vi_udb/44-JHN.usfm

1648 lines
169 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id JHN
\ide UTF-8
\h GIĂNG
\toc1 GIĂNG
\toc2 GIĂNG
\toc3 jhn
\mt GIĂNG
\s5
\c 1
\p
\v 1 Ban đầu có Ngôi Lời. Ngôi Lời ở với Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời.
\v 2 Ngài đã ở với Đức Chúa Trời trước khi Ngài khởi tạo dựng bất kỳ vật nào.
\v 3 Ngài là Đấng thi hành mạng lệnh của Đức Chúa Trời sáng tạo ra muôn vật tức toàn thể mọi vật đã được dựng nên!
\s5
\v 4 Tất cả sự sống đều ở trong Ngôi Lời, nên Ngài đã có thể ban sự sống cho mọi vật lẫn mọi người. Ngôi Lời là sự sáng của Đức Chúa Trời chiếu rọi mọi người, khắp mọi nơi.
\v 5 Sự sáng soi trong bóng tối và bóng tối cố dập tắt sự sáng, nhưng không thể.
\s5
\v 6 Đức Chúa Trời sai phái một người tên Giăng.
\v 7 Ông đến để làm chứng cho người ta về sự sáng. Những lời ông nói đều là sự thật, và ông đã công bố sứ điệp đó để mọi người tin.
\v 8 Bản thân Giăng không phải là sự sáng, nhưng ông đã đến để nói cho mọi người về sự sáng.
\s5
\v 9 Đây là sự sáng đích thực soi sáng cho mọi người, và sự sáng đó đã vào trong thế giới này.
\s5
\v 10 Ngôi Lời ở trong thế giới, và mặc dù Ngài đã dựng nên thế giới, nhưng không một người nào trên thế giới nhận biết Ngài.
\v 11 Dù Ngài đã đến trong thế giới của mình, thậm chí đến với chính dân Ngài là người Do Thái, nhưng họ đã khước từ Ngài.
\s5
\v 12 Nhưng tất cả những ai tiếp nhận Ngài vào đời sống mình và tin cậy Ngài, thì Ngài ban cho họ quyền trở nên con của Đức Chúa Trời.
\v 13 Đây là những người con do chính Đức Chúa Trời sanh ra. Họ không được sanh ra theo cách thức thông thường, không theo ước muốn hay chọn lựa của con người, cũng không phải do người chồng nào đó khát khao được làm cha.
\s5
\v 14 Ngôi Lời đã trở nên con người thật sự và đã sống ở giữa chúng ta trong một thời gian. Chúng ta đã nhìn thấy Ngài bày tỏ bản chất oai nghi, lạ lùng của Ngài, bản chất chỉ có nơi Con Một của Đức Chúa Trời, là Đấng cho chúng ta thấy Đức Chúa Trời trước sau vẫn yêu thương chúng ta và dạy chúng ta về lẽ thật của Ngài.
\v 15 Một ngày kia, trong lúc Giăng Báp-tít đang nói cho dân chúng về Ngôi Lời thì Chúa Giê-xu đến với ông. Giăng nói lớn với đoàn dân đang vây quanh mình, rằng: “Tôi đã từng nói cho anh em biết có một Đấng đến sau tôi, là người quan trọng hơn tôi rất nhiều. Ngài đã hiện hữu trước tôi lâu lắm, từ đời đời, trước khi tôi được sinh ra. Ngài đang ở đây! Ngài chính là Đấng tôi nói đến!”
\s5
\v 16 Chúng ta hết thảy đều hưởng được ân huệ dồi dào nhờ những gì Ngài đã làm. Ngài cứ luôn đối đãi chúng ta rất nhân từ.
\v 17 Môi-se đã công bố luật pháp của Đức Chúa Trời cho dân Do Thái. Chúa Cứu Thế Giê-xu nhân từ với chúng ta hơn những gì chúng ta xứng đáng và dạy chúng ta những điều chân thật về Đức Chúa Trời.
\v 18 Chưa hề có người nào thấy Đức Chúa Trời. Nhưng Con Một của Đức Chúa Trời, Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng lúc nào cũng gần bên Cha, đã giúp chúng ta biết Ngài.
\s5
\v 19 Đây là lời Giăng nói khi làm chứng: Người Do Thái sai những thầy tế lễ và người Lê-vi từ Giê-ru-sa-lem đến hỏi Giăng “Ông là ai? ”
\v 20 Vậy là Giăng nói rõ với họ, rằng: “Ta không phải là Chúa Cứu Thế! ”
\v 21 Rồi họ hỏi ông “Thế thì ông nói mình là ai? Là Ê-li chăng? ” Giăng trả lời “Không phải. ” Họ lại hỏi: “Có phải ông là nhà tiên tri mà các tiên tri cho biết sẽ đến hay không? ” Giăng đáp: “Không phải.”
\s5
\v 22 Vậy là họ lại hỏi nữa: “Thế ông xưng mình là ai? Hãy nói cho chúng tôi, để chúng tôi trở về báo cáo cho những người đã sai chúng tôi. Ông nói mình là ai nào?"
\v 23 Giăng trả lời như lời tiên tri Ê-sai đã chép, rằng: “Tôi là người kêu lên trong hoang mạc: Hãy sửa con đường lại cho thẳng để đón Chúa đến với chúng ta.”
\s5
\v 24 Có mấy người trong số này là do người Pha-ri-si sai đến gặp Giăng.
\v 25 Họ hỏi Giăng “Nếu ông nói mình không phải là Chúa Cứu Thế, không phải là Ê-li, cũng không phải là nhà tiên tri, thì sao ông lại làm báp têm?
\s5
\v 26 Giăng trả lời “Tôi làm báp têm bằng nước, nhưng có một Đấng đang đứng giữa anh em mà anh em không biết.
\v 27 Ngài đến sau tôi, nhưng tôi thậm chí không đủ tư cách để mở dây giày của Ngài. ”
\v 28 Những việc này đã xảy ra tại làng Bê-tha-ni ở bờ phía đông Giô-đanh. Đó là nơi Giăng làm báp têm.
\s5
\v 29 Ngày tiếp theo, Giăng thấy Chúa Giê-xu đến cùng ông. Giăng nói với dân chúng: “Nhìn kìa! Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng sẽ hiến dâng mạng sống làm sinh tế xóa bôi tội lỗi của thế nhân.
\v 30 Ngài là Đấng tôi đã nói đến, rằng: Đấng đến sau tôi cao trọng hơn tôi, vì Ngài hiện hữu trước tôi, từ trước vô cùng, trước khi tôi sinh ra
\v 31 Lúc đầu, tôi không biết Ngài, nhưng giờ đây tôi đã biết Ngài. Việc của tôi là đến làm báp têm bằng nước cho những ai hối tiếc và bằng lòng lìa bỏ tội mình. Tôi muốn dân Y-sơ-ra-ên nhận biết Ngài là ai.”
\s5
\v 32 Chính công việc của Giăng cho chúng ta biết ông đã thấy gì. Ông nói thế này: “Tôi đã chứng kiến Thánh Linh của Đức Chúa Trời từ trời giáng xuống trong hình dạng của chim bồ câu. Thánh Linh đã đáp đậu trên Chúa Giê-xu.
\v 33 Lúc đầu, chính tôi cũng chẳng biết Ngài, nhưng Đức Chúa Trời đã sai tôi đến để làm báp têm bằng nước cho dân chúng, những người muốn lìa bỏ con đường tội lỗi. Đức Chúa Trời đã phán cùng tôi rằng: “Đấng mà con sẽ thấy Thánh Linh giáng xuống và đậu trên sẽ làm báp têm cho hết thảy các con bằng Đức Thánh Linh.
\v 34 Tôi đã thấy và tôi làm chứng cho các ông rằng Ngài là Con Đức Chúa Trời”
\s5
\v 35 Ngày hôm sau, Giăng Báp-tít lại có mặt tại cùng chỗ đó với hai môn đồ của mình.
\v 36 Khi thấy Chúa Giê-xu đi ngang qua, ông liền nói: “Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng mà Đức Chúa Trời chỉ định hy sinh mạng sống như chiên con bị dân Y-sơ-ra-ên giết chết, để đền tội cho họ!”
\s5
\v 37 Khi hai môn đồ của Giăng đã nghe xong, họ liền bỏ Giăng mà đi theo Chúa Giê-xu.
\v 38 Chúa Giê-xu quay lại thấy họ đi theo mình, liền hỏi: “Các anh muốn tìm ai? ” Họ trả lời Ngài: “Ra-bi (nghĩa là thầy), xin nói cho chúng tôi biết chỗ thầy ở. ”
\v 39 Ngài đáp: “Hãy đi với tôi, rồi các anh sẽ biết!" Vậy, họ đến và thấy chỗ Ngài ở, và họ đã ở lại với Ngài bữa đó, khi trời đã về chiều (Lúc ấy khoảng bốn giờ chiều.)
\s5
\v 40 Một trong hai môn đồ đã đi theo Chúa Giê-xu đó tên là Anh-rê; ông là em trai của Si-môn Phi-e-rơ.
\v 41 Trước tiên, Anh-rê đã đi tìm anh mình là Si-môn. Khi đến gặp anh, ông nói: “Bọn em đã tìm gặp đấng Mê-si (nghĩa là Chúa Cứu Thế)! ”
\v 42 Anh-rê đưa Si-môn đến cùng Chúa Giê-xu. Chúa Giê-xu nhìn ngay Phi-e-rơ và phán “Anh là Si-môn. Cha của anh là Giăng. Anh sẽ có tên là Sê-pha”. Sê-pha là tên tiếng A-ram, có nghĩa là ‘đá rắn. (Phi-e-rơ có nghĩa tương tự trong tiếng Hy Lạp.)
\s5
\v 43 Hôm sau, Chúa Giê-xu quyết định rời khỏi châu thổ sông Giô-đanh. Ngài đi đến miền đất quanh vùng Ga-li-lê và gặp một người tên Phi-líp. Chúa Giê-xu phán với anh: “Anh theo tôi. ”
\v 44 Phi-líp, Anh-rê, và Phi-e-rơ đều là dân thành Bết-sai-da (trong vùng Ga-li-lê).
