lệ khắc khe nhất của đạo giáo chúng tôi. Tôi sống y như những người Pha-ri-si khác.
\s5
\v 6 Hôm nay tôi bị xét xử vì tôi tin cậy và trông đợi Đức Chúa Trời sẽ thực hiện điều Ngài đã hứa với tổ phụ chúng tôi.
\v 7 Mười hai bộ tộc Do Thái chúng tôi cũng tin tưởng chờ đợi Đức Chúa Trời sẽ làm cho chúng tôi những gì Ngài đã hứa, khi họ ngày đêm tôn cao Ngài và thờ phượng Ngài. Muôn tâu đức vua, tôi trông đợi với lòng tin rằng Đức Chúa Trời sẽ thực hiện điều Ngài hứa, và họ cũng tin như vậy! Nhưng chính vì những gì tôi trông đợi Đức Chúa Trời thực hiện mà họ cáo buộc tôi sai phạm.
\v 8 Tâu đức vua, ngài thực sự không tin Đức Chúa Trời có thể khiến người chết sống lại sao?
\s5
\v 9 Trong quá khứ, có lúc tôi cũng từng cho rằng cần phải làm những gì có thể để ngăn người ta tin Chúa Giê-xu người Na-xa-rét.
\v 10 Đó là việc tôi đã làm khi tôi sống tại Giê-ru-sa-lem. Tôi đã tống nhiều người tin Chúa vào tù, theo như thẩm quyền mà các thầy tế lễ cả tại đó trao cho tôi. Và khi người của họ giết hại người tin Chúa, thì tôi ủng hộ việc làm đó.
\v 11 Tôi thường bức hại những người Do Thái tin Chúa Giê-xu. Tôi lùng sục họ khắp nơi và khắp các nhà hội. Tôi vô cùng thù ghét họ vì họ tin theo Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế, đến độ tôi dùng mọi thế lực ép buộc họ để họ xúc phạm Đức Chúa Trời và phỉ báng danh Ngài. Khi họ phỉ báng Đức Chúa Trời thì họ sẽ phải chết. Sự tức giận của tôi đối với họ rất dữ dội đến nỗi tôi muốn họ phải bị xét xử và kết án tử hình khi ra mắt trước hội đồng Do Thái. Tôi luôn bỏ phiếu tán thành để hành hình họ. Tôi còn đi ra các thành phố của dân ngoại tìm để có thể bắt họ, đem họ về Giê-ru-sa-lem và trừng phạt họ. Tôi muốn họ phải bị giết đi.
\s5
\v 12 “Các thầy tế lễ cả đã trao cho tôi quyền bắt giữ các tín hữu tại Đa-mách, nên tôi đi đến đó. Nhưng trong khi đi đường,
\v 13 vào khoảng giữa trưa, tôi nhìn thấy ánh sáng chói lòa trên trời. Thậm chí ánh sáng ấy còn chói sáng hơn cả mặt trời! Nó chiếu rọi khắp chung quanh tôi, và những người đồng đi.
\v 14 Tất cả chúng tôi đều té xuống đất. Rồi tôi nghe tiếng có người nói với tôi bằng tiếng Hy-bá. Đấng ấy phán: Hỡi Sau-lơ, Sau-lơ, sao con tấn công Ta? Giống như một con bò con đá vào cây gậy sắc nhọn của người chăn thật là khó chịu lắm.
\s5
\v 15 Rồi tôi hỏi: Thưa, Chúa là ai vậy? Ngài đáp: Ta là Giê-xu! Ta là Đấng con đang tranh chiến.
\v 16 Nhưng con hãy dậy và đứng lên đi! Ta hiện ra với con là để khiến con trở thành một đầy tớ và là chứng nhân cho những gì con đã chứng kiến về Ta, cũng như những điều mà Ta sẽ bày tỏ cho con sau này.