\v 45 Rồi Phi-líp đi tìm Na-tha-na-ên, bạn mình. Khi đến chỗ bạn, ông nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng mà Môi-se đã nói đến trong luật pháp, tức Chúa Cứu Thế. Các tiên tri đã dự báo Ngài sẽ đến. Chúa Cứu Thế này là Giê-xu. Ngài xuất thân từ thành Na-xa-rét. Cha Ngài tên là Giô-sép."
\s5
\v 46 Na-tha-na-ên đáp “Từ Na-xa-rét ư? ” Có gì tốt đẹp ra từ Na-xa-rét được sao? ” Phi-líp đáp “Cứ đến, rồi anh sẽ thấy! ”
\v 47 Khi Chúa Giê-xu thấy Na-tha-na-ên đến, Ngài đã nói về Na-tha-na-ên trước khi gặp ông: “Đây là một người Y-sơ-ra-ên thật thà, chính trực! Anh ta chưa từng dối gạt ai! ”
\v 48 Na-tha-na-ên thắc mắc: “Làm sao Ngài biết được tôi là hạng người như thế nào? Ngài có quen biết tôi đâu. ” Chúa Giê-xu đáp: “Tôi đã thấy anh trước khi Phi-líp gọi anh, lúc anh ngồi ở dưới cây vả.”
\s5
\v 49 Vậy là Na-tha-na-ên reo lên: “Thưa thầy, thầy hẵn là Con của Đức Chúa Trời! Thầy là Vua Y-sơ-ra-ên mà chúng tôi đang mong đợi! ”
\v 50 Chúa Giê-xu đáp lại: “Anh tin tôi chỉ vì tôi nói đã thấy anh dưới cây vả ư? Anh sẽ chứng kiến những việc kỳ diệu hơn nhiều. ”
\v 51 Rồi Chúa Giê-xu phán cùng ông: “Tôi nói thật với anh: Giống như khải tượng mà tổ phụ Gia-cốp của anh em đã thấy ngày trước, anh em rồi cũng sẽ thấy thiên đàng mở ra, và thiên sứ của Đức Chúa Trời lên xuống trên Con Người, tức tôi đây.”
\s5
\c 2
\p
\v 1 Ba ngày sau đó, có một lễ cưới tại Ca-na, một thành thuộc vùng Ga-li-lê, và mẹ Chúa Giê-xu có ở đó.
\v 2 Người ta cũng mời Chúa Giê-xu và các môn đồ đến dự hôn lễ.
\s5
\v 3 Họ đãi rượu cho khách dự tiệc, và người ta uống hết sạch. Mẹ Chúa Giê-xu nói với Ngài: “Họ hết rượu rồi. ”
\v 4 Chúa Giê-xu đáp lại: “Thưa bà, việc đó có can hệ gì đến tôi? Thời điểm để tôi bắt đầu công việc quan trọng nhất của mình chưa đến”
\v 5 Mẹ Chúa Giê-xu quay lại nói với những người đầy tớ: “Cậu ấy bảo gì các chú cứ làm theo.”
\s5
\v 6 Tại đó có sáu chiếc vại đá trống trơn, vốn chứa nước để thực khách và các đầy tớ rửa tay, rửa chân, cũng như thực hiện các nghi thức thanh tẩy khác của người Do Thái. Mỗi cái vại có thể chứa từ bảy mươi lăm đến một trăm mười lăm lít.
\v 7 Chúa Giê-xu bảo các anh đầy tớ: “Hãy đổ nước cho đầy mấy cái vại đi! Vậy là họ đổ nước đầy đến miệng.
\v 8 Rồi Ngài bảo họ: “Bây giờ, hãy múc ít nước trong vại đem đến cho người quản tiệc. ” Họ liền làm theo.
\s5
\v 9 Người quản tiệc nếm thử nước mà giờ đây đã biến thành rượu đó. Ông ta không biết rượu này từ đâu mà có, nhưng những đầy tớ lại biết. Vì thế, ông đã gọi chàng rể đến và nói:
\v 10 “Mọi người đều đãi rượu ngon trước, khi khách mời đã uống nhiều và rượu ngon không còn, thì mới dọn rượu rẻ tiền. Nhưng anh lại giữ rượu ngon nhất cho đến lúc này.”
\s5
\v 11 Đó là phép lạ đầu tiên Chúa Giê-xu thực hiện, bày tỏ sự thật về Ngài. Chúa Giê-xu đã thực hiện phép lạ đầu tiên ấy tại Ca-na, thuộc vùng Ga-li-lê. Tại đó, Ngài chứng tỏ rằng Ngài có thể làm những việc phi thường. Vì thế, các môn đồ tin Ngài.
\s5
\v 12 Sau sự việc này, Chúa Giê-xu và mẹ cùng các em trai Ngài xuống thành Ca-bê-na-um với các môn đồ, rồi ở lại đó mấy ngày.
\s5
\v 13 Lúc ấy sắp đến thời điểm kỷ niệm Lễ Vượt Qua của người Do thái. Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài đi lên thành Giê-ru-sa-lem.
\v 14 Tại sân đền thờ, Ngài nhìn thấy những người buôn bán bò, chiên và chim bồ câu. Các động vật này được bán cho những người muốn dâng sinh tế tại đền thờ. Ngài cũng thấy có những người ngồi ở bàn buôn tiền dâng vào đến thờ.
\s5
\v 15 Ngài bện một chiếc roi bằng dây da rồi dùng roi đó đuổi chiên và bò ra khỏi đền thờ. Ngài lật đổ bàn của những kẻ đổi tiền và vãi tiền của họ xuống đất.
\v 16 Ngài ra lệnh cho những kẻ bán bồ câu: “Hãy đem mấy con bồ câu này ra khỏi đây! Đừng biến nhà Cha ta thành nơi buôn bán!”
\s5
\v 17 Điều này nhắc các môn đồ của Ngài nhớ về những điều đã được chép rất lâu trước đó, rằng: “Đức Chúa Trời ôi, con yêu mến nhà Ngài vô cùng, nên con sẽ chết để bảo vệ. ”
\v 18 Những nhà lãnh đạo Do Thái hỏi Ngài rằng: “Anh thực hiện được phép lạ nào để chứng minh cho chúng tôi Đức Chúa Trời cho phép anh làm điều anh đang làm đây?
\v 19 Chúa Giê-xu đáp lời họ: “Hãy phá đền thờ này đi, rồi tôi sẽ dựng lại trong ba ngày.”
\s5
\v 20 Họ hỏi Ngài: “Anh nói là sẽ xây lại toàn bộ ngôi đền này chỉ trong có ba ngày à? Người ta phải mất đến bốn mươi sáu năm đó. ”
\v 21 Tuy nhiên, đền thờ Chúa Giê-xu đang nói đến chính là thân thể của Ngài, không phải là ngôi đền kia.
\v 22 Về sau, sau khi Chúa Giê-xu chết và được Đức Chúa Trời khiến sống lại, thì các môn đồ nhớ lại lời Ngài nói về đền thờ. Họ tin những gì Kinh Thánh nói lẫn những gì chính Chúa Giê-xu đã phán dạy.
\s5
\v 23 Đang khi Chúa Giê-xu ở tại thành Giê-ru-sa-lem trong thời gian lễ Vượt Qua, có nhiều người tin Ngài vì thấy những phép lạ bày tỏ sự thật về Ngài.
\v 24 Tuy nhiên, Chúa Giê-xu thừa biết người ta như thế nào, và vì Ngài biết họ quá rõ, nên Ngài không tin họ.
\v 25 Ngài không cần bất cứ ai nói cho Ngài biết người ta gian ác như thế nào. Ngài biết hết về họ.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Có một người nọ tên là Ni-cô-đem. Ông là thành viên của phái Pha-ri-si, một phái rất khe khắt trong Do Thái giáo lúc bấy giờ. Ông là một nhân vật quan trọng, là thành viên hội đồng tối cao của người Do Thái.
\v 2 Ông này đến gặp Chúa Giê-xu vào ban đêm. Ông thưa với Chúa: “Thưa thầy, chúng tôi biết rằng thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến. Chúng tôi biết điều này bởi vì không một ai có thể thực hiện những phép lạ mà thầy đã đó làm trừ khi Đức Chúa Trời giúp đỡ người ấy."
\s5
\v 3 Chúa Giê-xu đáp lại Ni-cô-đem rằng: “Tôi nói thật với ông, không ai có thể vào nước Đức Chúa Trời trừ khi người đó được sanh lại. ”
\v 4 Ni-cô-đem thưa cùng Ngài: “Một người đã già thì làm sao sanh lại được? Có người nào trở vào lòng mẹ để được sanh thêm một lần nữa đâu!”
\s5
\v 5 Chúa Giê-xu trả lời: “Tôi bảo đảm rằng điều sau đây cũng là sự thật, đó là: không ai có thể vào nước Đức Chúa Trời trừ khi người đó được sanh bằng nước và Thánh Linh.
\v 6 Nếu ai đó do con người sinh ra thì người ấy là con người. Nhưng ai được sanh lại nhờ tác động của Thánh Linh Đức Chúa Trời thì người đó có bản chất thuộc linh mới mà Đức Chúa Trời dựng nên trong họ.
\s5
\v 7 Đừng ngạc nhiên khi tôi nói với ông là ông phải sanh lại.
\v 8 Sự thể là thế này: Gió muốn thổi đâu cũng được. Ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió đến từ đâu hay đi đâu. Điều này cũng giống như người được Đức Thánh Linh làm cho sống: Đức Thánh Linh ban sự tái sanh cho người nào Ngài muốn.”
\s5
\v 9 Ni-cô-đem đáp lại Ngài: “Làm sao có chuyện đó được?"
\v 10 Chúa Giê-xu đáp: “Ông là giáo sư rất quan trọng trong Y-sơ-ra-ên mà lại không hiểu điều tôi nói sao?
\v 11 Tôi nói thật với ông, chúng tôi nói điều mình biết là đúng, và chúng tôi tỏ cho ông điều chúng tôi thấy, nhưng chẳng ai trong các ông nghe lời chúng tôi nói mà tin cả.
\s5
\v 12 Nếu các ông không tin lời tôi khi tôi nói với các ông những việc dưới đất này, thì làm sao các ông tin được khi tôi nói với các ông những việc thuộc cõi trời?
\v 13 Chính tôi, Con Người, là người duy nhất đã lên trời, và tôi cũng là người duy nhất từ trời xuống dưới đất này.