\v 17 Ta sẽ bảo vệ con khỏi dân này và các dân ngoại mà Ta sẽ sai con đến,
\v 18 để mở mắt họ, đưa họ từ bóng tối qua ánh sáng, từ quyền lực của kẻ thù về với Đức Chúa Trời. Bằng cách đó, Đức Chúa Trời sẽ tha tội cho họ và sẽ ban cho họ những phước lành mà toàn dân của Ta, tức những người nhờ đức tin mà thuộc về Ta, sẽ mãi mãi được hưởng.
\s5
\v 19 “Vậy, tâu vua Ạc-ríp-ba, tôi đã làm theo điều Đức Chúa Trời đã truyền cho tôi trong một khải tượng.
\v 20 Trước hết, tôi nói cho người Do Thái tại Đa-mách cũng như người Do Thái tại Giê-ru-sa-lem, rồi cả vùng thôn dã Giu-đê, và cũng nói cho những người thuộc dân ngoại ở đó nữa. Tôi nói với họ rằng họ phải thôi phạm tội và cầu xin Đức Chúa Trời giúp đỡ. Tôi cũng nói với họ rằng họ phải làm những việc cho thấy họ đã từ bỏ nếp sống tội lỗi.
\v 21 Chính vì tôi rao giảng sứ điệp này mà một số người Do Thái đã bắt tôi khi tôi ở tại sân đền thờ, và tìm cách giết chết tôi.
\s5
\v 22 Tuy nhiên, Đức Chúa Trời đã phù hộ tôi, nên tôi đã tiếp tục công bố những điều này cho đến ngày nay. Tôi nói cho cả thường dân lẫn những nhân vật quan trọng biết chính xác những điều mà các tiên tri và Môi-se đã nói sẽ xảy ra.
\v 23 Họ nói Đấng Cứu Thế sẽ chịu khổ nạn và chịu chết, và Ngài sẽ là người đầu tiên sống lại từ cõi chết. Họ cũng nói Ngài sẽ rao báo, cho dân tộc của Ngài lẫn cho dân ngoại, rằng Đức Chúa Trời thực sự có thể cứu họ được.”
\s5
\v 24 Trước khi Phao-lô kịp nói thêm thì Phê-tu kêu lên: “Phao-lô, anh điên rồi! Anh học nhiều quá đến nỗi mất trí luôn! ”
\v 25 Nhưng Phao-lô đáp: “Thưa ngài Phê-tu, tôi không điên đâu! Trái lại, những gì tôi nói đều là thật và lành mạnh!
\v 26 Vì vua Ạc-ríp-ba biết những việc mà tôi trình bày, và tôi có thể nói với đức vua về những việc này rất tự nhiên. Tôi chắc rằng đức vua biết tất cả những điều này, vì chẳng có việc nào là bí mật cả.”
\s5
\v 27 “Muôn tâu đức vua Ạc-ríp-ba, ngài có tin những gì các tiên tri đã viết không? Tôi biết là ngài có tin các lời đó. ”
\v 28 Ạc-ríp-ba đáp lại Phao-lô: “Chỉ trong một thời gian ngắn mà anh gần như đã thuyết phục được ta trở thành môn đồ của Chúa Cứu Thế! ”
\v 29 Phao-lô đáp: “Thời gian ngắn hay dài không phải là vấn đề quan trọng. Tôi cầu xin Đức Chúa Trời cho đức vua cũng như mọi người khác đang nghe tôi đây đều sẽ trở nên giống như tôi, ngoại trừ những xiềng xích này!”
\s5
\v 30 Rồi nhà vua đứng dậy. Ngài thống đốc, bà Bê-rê-nít, và mọi người khác cũng đứng lên theo
\v 31 và rời khỏi phòng. Sau khi ra ngoài, họ nói với nhau: “Anh này chẳng làm việc gì đáng chết hay đáng bị tù cả. ”
\v 32 Ạc-ríp-ba nói với Phê-tu: “Lẽ ra anh ta đã được trả tự do, nếu anh ta chưa kháng cáo lên hoàng đế.”