\s5
\v 14 Xưa kia, lúc Môi-se ở trong hoang mạc sau khi ra khỏi Ai Cập, ông đã treo con rắn độc trên cây sào, để tất cả những ai nhìn lên con rắn ấy đều được cứu. Tương tự, Con Người cũng phải bị treo lên
\v 15 để bất cứ ai nhìn lên và tin Ngài đều được sự sống đời đời.
\s5
\v 16 Đức Chúa Trời yêu thương thế giới như thế này: Ngài đã ban Con Một của Ngài để bất cứ ai tin nơi Con ấy sẽ không chết, được hưởng sự sống đời đời.
\v 17 Đức Chúa Trời không sai Con Ngài vào thế giới để tuyên án, mà là để cứu thế giới.
\v 18 Ai tin Con, thì Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ kết tội họ. Nhưng ai không tin Con, thì Đức Chúa Trời đã kết tội họ rồi, vì không đặt lòng tin nơi danh Con Một của Ngài.
\s5
\v 19 Đức Chúa Trời đã tỏ rõ công lý của Ngài đối với tội nhân để ai cũng thấy được: sự sáng của Ngài đã vào trong thế giới, nhưng con người thuộc thế giới này lại yêu thích bóng tối và trốn tránh ánh sáng. Họ yêu thích bóng tối bởi vì những điều họ làm là xấu xa, gian tà.
\v 20 Ai làm ác thì ghét ánh sáng, và họ sẽ không khi nào đến với ánh sáng vì ánh sáng phơi bày việc họ làm và cho thấy họ gian ác là dường nào.
\v 21 Nhưng ai làm điều thiện lành và ngay thật thì đến với ánh sáng để việc mình làm được mọi người nhìn thấy và họ đều biết rằng mình vâng lời Đức Chúa Trời khi làm các việc ấy.
\s5
\v 22 Sau các sự việc đó, Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài đi đến vùng Giu-đê. Ngài ở đó ít lâu cùng với các môn đồ và làm phép báp-têm cho nhiều người.
\v 23 Giăng Báp-tít cũng làm báp-têm cho dân chúng gần ngôi làng Ê-nôn, gần Sa-lim trong vùng Sa-ma-ri. Nơi đó có rất nhiều nước, vì thế nhiều người tiếp tục đến cùng Giăng.
\v 24 Đây là thời điểm trước khi kẻ thù của Giăng bắt giam ông vào tù.
\s5
\v 25 Có một cuộc tranh cãi nổi lên giữa mấy môn đồ của Giăng với một người Do Thái về việc tẩy rửa để có thể được Đức Chúa Trời chấp nhận.
\v 26 Những người tham gia vụ tranh cãi đã đến cùng Giăng và nói: “Thưa thầy, có một người từng đến với thầy khi thầy làm báp têm cho dân chúng ở bên kia sông Giô-đanh. Thầy đã chỉ người ấy cho chúng tôi và cho chúng tôi biết đó là ai. Giờ đây, ông ta đang làm báp têm tại vùng Giu-đê phía bên kia, và có nhiều người đang ra đó gặp ông ta.”
\s5
\v 27 Giăng đáp lại họ: “Nếu Đức Chúa Trời không ban cho thì chẳng ai có thể nhận được gì, cho dù chỉ là một điều thôi.
\v 28 Anh em biết là tôi nói thật khi bảo anh em: Tôi không phải là đấng Mê-si, mà tôi chỉ được phái đến trước để sửa lại đường cho ngay, chuẩn bị cho khi Ngài đến.
\s5
\v 29 Tôi giống như bạn của chàng rể. Tôi đứng đó chờ chàng rể đến. Là bạn của chàng rễ, tôi vui sướng nghe tiếng của chàng rễ khi cuối cùng chàng rễ cũng đã đến. Cho nên, vì mọi việc này đã xảy ra, tôi tràn ngập niềm vui sướng vì Ngài đã đến.
\v 30 Vị thế và tầm quan trọng của Ngài sẽ tăng lên, còn tôi sẽ ngày càng kém quan trọng đi.
\s5
\v 31 Chúa Giê-xu đến từ thiên đàng, và địa vị của Ngài cao trọng hơn bất kỳ ai khác. Chúng ta sống dưới đất nên chỉ có thể nói về những điều thuộc về đất. Còn Đấng đến từ trời thì ở trên mọi người và mọi vật.
\v 32 Ở đây có một Đấng làm chứng về những gì mình đã thấy và nghe, nhưng không ai tiếp nhận lời Ngài nói hoặc tin đó là sự thật.
\v 33 Tuy nhiên, những ai đã tin lời Ngài nói đều làm chứng rằng Đức Chúa Trời là nguồn của toàn bộ chân lý; chỉ một mình Ngài là thước đo và chuẩn mực của mọi điều đúng.
\s5
\v 34 Đức Chúa Trời đã sai sứ giả của Ngài đến, và những điều Ngài nói là thật, vì Ngài nói lời của Đức Chúa Trời. Và Đức Chúa Trời ban Thánh Linh cho Ngài không giới hạn.
\v 35 Cha yêu thương Con và đặt mọi sự dưới quyền của Ngài.
\v 36 Ai tin Con của Đức Chúa Trời thì có sự sống đời đời. Ai không vâng lời Con của Đức Chúa Trời thì chẳng khi nào có được sự sống đời đời, nhưng cơn thịnh nộ công bình của Đức Chúa Trời đối với mọi tội người đó đã phạm sẽ cứ ở mãi trên người đó.”
\s5
\c 4
\p
\v 1 Chúa Giê-xu nghe lời thuật lại về người Pha-ri-si. Họ đã biết được có nhiều người theo Ngài hơn là theo Giăng Báp-tít, và Ngài cũng làm báp têm cho nhiều người hơn Giăng.
\v 2 Nhưng không phải chính Chúa Giê-xu thực hiện báp-têm, mà là các môn đồ của Ngài.
\v 3 Vì thế Chúa Giê-xu cùng môn đồ rời khỏi vùng Giu-đê và một lần nữa trở lại Ga-li-lê.
\s5
\v 4 Bấy giờ, họ phải đi ngang vùng Sa-ma-ri.
\v 5 Vậy, họ đến một thành tên là Si-kha trong vùng Sa-ma-ri. Si-kha nằm gần miếng đất mà ngày trước Gia-cốp đã cho Giô-sép, con trai mình.
\s5
\v 6 Ngay bên ngoài thành Si-kha là giếng Gia-cốp. Chúa Giê-xu rất mệt vì chặng đường dài, nên Ngài ngồi xuống nghỉ bên cạnh giếng. Lúc đó khoảng giữa trưa.
\v 7 Có một phụ nữ Sa-ma-ri ra giếng múc nước. Chúa Giê-xu nói với chị: “Xin cho tôi ít nước uống. ”
\v 8 Lúc đó, chỉ còn một mình Ngài bên giếng vì các môn đồ đã vào thành mua thức ăn.
\s5
\v 9 Người phụ nữ nói với Ngài: “Tôi ngạc nhiên khi một người Do Thái như ông lại đi xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho nước uống. ”
\v 10 Chúa Giê-xu đáp lại chị: “Nếu chị biết tặng phẩm mà Đức Chúa Trời muốn ban cho mình, và nếu chị biết được ai đang xin chị uống nước, thì chị đã xin tôi cho chị uống và tôi đã cho chị nước sống rồi.”
\s5
\v 11 “Thưa ông, ông không có gàu hay dây thừng để múc nước, và giếng này thì lại sâu. Vậy, ông sẽ lấy nước sự sống ấy ở đâu ra?
\v 12 Ông không thể lớn hơn tổ phụ của chúng tôi là Gia-cốp. Người đã đào giếng này để chúng tôi dùng ngày nay, chính người cùng con cháu và súc vật người đều uống nước từ giếng này.”
\s5
\v 13 Chúa Giê-xu đáp lại chị: “Ai uống nước dưới giếng này sẽ bị khát lại,
\v 14 nhưng ai uống nước tôi sẽ cho thì sẽ chẳng bao giờ bị khát nữa. Nước tôi cho sẽ trở thành suối nước thỏa mãn cơn khát và đem đến cho họ sự sống đời đời.”
\s5
\v 15 Người phụ nữ thưa với Ngài: “Thưa ông, xin cho tôi nước đó, để tôi không bao giờ khát lại và khỏi phải ra đây múc nước nữa. ”
\v 16 Chúa Giê-xu biết chị không hiểu điều Ngài đang nói, nên Ngài bảo chị: “Hãy đi gọi chồng chị đến đây.”
\s5
\v 17 Người phụ nữ đáp lại Ngài: “Tôi không có chồng. ” Chúa Giê-xu nói với chị: “Chị nói mình không có chồng là đúng rồi,
\v 18 vì chị không phải chỉ có một, mà là đến năm đời chồng, và người đàn ông hiện đang chung sống với chị cũng chẳng phải là chồng của chị. Cho nên lời chị nói rằng mình không có chồng quả chẳng sai.”
\s5
\v 19 Người phụ nữ nói với Ngài: “Thưa ông, tôi nhận thấy ông là một tiên tri.
\v 20 Tổ phụ của chúng tôi thờ Đức Chúa Trời ngay tại đây, trên ngọn núi này, nhưng người Do thái nói rằng Giê-ru-sa-lem mới là nơi chúng tôi phải thờ phượng Đức Chúa Trời. Ai đúng?”
\s5
\v 21 Chúa Giê-xu nói với chị: “Này chị, hãy tin tôi khi tôi nói rằng sắp đến lúc người ta sẽ không thờ phượng Cha tại núi này hoặc tại Giê-ru-sa-lem.
\v 22 Chị và dân ở Sa-ma-ri thờ phượng Đấng mình không biết. Nhưng người Do Thái chúng tôi biết Đấng mình thờ phượng vì sự cứu rỗi đến từ người Do Thái.
\s5
\v 23 Sắp đến lúc, và thời điểm ấy đã đến, khi những người thật lòng thờ phượng Đức Chúa Trời sẽ thờ phượng Cha bằng tâm linh và chân lý. Cha tìm kiếm những người như vậy để họ thờ phượng Ngài theo cách ấy.
\v 24 Đức Chúa Trời là Thần Linh, nên những người thờ phượng Ngài phải thờ phượng bằng tâm linh, và phải được chân lý hướng dẫn khi thờ phượng.”