\s5
\c 27
\p
\v 1 Khi ngài tổng đốc quyết định chúng tôi nên đi Y-ta-li bằng đường biển thì ông giao Phao-lô cùng mấy người tù khác cho một viên chỉ huy quân đội tên là Giu-lơ trông coi. Người này giữ chức đội trưởng và thuộc trung đoàn gọi là “Âu-gu-ta”.
\v 2 Chúng tôi xuống một chiếc tàu đến từ thành A-tra-mít thuộc Tiểu Á. Con tàu này sắp nhổ neo đến các cảng ở vùng duyên hải Tiểu Á. Vậy, chúng tôi ra khơi. A-ri-tạt người thành Tê-sa-lô-ni-ca thuộc tỉnh Ma-xê-đoan cùng đi với chúng tôi.
\s5
\v 3 Ngày hôm sau chúng tôi đến Si-đôn. Giu-lơ đối xử với Phao-lô rất tử tế và cho phép ông đi thăm bạn hữu, để họ chăm sóc ông.
\v 4 Rồi từ đó tàu lại ra khơi. Chúng tôi đi dọc theo vùng duyên hải đảo Chíp-rơ, bên phía tránh gió để khỏi bị chệch hướng.
\v 5 Sau đó, chúng tôi băng qua vùng biển gần vùng duyên hải Si-li-si và Bam-phi-ly. Tàu đến thành My-ra, thuộc Ly-si, và chúng tôi rời tàu.
\v 6 Tại My-ra, Giu-lơ thấy có một chiếc tàu đến từ A-léc-xan-đơ sắp nhổ neo đi Y-ta-li. Vậy là ông sắp xếp cho chúng tôi xuống con tàu đó, và chúng tôi lại đi.
\s5
\v 7 Chúng tôi đi chậm chạp trong nhiều ngày và đến gần thành Cơ-nít, nhưng phải khó khăn lắm chúng tôi mới đến được đó vì bị ngược gió.
\v 8 Gió vẫn thổi mạnh khiến tàu không thể đi thẳng theo hướng tây trước mặt. Thay vào đó, chúng tôi phải đi dọc theo mé biển đảo Cơ-rết, vì ở đó gió không mạnh, và chúng tôi đi ngang qua gần mũi Sa-môn. Gió vẫn cứ thổi mạnh, khiến tàu không thể tiến nhanh được. Vì vậy chúng tôi đi một cách chậm chạp dọc theo mé biển Cơ-rết, đến một thị trấn gọi là Mỹ Cảng, gần La-sê.
\s5
\v 9 Nhiều ngày đã trôi qua và đi biển vào thời điểm này là rất nguy hiểm, vì kỳ kiêng ăn của người Do Thái đã qua và biển sẽ động mạnh. Vậy nên Phao-lô nói với mọi người trên tàu:
\v 10 “Thưa anh em, tôi thấy nếu ra khơi vào lúc này chúng ta sẽ gánh chịu nhiều thiệt hại, mất mát, không chỉ về hàng hóa và chính con tàu, mà cả mạng sống của chúng ta nữa. ”
\v 11 Nhưng viên đội trưởng người La Mã không tin Phao-lô. Thay vào đó, ông ta tin lời hoa tiêu và chủ tàu, nên quyết định làm theo lời bàn của họ.
\s5
\v 12 Bến cảng này không phải là nơi thuận tiện cho tàu neo đậu trong suốt mùa đông, nên đa số các thủy thủ khuyên nên rời bến ra khơi. Họ hy vọng có thể đến được Phê-nít và trú đông tại đó. Phê-nít là một thị trấn trên đảo Cơ-rết. Ở đó hứng cả gió tây bắc và tây nam.
\v 13 Vì chỉ có gió nhẹ từ hướng nam thổi lên nên thủy thủ đoàn nghĩ rằng họ có thể đi như ý họ muốn. Vậy là họ nhổ neo và cho tàu chạy dọc sát mé biển đảo Cơ-rết.