\s5
\v 25 Người phụ nữ nói với Ngài: “Tôi biết rằng Đấng Mê-si, là Chúa Cứu Thế sẽ đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ nói cho chúng ta mọi điều chúng ta cần phải nghe. ”
\v 26 Chúa Giê-xu nói với chị: Tôi, người đang nói chuyện với chị, chính là Đấng đó!”
\s5
\v 27 Vừa lúc ấy, các môn đồ từ trong thành về đến. Họ kinh ngạc vì Chúa Giê-xu đang nói chuyện với một phụ nữ không phải là người nhà của Ngài. (Việc này đi ngược lại lại phong tục của người Do thái). Tuy nhiên, không ai dám hỏi Ngài: “Thầy đã nói chuyện gì với người phụ nữ này? ” hay “Sao Thầy lại nói chuyện với chị ta?”
\s5
\v 28 Người phụ nữ bỏ lại bình nước ở đó và đi trở vào thành. Chị nói với dân chúng trong thành rằng:
\v 29 “Hãy đến xem người đã nói với tôi mọi điều mà tôi đã từng làm! Ông ta không phải là Chúa Cứu Thế sao? ”
\v 30 Nhiều người trong thành bắt đầu kéo ra, đi đến chỗ Chúa Giê-xu.
\s5
\v 31 Các môn đồ của Ngài vừa đem thức ăn về, nài xin Ngài, rằng: “Thầy ơi, xin hãy ăn chút gì đi. ”
\v 32 Chúa Giê-xu nói với họ: “Thầy có lương thực mà anh em chẳng biết gì cả! ”
\v 33 Vậy là các môn đồ hỏi nhau: “Có ai đã đem gì đó cho Thầy ăn rồi ư?”
\s5
\v 34 Chúa Giê-xu đáp: “Thầy sẽ cho biết Thầy đói khát điều gì nhất: đó là thực hiện việc Cha Thầy muốn và hoàn tất mọi công việc của Ngài. Chính Cha đã sai phái Thầy. ”
\v 35 Vào thời điểm này trong năm, anh em thường nói: Còn bốn tháng nữa chúng ta sẽ đến mùa thu hoạch. Nhưng hãy thử nhìn quanh đi! Cánh đồng lúc này đã sẵn sàng cho mùa gặt. Những người ngoại bang muốn Đức Chúa Trời cai trị họ; họ giống như những cánh đồng đã sẵn sàng để thu hoạch.
\v 36 Những ai tin lời này và sẵn sàng tham gia vào vụ thu hoặch đang nhận lãnh tiền công và gặt hái nhiều thành quả cho sự sống đời đời. Người gieo giống và thợ gặt sẽ cùng nhau vui mừng.
\s5
\v 37 Sự thật là thế này: người này gieo, kẻ khác gặt.
\v 38 Thầy sai anh em gặt hái thành quả của vụ mùa mà anh em không gieo trồng. Có những người đã làm việc rất khó nhọc, nhưng giờ đây anh em đang cùng tham gia vào công việc của họ.”
\s5
\v 39 Nhiều người Sa-ma-ri sống trong thành Si-kha đã tin Chúa Giê-xu nhờ lời họ được nghe từ tất cả những người phụ nữ nói về Ngài cho họ. Chị đã nói: “Ông ấy cho tôi biết mọi điều mà tôi từng làm. ”
\v 40 Khi những người Sa-ma-ri đến gặp Chúa Giê-xu, họ nài nỉ Ngài ở lại với họ lâu hơn. Vậy là Ngài ở lại đó hai ngày.
\s5
\v 41 Có nhiều người nữa tin Chúa Giê-xu vì nghe lời Ngài rao báo.
\v 42 Họ nói với người phụ nữ: “Giờ thì chúng tôi tin Chúa Giê-xu không chỉ vì lời chị nói về Ngài, mà cũng vì chúng tôi đã nghe sứ điệp Ngài dành cho mình. Chúng tôi biết rằng Con Người này đúng là Chúa Cứu Thế.”
\s5
\v 43 Sau hai ngày lưu lại Sa-ma-ri, Chúa Giê-xu cùng các môn đồ lên đường đi đến vùng Ga-li-lê.
\v 44 (Chính Chúa Giê-xu từng xác nhận rằng nhà tiên tri được tôn trọng ở nhiều nơi, nhưng chẳng bao giờ được như vậy tại quê nhà.)
\v 45 Tuy nhiên, khi Ngài về đến Ga-li-lê, nhiều người ở đó đã chào đón Ngài. Họ biết Ngài vì đã thấy mọi việc Ngài làm không lâu trước đó tại Giê-ru-sa-lem trong kỳ Lễ Vượt Qua.
\s5
\v 46 Chúa Giê-xu trở lại thành Ca-na trong vùng Ga-li-lê một lần nữa. (Đó là nơi Ngài đã hóa nước thành rượu.) Một vị quan của triều đình sống tại thành Ca-bê-na-um chỉ cách đó hai mươi bảy ki-lô-mét có cậu con trai bị bệnh rất nặng.
\v 47 Khi người đó nghe nói rằng Chúa Giê-xu đã từ Giu-đê trở về Ga-li-lê, ông ta đến gặp Chúa Giê-xu tại Ca-na và nài nỉ: “Xin đi xuống Ca-bê-na-um chữa lành cho con trai tôi. Nó sắp chết rồi!”
\s5
\v 48 Chúa Giê-xu nói với ông: “Nếu ông không thấy những việc tôi làm và các phép lạ chứng minh tôi là ai, thì ông sẽ không tin tôi! ”
\v 49 Nhưng vị quan cứ nói với Ngài: “Thưa Ngài, xin hãy xuống nhà tôi trước khi con trai tôi chết! ”
\v 50 Chúa Giê-xu đáp: “Hãy đi. Con trai ông sẽ sống. ” Ông này tin lời Chúa Giê-xu nói và lên đường trở về nhà mình.
\s5
\v 51 Khi ông còn đang đi về nhà ở Ca-bê-na-um thì các đầy tớ đến đón ông dọc đường. Họ nói với ông: “Con trai của chủ sống rồi”.
\v 52 Ông hỏi: “Con ta bắt đầu khá hơn vào lúc nào? ” Họ thưa rằng: “Cậu chủ hết sốt vào lúc một giờ trưa hôm qua.”
\s5
\v 53 Người cha nhận ra rằng đó chính là lúc Chúa Giê-xu phán với mình: “Con trai ông sống. ” Vậy là ông cùng mọi người trong nhà đều tin Chúa Giê-xu.
\v 54 Đó là lần thứ hai Chúa Giê-xu thi thố năng quyền chứng minh cho mọi người về Ngài. Ngài làm việc này lúc đến vùng Ga-li-lê, sau khi từ Giu-đê trở về.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Sau đó, đến một kỳ lễ khác của người Do Thái, Chúa Giê-xu lại lên Giê-ru-sa-lem dự lễ.
\v 2 Tại thành Giê-ru-sa-lem, bên cạnh một trong những cửa thành, có một nơi gọi là Cửa Chiên. Tại cửa đó, có một cái hồ gọi là Bê-tết-đa (theo tiếng A-ram). Kế bên hồ là năm hành lang, hay hàng hiên, có mái che.
\v 3-4 Ở đó có rất đông người bệnh tật, mù lòa, tê bại. Nhiều người không đi được nằm dài trên hành lang.
\s5
\v 5 Có một người bại đã nằm ở đó ba mươi tám năm.
\v 6 Chúa Giê-xu nhìn thấy anh nằm đó thì Ngài biết rằng anh đã ở trong tình trạng này lâu ngày. Ngài nói với anh: “Anh có muốn được khỏe mạnh không?”
\s5
\v 7 Người này trả lời Ngài: “Thưa ông, không có ai giúp đưa tôi xuống hồ mỗi khi nước động. Trong lúc tôi cố gắng để đến bên ao, thì luôn có người xuống trước tôi”
\v 8 Chúa Giê-xu nói với anh: “Anh đứng dậy! Hãy ôm gường chiếu lên rồi bước đi!”
\s5
\v 9 v 9 Tức thì, anh ta được lành; anh ta ôm gường chiếu lên và đi. Hôm đó là ngày Sa-bát, tức ngày nghỉ.
\s5
\v 10 Những người lãnh đạo Do Thái nói với người đã được chữa lành: “Hôm nay là ngày Sa-bát, và anh biết rằng mang gường chiếu đi như vậy trong ngày nghỉ là phạm luật đấy. ”
\v 11 Người đàn ông được chữa lành trả lời họ: “Nhưng người chữa lành cho tôi đã bảo tôi Hãy hãy ôm gường chiếu lên và đi!”
\s5
\v 12 Họ hỏi anh: “Người đó là ai? ”
\v 13 Mặc dù Chúa Giê-xu đã chữa lành cho anh, nhưng anh không biết tên Ngài. Sau khi chữa lành cho anh, Chúa Giê-xu đã lánh đi và khuất mất vào đám đông.
\s5
\v 14 Sau này gặp lại anh trong đền thờ, Chúa Giê-xu nói với anh: Này, anh đã mạnh khỏe rồi đấy. Đừng phạm tội nữa, để khỏi có chuyện gì tồi tệ thêm xảy ra cho mình nhé. ”
\v 15 Anh này đi nói cho các nhà lãnh đạo Do Thái rằng người đã chữa lành cho mình là Chúa Giê-xu.
\s5
\v 16 Vậy là người Do Thái bắt đầu tìm cách ngăn chặn Chúa Giê-xu vì Ngài cứ làm phép lạ bày tỏ năng quyền của mình, mà lại thường làm các phép lạ đó trong ngày Sa-bát.
\v 17 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Ngay cả lúc này đây Cha Tôi vẫn đang làm việc, và Tôi cũng vậy. ”
\v 18 Đây là lý do người Do Thái càng tìm cách giết Chúa Giê-xu, không chỉ vì Ngài vi phạm ngày Sa-bát, mà cũng vì Ngài gọi Đức Chúa Trời là Cha của mình, tức tự nhận mình bình đẳng với Đức Chúa Trời.
\s5
\v 19 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Tôi nói thật để các ông biết: Tôi, tức Con Người, chẳng có thể làm gì theo thẩm quyền riêng của mình. Tôi chỉ có thể làm việc mà Tôi thấy Cha làm. Bất kỳ điều gì Cha làm, thì đó cũng là việc Con, tức Tôi đây, làm.