\s5
\v 14 Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, có một trận cuồng phong từ đảo thổi ra. Trận gió thổi ngang qua đảo từ mạn bắc và đập vào tàu. Trận gió này gọi là Ơ-ra-qui-lôn, tức “Gió Đông Bắc. ”
\v 15 Gió thổi mạnh vào mặt trước con tàu, và chúng tôi không thể đi ngược gió được. Vậy là thủy thủ để mặc cho tàu bị đẩy đi theo hướng gió thổi.
\v 16 Sau đó tàu đi dọc theo mé biển của một đảo nhỏ tên là Cơ-lô-đa. Khó khăn lắm chúng tôi mới có thể buộc chắc thuyền cứu sinh vào tàu.
\s5
\v 17-18 Sau khi thủy thủ đã trục thuyền cứu sinh lên tàu, họ dùng dây thừng để gia cố cho tàu. Họ dòng dây phía dưới thân tàu để giúp tàu thêm chắc. Các thủy thủ sợ rằng chúng tôi sẽ mắc cạn trên bãi cát gọi là Sy-rơ-tơ, nên họ thả neo phao xuống và để cho gió đẩy chúng tôi đi. Sóng, gió cứ tiếp tục đập mạnh khiến con tàu chòng chành dữ dội, nên ngày hôm sau các thủy thủ bắt đầu quăng đồ xuống biển.
\s5
\v 19 Vào ngày thứ ba trong cơn bão, các thủy thủ lại ném xuống biển phần lớn vải buồm, dây thừng, sào, để làm cho tàu nhẹ thêm. Chính tay họ làm việc này.
\v 20 Gió tiếp tục thổi rất mạnh trong nhiều ngày, và bầu trời đầy mây đen cả ngày lẫn đêm, đến nỗi chúng tôi chẳng nhìn thấy mặt trời hoặc các ngôi sao. Chúng tôi không còn chút hy vọng sống sót nào.
\s5
\v 21 Trong nhiều ngày, chẳng ai trong chúng tôi ăn uống gì, nên Phao-lô đứng dậy trước mặt mọi người và nói: “Thưa các bạn, đáng ra các bạn phải nghe tôi khi tôi nói rằng chúng ta không nên căng buồm ra khơi tại đảo Cơ-rết.
\v 22 Nhưng thôi, bây giờ tôi khuyên các bạn, xin đừng sợ vì chẳng ai trong chúng ta sẽ chết cả. Cơn bão sẽ phá hủy con tàu, nhưng chúng ta sẽ không sao.
\s5
\v 23 Tôi biết điều đó vì đêm qua Đức Chúa Trời là Đấng tôi thuộc về và phục vụ, đã sai một thiên sứ đến đứng cạnh tôi.
\v 24 Thiên sứ nói với tôi: Này, Phao-lô, đừng sợ! Anh phải đến Rô-ma và đứng trước hoàng đế để chịu xét xử. Tôi muốn anh biết Đức Chúa Trời đảm bảo với anh rằng mọi người đi tàu cùng với anh cũng sẽ sống.
\v 25 Vậy, các bạn của tôi, xin hãy vững lòng, vì tôi tin rằng Đức Chúa Trời sẽ khiến mọi việc xảy ra y như thiên sứ đã cho tôi biết.
\v 26 Tuy nhiên, tàu sẽ tấp vào một hòn đảo và chúng ta sẽ lên bờ tại đó.”
\s5
\v 27 Vào đêm thứ mười bốn sau khi trận bão nổi lên, chiếc tàu vẫn trôi giạt trên biển A-đờ-ri-a-tích. Khoảng nửa đêm, các thủy thủ cho rằng tàu đang tiến gần đến đất liền.
\v 28 Vậy là họ thả dây đo xuống để đo độ sâu của nước. Khi họ kéo dây đo lên thì thấy mực nước ở đó sâu bốn mươi mét. Một lát sau, họ lại đo nữa và thấy ba mươi mét.
\v 29 Vì sợ tàu có thể va vào đá, nên họ thả bốn cái neo xuống ở phía đuôi tàu. Rồi họ cầu cho trời mau sáng để biết được chiếc tàu đang đi đâu.
\s5
\v 30 Một số thủy thủ định trốn khỏi tàu, nên họ hạ thuyền cứu sinh xuống biển. Để không ai biết việc họ định làm, họ giả vờ như đang thả mấy chiếc neo ở mũi tàu.
\v 31 Nhưng Phao-lô nói với viên đội trưởng và binh lính: “Nếu các thủy thủ không ở lại tàu thì các ông không có hy vọng sống sót. ”
\v 32 Vậy là lính cắt hết dây buộc, để cho thuyền cứu sinh rơi xuống nước.
\s5
\v 33 Ngay trước khi trời sáng, Phao-lô giục mọi người trên tàu ăn chút gì đó. Ông nói: “Suốt mười bốn ngày rồi anh em cứ chờ đợi, trông ngóng mà chẳng ăn gì cả.
\v 34 Vậy nên bây giờ tôi khuyên anh em ăn đi. Anh em phải ăn mới sống được. Một sợi tóc trên đầu anh em cũng không mất đâu. ”
\v 35 Sau khi nói xong, trước mắt mọi người, Phao-lô lấy ít bánh tạ ơn Chúa rồi bẻ ra và bắt đầu ăn.
\s5
\v 36 Vậy, tất cả mọi người đều lên tinh thần và lấy đồ ăn.
\v 37 Tổng cộng số người trên tàu lúc ấy là hai trăm bảy mươi sáu người.
\v 38 Khi mọi người đã ăn no, họ quăng hết số lúa mì còn lại xuống biển để nhẹ tàu.
\s5
\v 39 Đến sáng chúng tôi có thể nhìn thấy đất liền, nhưng các thủy thủ không biết chúng tôi hiện đang ở đâu. Tuy nhiên, họ có thể nhìn thấy một cái vịnh và một bãi cát rộng lớn ở mé nước. Họ quyết định sẽ cố gắng cho tàu chạy thẳng lên bãi biển.
\v 40 Thế là họ tháo dây buộc neo và thả xuống biển. Đồng thời, họ cũng mở dây buộc các bánh lái, và giương buồm lên để hứng gió. Rồi họ lái tàu hướng vào bờ.
\v 41 Nhưng tàu chạy vào vùng nước dữ và leo lên bờ cát ngay bên dưới những con sóng. Mũi tàu bị kẹt ở đó, không di chuyển được, còn sóng lớn thì vỗ vào phần sau chiếc tàu, khiến nó bắt đầu vỡ ra.
\s5
\v 42 Binh lính định giết hết tù nhân vì sợ có người bơi được trốn thoát.
\v 43 Nhưng viên đội trưởng muốn cứu mạng Phao-lô, nên ông ngăn không cho họ làm chuyện này. Thay vào đó, ông ra lệnh cho ai bơi được thì nhảy xuống nước bơi vào bờ.
\v 44 Rồi ông bảo mọi người bám vào ván hoặc mảnh tàu vỡ mà vào bờ. Chúng tôi làm theo lời ông, và bằng cách đó tất cả chúng tôi đều lên bờ an toàn.
\s5
\c 28
\p
\v 1 Sau khi đã vào bờ an toàn, chúng tôi được biết đó là một hòn đảo tên Man-tơ.
\v 2 Cư dân trên đảo tiếp đãi chúng tôi còn hơn cả sự hiếu khách thông thường. Họ nhóm một đống lửa và mời chúng tôi đến sưởi ấm, vì trời đang mưa và lạnh lẽo.
\s5
\v 3 Khi Phao-lô nhặt mấy khúc cây để chụm lửa, một con rắn độc từ trong đống lửa bò ra ngoài tránh nóng; nó cắn vào tay Phao-lô và đeo luôn trên tay ông.
\v 4 Dân trên đảo thấy con vật lủng lẳng trên tay Phao-lô, nên bảo nhau: “Chắc tay này là kẻ sát nhân, nên dù thoát chết đuối dưới biển, thần công lý vẫn bắt hắn phải chết.”