\v 20 Cha yêu thương Tôi, là Con, và tỏ cho Tôi biết mọi việc Ngài làm. Cha thậm chí sẽ tỏ cho tôi những việc lớn hơn nữa, để các ông thấy việc tôi có thể làm và kinh ngạc.
\s5
\v 21 Như Cha khiến hồi sinh người đã chết và ban sự sống cho họ thể nào, thì Tôi, là Con, cũng ban sự sống cho bất cứ ai Tôi muốn.
\v 22 Cha không đoán xét ai, nhưng đã trao hết cho Tôi mọi quyền đoán xét,
\v 23 để mọi người cũng tôn kính Tôi, là Con, như họ đã tôn kính Cha. Ai không tôn kính Tôi thì cũng không tôn kính Cha được.
\s5
\v 24 Tôi nói thật để các ông biết: ai nghe sứ điệp của tôi mà tin rằng Đức Chúa Trời đã sai phái tôi, thì người ấy được sự sống đời đời và không bị Đức Chúa Trời đoán xét. Thay vào đó, người ấy đã đi từ chỗ chết đến chỗ sống.
\s5
\v 25 Tôi nói thật để các ông biết: Sẽ đến lúc những người đã chết nghe tiếng Tôi, tức tiếng của Con Đức Chúa Trời, và những người nghe Tôi đó sẽ sống.
\s5
\v 26 Vì như Cha có thể khiến người ta sống, thì cũng vậy, Ngài đã ban năng quyền cho Tôi, là Con, để khiến người ta sống.
\v 27 Cha đã cho Tôi thẩm quyền làm bất kỳ điều gì Ngài biết là công bình, vì Tôi là Con Người.
\s5
\v 28 Đừng ngạc nhiên về điều này vì sẽ đến lúc người đã chết nghe tiếng Tôi gọi,
\v 29 và họ sẽ ra khỏi mồ mả. Đức Chúa Trời sẽ khiến những ai đã làm lành được sống lại và cho họ sống đời đời. Còn những người làm ác thì Ngài cũng khiến sống lại, nhưng là để kết tội họ và hình phạt họ đời đời.
\s5
\v 30 Tôi không thể tự mình làm việc gì. Bất cứ điều gì Tôi nghe nơi Cha, thì Tôi theo đó mà đoán xét và Tôi đoán xét công minh. Tôi đoán xét công minh bởi vì Tôi không tìm cách làm điều mình muốn, nhưng làm điều Cha muốn, Ngài là Đấng đã sai Tôi đến đây.
\v 31 Nếu Tôi là người duy nhất làm chứng về mình, thì sẽ không ai tin lời chứng của Tôi là đúng hay đáng tin.
\v 32 Tuy nhiên, có người khác làm chứng về Tôi và Tôi biết rằng lời chứng của người đó về Tôi đúng sự thật.
\s5
\v 33 Các ông sai sứ giả đến gặp Giăng Báp-tít, và người đã nói cho các ông sự thật về Tôi.
\v 34 Tôi thật sự không cần Giăng hay bất cứ ai làm nhân chứng cho Tôi, nhưng Tôi nói những điều này để các ông được cứu.
\v 35 Giăng Báp-tít là ngọn đèn đang cháy sáng, còn các ông được tạm hưởng niềm vui trong ánh sáng của người.
\s5
\v 36 Tuy nhiên, bằng chứng tôi cung cấp về mình còn lớn hơn lời Giăng làm chứng về Tôi. Mọi việc Cha cho phép tôi thực hiện tôi làm các việc ấy hằng ngày, và các ông đều thấy tôi làm thì những việc đó cho biết rõ Tôi là ai; chúng giải tỏ mục đích tôi đến thế giới này. Chúng là chứng cớ cho thấy Cha đã sai phái Tôi.
\v 37 Cha là Đấng sai Tôi đến, Ngài là Đấng đã làm chứng về Tôi. Các ông chưa từng nghe tiếng Ngài và chưa bao giờ thấy diện mạo Ngài.
\v 38 Bằng chứng cho thấy các ông không có lời Ngài sống động trong lòng là các ông không chịu tin Tôi, người được Ngài sai phái.
\s5
\v 39 Các ông nghiên cứu Kinh Thánh kỹ lưỡng vì nghĩ rằng nhờ nghiên cứu như vậy mà mình tìm được sự sống đời đời, mà Kinh Thánh thì lại làm chứng về Tôi.
\v 40 Vậy mà các ông không chịu đến với Tôi để nhận sự sống đời đời tôi ban tặng.
\s5
\v 41 Người ta có khen tặng tôi hoặc chúc tụng tôi, tôi đều phớt lờ.
\v 42 Tôi biết rõ các ông: các ông không yêu mến Đức Chúa Trời.
\s5
\v 43 Tôi đã đến bằng thẩm quyền của Cha Tôi, nhưng các ông không chào đón hay tin Tôi. Nếu người nào khác đến bằng thẩm quyền của chính mình thì các ông sẽ nghe người đó.
\v 44 Làm sao các ông tin Tôi được khi mà các ông chịu nhọc công để được người khác giữa vòng mình tôn trọng? Vậy mà chẳng lúc nào các ông chịu tìm kiếm sự tôn trọng đích thực từ Đức Chúa Trời duy nhất, có một không hai.
\s5
\v 45 Đừng nghĩ rằng Tôi là người buộc tội các ông trước Cha Tôi. Các ông tưởng rằng Môi-se sẽ bênh vực mình, nên các ông đặt hy vọng nơi người. Tuy nhiên, chính Môi-se buộc tội các ông.
\v 46 Nếu các ông chấp nhận lời Môi-se nói, thì các ông đã nhận lời tôi làm chân lý.
\v 47 Vì các ông thậm chí chẳng tin lời Môi-se viết ra, thì làm sao các ông tin được lời Tôi nói với các ông!”
\s5
\c 6
\p
\v 1 Chúa Giê-xu đi qua bờ hồ bên kia. Với một số người thì hồ này tên là “Biển Ga-li-lê; ” những người khác thì gọi là “Biển Ti-bê-ri-át. ”
\v 2 Một đám đông đi theo Ngài vì họ đã thấy các việc kỳ diệu Ngài làm khi chữa lành những người bệnh nặng.
\v 3 Chúa Giê-xu đi lên một ngọn đồi dốc rồi ngồi xuống với các môn đồ Ngài.
\s5
\v 4 Thời điểm trong năm vào lúc này là kỳ Lễ Vượt Qua, một dịp kỷ niệm đặc biệt của người Do Thái.
\v 5 Chúa Giê-xu ngẩng lên và thấy có một đoàn dân rất đông tiến đến chỗ Ngài. Chúa Giê-xu nói với Phi-líp: “Chúng ta sẽ mua bánh ở đâu cho tất cả những người này ăn? ”
\v 6 Ngài hỏi Phi-líp như vậy để thử xem ông sẽ trả lời ra sao, chứ Ngài đã biết phải giải quyết việc đó như thế nào rồi.
\s5
\v 7 Phi-líp trả lời Ngài: “Cho dù chúng ta có số tiền tương đương với công giá hai trăm ngày làm việc của một người, thì cũng không đủ để mua bánh phân phát cho từng người trong đoàn dân này, thậm chí mỗi người chỉ một miếng nhỏ. ”
\v 8 Một môn đồ khác là Anh-rê, em trai của Phi-e-rơ thưa với Chúa Giê-xu:
\v 9 “Ở đây, có một cậu bé có năm ổ bánh lúa mạch và hai con cá nhỏ. Nhưng lượng thức ăn ít ỏi đó làm sao đủ nuôi số người đông đúc này?”
\s5
\v 10 Chỗ đoàn dân tụ tập lại có rất nhiều cỏ. Vì vậy, Chúa Giê-xu nói: “Hãy bảo họ ngồi xuống. ” Vậy là tất cả ngồi xuống. Sau khi các môn đồ đếm hết số người thì họ thấy có khoảng năm ngàn.
\v 11 Chúa Giê-xu cầm lấy mấy ổ bánh nhỏ cùng với cá và tạ ơn Đức Chúa Trời. Sau đó, Ngài chuyền bánh và cá cho tất cả những người đang ngồi dưới đất. Người ta ăn cá và bánh thỏa thích.
\v 12 Sau khi mọi người ăn xong, Ngài phán cùng các môn đồ: “Hãy thu lượm lại tất cả những mẩu bánh mạch nha mà người ta không ăn. Đừng phí phạm chút nào cả.”
\s5
\v 13 Vậy, họ thu gom lại những mẩu bánh thừa từ năm ổ bánh mạch nha, và số bánh thừa đó đựng được mười hai giỏ đầy.
\v 14 Sau khi tận mắt mục kích phép lạ mà Chúa Giê-xu thực hiện, họ bảo: “Người này chắc chắn là tiên tri được Đức Chúa Trời sai phái vào thế giới. ”
\v 15 Chúa Giê-xu biết điều họ định làm; họ muốn ép Ngài làm vua. Vì vậy, Ngài bỏ họ đi lên núi để ở một mình trên đó.
\s5
\v 16 Đến tối, các môn đồ Ngài xuống Biển Ga-li-lê,
\v 17 vào một chiếc thuyền, rồi bắt tay chèo sang thành Ca-bê-na-um ở bờ bên kia. Lúc ấy trời đã tối, và Chúa Giê-xu không ở trên thuyền với họ.
\v 18 Một trận gió lớn nổi lên, biển động dữ dội.
\s5
\v 19 Sau khi chèo được khoảng năm hay sáu ki-lô-mét gì đó thì các môn đồ thấy Chúa Giê-xu đi trên mặt nước đến gần thuyền. Họ kinh sợ.
\v 20 Chúa Giê-xu nói với họ: “Thầy đây! Đừng sợ! ”
\v 21 Họ vui mừng rước Ngài vào thuyền. Vừa khi Ngài vào với họ thì thuyền cập vào nơi họ định đi.
\s5
\v 22 Bữa sau, đoàn dân đã ở lại bên kia bên kia bờ hồ nhận ra rằng ngày hôm trước chỉ có một chiếc thuyền ở đó. Họ cũng biết là Chúa Giê-xu không ở trên thuyền cùng với các môn đồ của Ngài.
\v 23 Một số người từ thành Ti-bê-ri-át vượt qua biển hồ bằng các thuyền mà họ có được. Họ đậu thuyền mình gần nơi dân chúng đã được ăn bánh sau khi Chúa Giê-xu dâng lời tạ ơn Đức Chúa Trời.