\s5
\v 5 Nhưng Phao-lô rảy cho con rắn rơi vào lửa mà chẳng bị sao cả.
\v 6 Những người dân đảo cứ tưởng thế nào thân thể ông cũng sẽ sưng phù lên vì sốt, hoặc ông sẽ lăn ra chết. Nhưng họ đợi một lúc lâu mà chẳng thấy chuyện gì xảy ra cho ông. Vậy là họ lại nghĩ khác và nói với nhau: “Anh này không phải là kẻ giết người! Anh ta là thần!”
\s5
\v 7 Tại một nơi gần chỗ họ đang ở có mấy đồng ruộng thuộc sở hữu của một người tên Búp-li-u. Ông là quan chức hàng đầu trên đảo. Ông mời chúng tôi đến ngụ tại nhà mình. Ông chăm sóc chúng tôi tử tế trong ba ngày.
\v 8 Trong lúc ấy, cha của Búp-li-u mắc bệnh sốt và kiết lỵ, phải nằm trên gường. Phao-lô đến thăm ông và cầu nguyện cho ông. Rồi Phao-lô đặt tay lên ông và chữa lành cho ông.
\v 9 Sau khi Phao-lô làm việc này, những người có bệnh trên đảo đều đến chỗ ông, và ông chữa lành cho tất cả.
\v 10 Họ biếu tặng quà cáp và dùng nhiều cách khác để tỏ lòng kính trọng chúng tôi. Ba tháng sau, khi chúng tôi chuẩn bị ra đi thì họ mang đến cho chúng tôi thức ăn và các nhu yếu phẩm cần dùng trên tàu.
\s5
\v 11 Sau khi ở lại đó ba tháng, chúng tôi xuống một chiếc tàu đến từ A-léc-xan-đơ đang trên đường đi Y-ta-li, và chúng tôi ra khơi. Ở phía trước mũi tàu có chạm hình của hai vị thần song sinh là Cát-tơ và Bô-lút
\v 12 Khi đến thành Sy-ra-cu-sơ, chúng tôi lưu lại đó ba ngày.
\s5
\v 13 Rồi chúng tôi lại đi và đến thành phố Rê-ghi-um, Y-ta-li. Ngày hôm sau có gió nam nổi lên, nên chỉ sau hai ngày là chúng tôi đến thị trấn Bu-xô-lơ. Chúng tôi lên bờ tại đây.
\v 14 Tại Bu-xô-lơ chúng tôi gặp một số anh em tín hữu, họ mời chúng tôi ở lại với họ bảy ngày. Sau đó, cuối cùng thì chúng tôi đến Rô-ma.
\v 15 Tại Rô-ma, một số anh em tín hữu có nghe biết về chúng tôi, nên họ đến đón chúng tôi. Một số người trong họ gặp chúng tôi tại thị trấn Chợ trên đường Áp-bi-u, số khác thì gặp chúng tôi tại thị trấn gọi là Ba Quán. Khi Phao-lô gặp các tín hữu này, ông cảm tạ Đức Chúa Trời và thấy được khích lệ.
\s5
\v 16 Sau khi chúng tôi đến Rô-ma, Phao-lô được phép sống một mình trong một ngôi nhà. Nhưng luôn có một người lính ở đó canh giữ ông.
\v 17 Sau khi Phao-lô ở đó được ba ngày, ông mời những người lãnh đạo Do Thái đến nói chuyện với mình. Khi họ đến, ông nói với họ: “Thưa các anh em quý mến của tôi, dầu tôi không chống lại dân tộc chúng ta, cũng chẳng lên tiếng phá bỏ những phong tục của cha ông chúng ta, nhưng những người lãnh đạo của chúng ta tại Giê-ru-sa-lem đã bắt tôi. Nhưng trước khi họ kịp giết chết tôi thì một viên chỉ huy người La Mã đã giải cứu tôi và sau đó giải tôi đến thành Sê-sa-rê để chính quyền La Mã tại đó xét xử tôi.
\v 18 Chính quyền La Mã thẩm vấn tôi và muốn phóng thích tôi, vì tôi chẳng phạm tội gì để phải chịu tử hình.
\s5
\v 19 Nhưng khi những người lãnh đạo Do Thái ở đó phản đối ý định trả tự do cho tôi của người La Mã, thì tôi khiếu nại để được hoàng đế xét xử tại Rô-ma đây. Nhưng tôi làm việc này không phải vì muốn cáo buộc những người lãnh đạo của chúng ta về bất cứ điều gì.
\v 20 Vì vậy, tôi mời anh em đến đây để có thể giải thích cho anh em vì sao tôi bị giam giữ. Đó là vì tôi tin những điều mà dân Y-sơ-ra-ên lấy lòng tin trông đợi điều Đức Chúa Trời sẽ làm cho chúng ta.”
\s5
\v 21 Những người lãnh đạo Do Thái nói: “Chúng tôi chưa nhận được thư viết về anh từ những anh em Do Thái của chúng ta tại Giu-đê. Hơn nữa, cũng chưa có đồng hương Do Thái nào của chúng ta từ Giu-đê đến đây nói điều gì xấu về anh.
\v 22 Nhưng chúng tôi muốn biết anh nghĩ thế nào về đạo giáo này của anh, vì chúng tôi biết rằng tại nhiều nơi người ta đang chống đối đạo ấy.”
\s5
\v 23 Vậy là họ quyết định sẽ quay trở lại vào một ngày khác để nghe Phao-lô nói chuyện. Đến ngày đó, nhiều người hơn đã đến chỗ Phao-lô ở. Phao-lô nói cho họ biết về phương cách Đức Chúa Trời sẽ cai trị mọi người; ông cho họ biết luật Môi-se và các tiên tri đã dự báo thế nào về Chúa Giê-xu. Phao-lô nói chuyện với những ai chịu nghe, từ sáng cho đến chiều tối.
\v 24 Một số người Do Thái này tin rằng những gì Phao-lô nói về Chúa Giê-xu là đúng, nhưng số khác không tin.
\s5
\v 25 Những người này bắt đầu bất đồng với nhau, và khi họ sắp sửa ra về, Phao-lô nói thêm với họ rằng: “Đức Thánh Linh đã nói sự thật cho tổ phụ các ông, khi Ngài phán lời này với tiên tri Ê-sai:
\v 26 Hãy đến với dân của con và nói với họ: Các người lấy tai nghe, nhưng chẳng bao giờ hiểu lời Đức Chúa Trời đang phán bảo. Các người lấy mắt nhìn, nhưng chẳng bao giờ thực sự thấy những việc Đức Chúa Trời đang thực hiện.
\s5
\v 27 Những người này không hiểu vì họ cố chấp, tai họ gần như điếc; và họ nhắm mắt vì họ không muốn thấy. Họ không muốn nghe bằng chính tai mình hay hiểu bằng chính lòng mình, vì như vậy họ sẽ quay lại với Ta và Ta sẽ chữa lành họ.
\s5
\v 28 Vì thế, anh em cần biết rằng Đức Chúa Trời đang muốn cứu những người thuộc dân ngoại, và họ sẽ nghe. ”
\v 29 Công Vụ Các Sứ Đồ 28: 29 các bản chép tay tiếng Hy Lạp chính xác nhất và cổ nhất của sách Công Vụ Các Sứ Đồ không có những câu từ thêm vào trong câu này; do đó chúng không được viết đến ở đây.
\s5
\v 30 Trọn hai năm, Phao-lô sống tại đó, trong ngôi nhà mà ông thuê trọ. Nhiều người đến gặp ông, ông vui vẻ tiếp đón và trò chuyện cùng họ.
\v 31 Ông giảng và dạy cho mọi người biết về phương cách Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ vương quyền của Ngài, và về Chúa Cứu Thế Giê-xu. Ông làm việc này một cách dạn dĩ và không ai tìm cách ngăn cấm ông.