\s5
\v 24 Khi đám đông nhận ra rằng không có Chúa Giê-xu cũng như các môn đồ Ngài ở đó, một số người liền vào những chiếc thuyền kia và chèo đến thành Ca-bê-na-um để tìm Chúa Giê-xu.
\v 25 Họ tìm và thấy Chúa Giê-xu trong thành Ca-bê-na-um bên kia Biển Ga-li-lê. Họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy đã đến đây khi nào?”
\s5
\v 26 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Tôi nói thật với các người: các người đâu có tìm tôi vì được mục kích mấy phép lạ tôi làm để chứng tỏ mình là ai. Không! Các người tìm Tôi chỉ vì đã ăn mấy ổ bánh và được no bụng.
\v 27 Đừng làm việc vì thứ thức ăn chóng hư thối! Thay vào đó, hãy làm việc vì lương thực đem lại cho mình sự sống đời đời! Đó là bánh mà Tôi, Con Người, Đấng Đức Chúa Trời lựa chọn, sẽ ban cho các người. Vì Đức Chúa Cha tán thành Tôi trong mọi việc.”
\s5
\v 28 Vậy, họ hỏi Ngài: “Chúng tôi phải làm những công việc gì và phục vụ thế nào để làm đẹp lòng Đức Chúa Trời? ”
\v 29 Chúa Giê-xu đáp: “Việc Đức Chúa Trời muốn các người làm là tin Tôi, Đấng mà Ngài đã sai đến.”
\s5
\v 30 Thế là họ nói với Ngài: “Vậy, Thầy hãy thực hiện một phép lạ khác để chứng minh mình là Đấng đó, hầu chúng tôi thấy và tin rằng Thầy từ Đức Chúa Trời đến. Thầy sẽ làm gì cho chúng tôi nào?
\v 31 Cha ông chúng tôi đã ăn ma-na, y như Kinh Thánh chép: Đức Chúa Trời ban cho họ bánh ăn từ trời. ’”
\s5
\v 32 Chúa Giê-xu nói với họ: “Tôi nói thật với các người: Không phải Môi-se đã cho tổ phụ các người bánh từ trời đâu. Chính là Cha Tôi mới là Đấng ban bánh thật từ trời cho các người.
\v 33 Bánh thật của Đức Chúa Trời là Tôi đây, Đấng từ trời xuống để khiến mọi người trên thế giới thật sự được sống. ”
\v 34 Họ nói với Ngài: “Xin Thầy cứ luôn cho chúng tôi bánh ấy.”
\s5
\v 35 Chúa Giê-xu nói với họ: “Tôi là bánh khiến người ta sống. Người nào đến với Tôi sẽ không bao giờ đói. Ai tin Tôi sẽ không bao giờ khát.
\v 36 Tuy nhiên, Tôi đã nói cho các người rồi, mặc dù các ngươi thấy Tôi nhưng các người vẫn không tin Tôi.
\v 37 Mọi người mà Cha cho Tôi sẽ đến cùng Tôi, và Tôi sẽ không xua đuổi bất cứ ai đến với mình.
\s5
\v 38 Tôi từ trời xuống không phải để làm điều mình muốn, nhưng để làm theo ý muốn của Đấng đã sai Tôi.
\v 39 Điều mà Đấng sai Tôi muốn là Tôi không được để mất một ai trong số những người Ngài đã ban cho Tôi, và Tôi sẽ làm họ sống lại vào ngày cuối cùng.
\v 40 Vì đây là điều mà Cha Tôi muốn, đó là mọi người nào lấy đức nhìn xem Tôi, là Con, đều được sự sống đời đời. Tôi sẽ khiến họ sống lại vào ngày cuối cùng.”
\s5
\v 41 Các lãnh đạo người Do thái bắt đầu lằm bằm về Chúa Giê-xu bởi vì Ngài đã nói: “Tôi là bánh từ trời xuống. ”
\v 42 Họ hỏi nhau: “Đây chẳng phải là Giê-xu, con của Giô-sép sao? Cha mẹ ông ta đó chúng ta không biết à? Làm sao ông ta dám nói: Tôi từ trời đến?”
\s5
\v 43 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Đừng lằm bằm với nhau nữa.
\v 44 Không ai có thể đến cùng Tôi, trừ khi Cha, là Đấng đã sai phái Tôi, kéo người ấy đến với Tôi. Người nào đến với Tôi, Tôi sẽ khiến họ sống lại trong ngày cuối cùng.
\v 45 Trong các sách tiên tri có chép: Đức Chúa Trời sẽ chỉ dạy mọi người. Ai nghe Cha và học theo đều đến với Tôi.
\s5
\v 46 Không ai thấy được Cha ngoại trừ Tôi, là Đấng từ Đức Chúa Trời đến. Chỉ một mình Tôi đã thấy Cha.
\v 47 Tôi nói thật với các người: bất cứ ai tin Tôi đều có sự sống đời đời.
\s5
\v 48 Tôi là bánh ban sự sống đích thực.
\v 49 Cha ông các người ăn ma-na trong hoang mạc, nhưng họ vẫn chết.
\s5
\v 50 Tuy nhiên, bánh mà Tôi đang nói đến là bánh đến từ trời, và người ăn bánh đó sẽ không bao giờ chết.
\v 51 Tôi là bánh khiến người ta thật sự sống, tức bánh đến từ trời. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời. Bánh tôi cho để nhân gian được sống chính là sự chết của thân thể Tôi.”
\s5
\v 52 Những người Do Thái đã nghe Chúa Giê-xu nói, giờ đây tranh cãi nhau cách giận dữ. Họ không thể hiểu nỗi làm sao có người lại hứa ban tặng thân thể mình cho người khác ăn.
\v 53 Vậy là Chúa Giê-xu khiến họ phải đối diện với những lời rất khó nghe: “Tôi nói thật với các người: Nếu các người không ăn thịt Tôi, tức Con Người, và uống huyết Tôi, thì các người sẽ có không có sự sống đời đời.
\s5
\v 54 Những ai ăn thịt Tôi và uống huyết Tôi sẽ sống đời đời, và Tôi sẽ khiến họ sống lại vào ngày cuối cùng,
\v 55 bởi vì thịt Tôi thật là đồ ăn và huyết Tôi thật là đồ uống.
\v 56 Bất cứ ai ăn thịt Tôi và uống huyết Tôi sẽ được liên kết với Tôi, và Tôi với họ.
\s5
\v 57 Cha Tôi, Đấng khiến cho mọi người sống, đã sai Tôi, và Tôi sống được là nhờ Cha cho Tôi được như vậy. Tương tự, ai ăn Tôi sẽ sống đời đời nhờ những gì Tôi sẽ làm cho họ.
\v 58 Tôi là bánh thật, từ trời đến. Ai ăn Tôi tức là ăn bánh này sẽ không bao giờ chết, nhưng sẽ sống đời đời! Việc Tôi làm không giống như những gì đã xảy ra với cha ông các người, vì họ ăn ma-na, rồi cũng chết. ”
\v 59 Chúa Giê-xu nói những lời này khi Ngài giảng dạy trong nhà hội tại thành Ca-bê-na-um.
\s5
\v 60 Nhiều môn đồ của Ngài nói: “Những điều Thầy dạy thật khó hiểu. Làm sao người ta chấp nhận được lời Thầy nói? ”
\v 61 Chúa Giê-xu biết một số môn đồ đang phàn nàn, vì vậy Ngài nói với họ: “Điều Thầy dạy làm anh em khó chịu phải không?
\s5
\v 62 Anh em sẽ nói gì nếu thấy Thầy, tức Con Người, trở về trời?
\v 63 Chỉ có Thánh Linh ban sự sống khiến người ta sống đời đời. Bản chất con người không giúp gì được trong vấn đề này. Những lời Thầy dạy cho anh em biết về thần linh, và cho anh em biết về sự sống đời đời.
\s5
\v 64 Nhưng có một số anh em lại không tin những gì Thầy đang dạy. ” Chúa Giê-xu nói như vậy vì ngay từ lúc khởi đầu chức vụ, Ngài đã biết ai sẽ không tin Ngài, và Ngài cũng biết ai sẽ phản bội Ngài.
\v 65 Rồi Ngài nói: “Đó là lý do vì sao Thầy từng nói với anh em rằng chẳng ai có thể đến với Thầy và được sống đời đời, nếu Cha không khiến người đó được như vậy.”
\s5
\v 66 Từ lúc đó, nhiều môn đồ của Chúa Giê-xu thối lui không theo Ngài nữa.
\v 67 Vì vậy, Ngài hỏi mười hai môn đệ: “Anh em không muốn bỏ Thầy luôn đấy chứ? ”
\v 68 Si-môn Phi-e-rơ đáp: “Lạy Chúa, chúng tôi sẽ theo ai? Chỉ một mình Ngài có sứ điệp khiến chúng tôi được sự sống đời đời!
\v 69 Chúng tôi tin Ngài, và chúng tôi biết chắc rằng Ngài là Đấng Thánh mà Đức Chúa Trời sai đến!”
\s5
\v 70 Chúa Giê-xu đáp lại: “Chẳng phải Thầy đã chọn anh em là mười hai môn đệ đó sao? Nhưng một người trong anh em là ma quỉ! ”
\v 71 Ngài nói về Giu-đa, con của Si-môn Ích ca-ri-ốt. Dù Giu-đa là một trong mười hai môn đệ, nhưng ông ta cũng là kẻ về sau phản bội Chúa Giê-xu.
\s5
\c 7
\p
\v 1 Sau việc này, Chúa Giê-xu đi đến một địa phận khác trong vùng Ga-li-lê. Ngài tránh đi đến Giu-đê bởi vì giới quan quyền người Do Thái đang tìm cách cáo buộc Ngài là tội phạm để có cớ giết Ngài đi.
\v 2 Lúc đó là thời điểm Lễ Lều Tạm của người Do Thái. Đây là dịp kỷ niệm thời kỳ người Do Thái sống trong lều sau khi họ ra khỏi Ai Câp ngày trước.
\s5
\v 3 Vì kỳ lẽ sẽ diễn ra tại Giu-đê nên các em trai của Chúa Giê-xu nói với Ngài: “Hãy bỏ nơi này mà đến vùng Giu-đê, để các môn đồ khác của anh cũng thấy được những việc quyền năng mà anh có thể làm.
\v 4 Chẳng ai muốn kẻ khác biết mình là người như thế nào mà lại đi che giấu việc mình có thể làm. Hãy chứng tỏ mình cho thiên hạ đều biết!”
\s5
\v 5 Vì thậm chí những em trai của Ngài cũng không tin Ngài và không nghĩ rằng Ngài nói thật.
\v 6 Vậy, Chúa Giê-xu nói với họ: “Đây chưa phải là lúc Tôi chấm dứt công việc mình. Các chú có thể chọn hoàn tất bất cứ việc gì mình muốn lúc nào cũng được.
\v 7 Những ngươi sống cho bản thân mình và yêu mến những điều thuộc thế giới này không ghét các chú được, nhưng họ rất ghét tôi.
\s5
\v 8 Các chú cứ đi dự lễ. Còn tôi sẽ không đi lên đó lúc này, vì chưa phải lúc.
\v 9 Sau khi nói vậy, Chúa Giê-xu tiếp tục ở lại Ga-li-lê.
\s5
\v 10 Tuy nhiên, vài ngày sau khi các em mình đã đi dự lễ thì Ngài cũng đi, nhưng Ngài đi cách kín đáo.
\v 11 Những người Do Thái chống đối Chúa Giê-xu tìm Ngài, với hy vọng bắt gặp Ngài trong lễ hội. Họ hỏi dân chúng: “Giê-xu đâu rồi? Ông ta có ở đây không?”
\s5
\v 12 Nhiều người đã xì xầm với nhau về Ngài giữa đám đông. Một số nói: “Ông ấy là người tốt! ”. Kẻ khác nói: “Không! Ông ta lừa bịp và làm cho dân chúng mê muội! ”
\v 13 Vì sợ những người Do Thái chống đối Chúa Giê-xu, nên không ai nói về Ngài tại chốn đông người, nơi lời mình nói có thể bị nghe lóm.
\s5
\v 14 Đến giữa kỳ lễ, Chúa Giê-xu đi vào sân đền thờ và bắt đầu dạy dỗ ở đó.
\v 15 Người Do Thái rất ngạc nhiên khi nghe lời Ngài giảng dạy. Họ bảo nhau: “Người này chưa bao giờ họ giáo lý với một vị thầy được chuẩn nhận, cũng chưa từng đăng ký học tại các trường, lớp của chúng ta! Làm sao ông ta biết nhiều như vậy? ”
\v 16 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Những điều Tôi dạy không đến từ Tôi, mà đến từ Đấng sai phái Tôi.
\s5
\v 17 Nếu ai chọn làm theo điều Đức Chúa Trời muốn, thì người đó sẽ biết được điều Tôi dạy đến từ Đức Chúa Trời hay chỉ là lời Tôi tự mình nói ra.
\v 18 Người nào tự nói bằng thẩm quyền riêng của mình chỉ nói để người khác tôn trọng mình. Nhưng, nếu đầy tớ làm việc chăm chỉ để làm rạng danh người đã sai mình, để mình được tiếng là người chính trực, thì cũng không có gì sai.
\s5
\v 19 Chẳng phải Môi-se đã ban luật pháp cho các ông sao? Vậy mà không ai trong các ông làm điều luật pháp đòi hỏi. Ngay lúc này đây, các ông là những kẻ âm mưu giết tôi. ”
\v 20 Một người trong đám đông trả lời: “Ông bị quỉ ám rồi! Hãy nêu ra tên người muốn giết ông đi!”
\s5
\v 21 Chúa Giê-xu trả lời đám đông: “Bởi vì Tôi đã làm một việc quyền năng cho các người thấy, nên tất cả các người đều kinh ngạc.
\v 22 Môi-se ban cho các người luật pháp, và luật pháp đó dạy các người cắt bì cho con trai mình, mà phải làm đúng vào ngày thứ bảy sau khi đứa trẻ được sinh ra. (Chính xác thì nghi thức này được truyền từ tổ phụ của các người là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, chứ không phải Môi-se; ông chỉ là người ghi thành luật tục lệ này.) Vì luật pháp quy định như vậy, nên đôi khi các ông phải cắt bì cho con mình vào ngày Sa-bát, và đó cũng là làm việc vậy!
\s5
\v 23 Thỉnh thoảng các người cắt bì cho các bé trai vào ngày Sa-bát để không vi phạm luật Môi-se. Vậy, sao các người nổi giận với Tôi khi Tôi chữa bệnh trong ngày Sa-bát, và lên án Tôi đã làm việc trong ngày Sa-bát! Chữa lành người ta kỳ diệu hơn, cũng là việc làm cao cả hơn cắt bì cho một đứa trẻ!
\v 24 Hãy thôi phân định việc chữa lành người này là đúng hay sai, dựa vào lối áp dụng luật pháp của Đức Chúa Trời một cách sai trái, đồng thời cũng thiếu suy xét, của các ông đi! Thay vì vậy, hãy xác định người ta phải làm gì và phải đánh giá họ thế nào theo nguyên tắc đúng-sai và luật công bình của Đức Chúa Trời chứ không phải của con người.”
\s5
\v 25 Có mấy người là dân thành Giê-ru-sa-lem nói: “Chẳng phải đây là người họ đang tìm cách giết chết sao?
\v 26 Ông đang phát biểu công khai mà giới thẩm quyền chẳng nói gì để phản bác cả? Phải chăng vì họ biết ông ta là Chúa Cứu Thế?
\v 27 Nhưng người này không thể là Chúa Cứu Thế được! Chúng ta đều biết lai lịch của ông ta, còn khi Chúa Cứu Thế đến thì sẽ chẳng ai biết Ngài xuất thân từ đâu.”
\s5
\v 28 Vì thế, trong khi Chúa Giê-xu dạy dỗ tại sân đền thờ, Ngài đã lớn tiếng giảng dạy rằng: “Phải, các người nói các người biết Tôi, và các người nghĩ mình biết Tôi xuất thân từ đâu. Nhưng Tôi không tự ý đến đây. Thay vào đó, Đấng sai Tôi đến làm chứng sự thật về Tôi, và các người không biết Ngài.
\v 29 Còn Tôi thì biết Ngài bởi vì Tôi từ Ngài mà đến. Ngài là Đấng đã sai phái Tôi.”
\s5
\v 30 Rồi họ tìm cách bắt Ngài, nhưng chẳng ai bắt Ngài được vì chưa đến lúc Ngài hoàn tất công việc mình và chấm dứt cuộc sống trên đất.
\v 31 Sau khi nghe và thấy những việc Ngài làm, nhiều người trong đám đông tin Ngài. Họ bảo: “Khi Chúa Cứu Thế đến thì liệu Ngài có thể làm nhiều việc lạ thường hơn người này đã làm không? ”
\v 32 Những người Pha-ri-si nghe họ xầm xì những điều này về Chúa Giê-xu. Vậy là các thầy trưởng tế cùng những người Pha-ri-si sai mấy cảnh binh đi bắt Ngài.
\s5
\v 33 Chúa Giê-xu phán rằng: “Tôi sẽ chỉ ở với các người trong thời gian ngắn. Rồi Tôi sẽ trở về với Đấng đã sai Tôi đến.
\v 34 Các người sẽ tìm kiếm Tôi, nhưng sẽ không gặp. Nơi Tôi đi đến, các ngươi không thể đến được.”
\s5
\v 35 Vậy là những người Do Thái thù ghét Ngài hỏi nhau: “Gã này có thể đi đâu mà chúng ta không tìm ra? Phải chăng gã định đến với những người Do Thái sống rải rác khắp thế giới Hy Lạp, và dạy họ mấy thứ mới mẻ này?
\v 36 Gã có ý gì khi nói rằng: Các người tìm Tôi nhưng không thể gặp được, Nơi Tôi đến các người không thể đến? ’”
\s5
\v 37 Vậy, vào ngày cuối cùng của kỳ lễ, một ngày trọng đại, Chúa Giê-xu đứng dậy dõng dạc nói: “Nếu ai khát, hãy đến cùng Tôi mà uống.
\v 38 Người nào tin Tôi thì, giống như Kinh Thánh đã nói, Sông nước sống sẽ tuôn chảy từ trong lòng người đó. ’”
\s5
\v 39 Ngài nói về điều này chỉ về Đức Thánh Linh, là Đấng mà Đức Chúa Cha sẽ ban cho những ai tin Ngài. Đức Chúa Trời chưa sai Đức Thánh Linh đến sống trong lòng của những người tin Ngài vì Chúa Giê-xu chưa hoàn tất công việc của Ngài, tức công việc sẽ đem về vinh quang cho Đức Chúa Trời bằng cách cứu dân Ngài bởi sự chết của Ngài.
\s5
\v 40 Khi một số người trong đám đông nghe những lời đó, họ nói: “Đây thật là Tiên tri mà chúng đang trông đợi. ”
\v 41 Số khác nói: “Không thể có chuyện Chúa Cứu Thế xuất thân từ Ga-li-lê.
\v 42 Chẳng phải Kinh Thánh nói Chúa Cứu Thế phải ra từ dòng dõi Đa-vít và phải được sanh tại làng Bết-lê-hem, là quê nhà của Đa-vít sao?”
\s5
\v 43 Vậy là họ bất đồng ý kiến về Chúa Giê-xu
\v 44 Có một số người muốn bắt Ngài, nhưng chẳng ai đụng đến Ngài.
\s5
\v 45 Vậy là các cảnh binh trở về chỗ các thầy trưởng tế và người Pha-ri-si. Đây là những cảnh binh mà giới cầm quyền đã sai đi bắt Chúa Giê-xu. Người Pha-ri-si hỏi họ: “Sao các anh không bắt ông ta giải về đây? ”
\v 46 Các cảnh binh đáp: “Chưa có ai từng ăn nói như ông này.”
\s5
\v 47 Những người Pha-ri-si đáp: “Mấy anh cũng bị lừa luôn rồi sao?
\v 48 Không một quan chức Do thái hay người Pha-ri-si nào tin Giê-xu này.
\v 49 Còn đám đông chẳng biết gì về lời dạy của luật pháp kia thì thật đáng nguyền rủa!”
\s5
\v 50 Vậy là Ni-cô-đem lên tiếng. (Ông này là người đã đến gặp Chúa Giê-xu vào ban đêm để nói chuyện với Ngài, và ông cùng là người phái Pha-ri-si.) Ông nói với họ:
\v 51 “Luật pháp của người Do Thái chúng ta không cho phép kết án một người trước khi nghe người đó nói. Chúng ta hãy xét hỏi anh ta, và tìm hiểu xem anh ta đã làm gì đã. ”
\v 52 Họ đáp lại ông: “Phải chăng ông cũng là người Ga-li-lê? Hãy tra xét kỹ và đọc những gì được ghi trong Kinh Thánh! Ông sẽ thấy không có một tiên tri nào xuất thân từ Ga-li-lê cả.”
\s5
\v 53 Rồi mọi người bỏ đi, ai về nhà nấy
\s5
\c 8
\p
\v 1 Chúa Giê-xu đi cùng các môn đồ của Ngài đến Núi Ô-li-ve, và họ đã ở qua đêm tại một nơi gần đó.
\v 2 Sáng sớm hôm sau, Chúa Giê-xu trở lại sân đền thờ. Nhiều người nhóm lại xung quanh Ngài, và Ngài ngồi xuống để dạy họ.
\v 3 Lúc đó các thầy dạy luật Do Thái và một số người thuộc phái Pha-ri-si đem một phụ nữ đến chỗ Ngài. Chị bị bắt trong lúc ngoại tình chị đã ngủ mới người đàn ông không phải là chồng mình. Họ để chị đứng trước đám đông để chất vấn.
\s5
\v 4 Họ nói với Chúa Giê-xu: “Thưa thầy, người phụ nữ này bị bắt khi đang ngoại tình với một người không phải là chồng của mình.
\v 5 Trong luật pháp, Môi-se truyền chúng ta phải ném đá cho đến chết hạng đàn bà như vậy. Nhưng theo Thấy thì chúng nên làm gì? ”
\v 6 Họ hỏi câu này cốt để bẫy Ngài, hầu có cớ buộc tội Ngài phát biểu sai trái. Nếu Ngài nói không nên xử tử chị thì họ sẽ bảo Ngài không tuân thủ luật pháp Môi-se. Còn nếu Ngài nói phải tử hình, thì Ngài sẽ phạm luật của người La-mã, vốn quy định quyền xử tử hình chỉ dành cho quan tổng đốc. Tuy nhiên, Chúa Giê-xu cúi xuống và dùng ngón tay Ngài viết lên mặt đất.
\s5
\v 7 Khi họ cứ chất vấn Ngài, thì Ngài đứng lên và nói với họ: “Người nào trong các ông chưa từng phạm tội thì người đó hãy đi đầu trong việc thi hành hình phạt. Người đó hãy ném viên đá đầu tiên! ”
\v 8 Rồi Chúa Giê-xu lại cuối xuống và viết tiếp lên mặt đất.
\s5
\v 9 Nghe Ngài nói vậy, những kẻ đã hỏi Ngài bắt đầu lần lượt bỏ đi, người lớn tuổi đi trước, rồi đến những người trẻ hơn. Họ biết mình đều là người có tội cả. Cuối cùng chỉ còn Chúa Giê-xu ở đó với người phụ nữ.
\v 10 Chúa Giê-xu đứng dậy, hỏi chị: “Này, chị kia, những người buộc tội chị đâu rồi? Không ai xử tội chị nữa à?
\v 11 Người phụ nữ nói: “Thưa ông, chẳng có ai cả. ” Chúa Giê-xu đáp: “Tôi cũng không buộc tội chị. Hãy về đi, và từ rày về sau đừng phạm tội như vậy nữa!”
\s5
\v 12 Chúa Giê-xu lại nói với dân chúng: “Tôi là ánh sáng của thế giới. Ai theo Tôi sẽ có ánh sáng ban sự sống, và sẽ chẳng bao giờ bước đi trong bóng tối trở lại. ”
\v 13 Vậy là mấy người Pha-ri-si nói với Ngài: “Nghe như thể ông đang tìm cách thuyết phục chúng tôi tin ông bằng cách càng ngày ông càng nói nhiều về mình! Những lời ông tự nói về mình chẳng chứng minh được gì cả!”
\s5
\v 14 Chúa Giê-xu đáp: “Cho dù Tôi tự nói những điều này về bản thân mình, thì những gì Tôi nói là sự thật bởi vì Tôi biết Tôi đến từ đâu và Tôi sẽ đi đâu.
\v 15 Các ông đoán xét người ta theo chuẩn mực và luật pháp của con người. Còn Tôi thì không đến vào lúc này để đoán xét ai cả.
\v 16 Nhưng khi Tôi đã đoán xét, thì sự đoán xét đó sẽ chính đáng và công bình, vì tôi không phải là người duy nhất đem lại công lý. Tôi và Cha là Đấng đã sai Tôi sẽ cùng thực thi công lý.
\s5
\v 17 Trong luật pháp của các ông có chép rằng một vụ việc chỉ có thể được giải quyết khi có ít nhất hai nhân chứng cung cấp chứng cớ.
\v 18 Ta tự làm chứng về mình cho các ngươi, và Cha là Đấng đã sai Tôi cũng làm chứng về Tôi. Vậy nên các ông nên tin những điều chúng tôi nói là sự thật.”
\s5
\v 19 Vậy là họ hỏi Ngài: “Cha của ông ở đâu? ” Chúa Giê-xu đáp: “Các ông không biết Tôi và cũng không biết Cha Tôi. Nếu các ngươi biết Tôi, thì các ông cũng sẽ biết Cha Tôi. ”
\v 20 Ngài nói những lời này khi Ngài ở gần rương đựng tiền trong sân đền thờ, tức khu vực người ta đem lễ vật đến dâng hiến. Nhưng không ai bắt Ngài vì thời điểm Ngài chịu chết chưa đến.
\s5
\v 21 Chúa Giê-xu cũng nói với họ: “Ta đi, và các ông sẽ kiếm Tôi, nhưng chắc chắn các ông sẽ chết trong tội lỗi mình. Nơi Tôi đi các ông không thể đến. ”
\v 22 Những người Do Thái chống đối Ngài nói với nhau: “Y sẽ tự vẫn chăng? Phải chăng đó là ý của y khi nói: Nơi Tôi đi các ngươi không thể đến?
\s5
\v 23 Chúa Giê-xu tiếp tục nói với họ: “Các ông là từ dưới đất, còn tôi thì từ trên kia. Các ông thuộc về thế giới này; tôi thì không thuộc thế giới này.
\v 24 Tôi nói cho các ông biết là các ông sẽ chết, và Đức Chúa Trời sẽ kết án các ông về những tội mình đã phạm. Chắc chắn sẽ như vậy trừ khi các ông tin rằng Tôi là Đức Chúa Trời như Tôi đã nói.”
\s5
\v 25 Họ hỏi Ngài: “Thầy là ai? ” Chúa Giê-xu đáp: “Ngay từ ban đầu, Tôi đã nói cho các ông rồi!
\v 26 Tôi có thể đoán xét và và cho biết các ông phạm nhiều tội. Nhưng, Tôi sẽ chỉ nói một điều: Đấng đã sai Tôi luôn nói thật, và tôi chỉ nói lại cho mọi người trong thế giới này những gì Tôi đã nghe nơi Ngài. ”
\v 27 Họ không hiểu rằng Ngài đang nói về Cha.
\s5
\v 28 Vì vậy, Chúa Giê-xu nói: “Khi các ông đã treo Tôi lên cây thập tự để giết chết tôi tức Con Người thì các ông sẽ biết rằng Tôi chính là Đức Chúa Trời, và các ông sẽ biết rằng Tôi không làm bất cứ điều gì dựa trên thẩm quyền của cá nhân mình. Thay vào đó, Tôi chỉ nói điều Cha đã dạy Tôi nói.
\v 29 Đấng đã sai phái Tôi ở cùng Tôi, và Ngài không bỏ tôi một mình vì Tôi chỉ làm những điều đẹp lòng Ngài. ”
\v 30 Khi Chúa Giê-xu nói những lời này thì có thêm nhiều người tin Ngài.
\s5
\v 31 Rồi Chúa Giê-xu nói với những người Do Thái mà giờ đây nói rằng họ tin Ngài: “Nếu các ông nghe mọi lời Tôi dạy và sinh hoạt theo đó trong mọi việc mình làm thì các ông thật là môn đồ của Tôi.
\v 32 Các ông sẽ biết chân lý, và chân lý sẽ giải phóng các ông khỏi mọi thứ đã bắt các ông làm nô lệ. ”
\v 33 Họ trả lời Ngài rằng: “Chúng tôi là con cháu của Áp-ra-ham, và chúng tôi chưa hề làm nô lệ của ai. Sao thầy nói chúng tôi cần được giải phóng?
\s5
\v 34 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi nói thật với các ông: tất cả những ai phạm tội đều để tội lỗi sai khiến mình, y như kẻ nô lệ bị buộc phải vâng lời chủ.
\v 35 Nô lệ sẽ không mãi là người trong gia đình, mà sẽ được tự do để trở về nhà hoặc để bị bán đi. Tuy nhiên, một người con mãi mãi là thành viên trong gia đình.
\v 36 Vậy nên, nếu Con giải phóng các ông, thì các ông sẽ hoàn toàn được tự do.
\s5
\v 37 Tôi biết các ông thuộc gia đình Áp-ra-ham; các ông là dòng dõi của người. Nhưng, người của các ông đang tìm cách giết chết Tôi. Các ngươi sẽ không tin bất cứ điều gì Tôi nói.
\v 38 Tôi nói cho các ông hết về những điều kỳ diệu và khôn ngoan mà Cha đã bày tỏ cho Tôi, nhưng các ông chỉ làm điều mà cha mình đã dạy.”
\s5
\v 39 Họ đáp lại Ngài: “Áp-ra-ham là tổ phụ của chúng tôi. ” Chúa Giê-xu đáp: “Nếu các ông là con cháu Áp-ra-ham, các ông sẽ làm những việc người làm.
\v 40 Tôi nói cho các ông chân lý Tôi đã nghe nơi Đức Chúa Trời, nhưng các ông tìm cách giết Tôi. Áp-ra-ham đâu có làm những chuyện như thế.
\v 41 Không! Các ông làm những việc mà cha thật của mình đã làm. ” Họ nói với Ngài: “Chúng tôi chẳng biết về ông, nhưng chúng tôi không phải là con hoang. Chúng tôi có một Cha duy nhất, và đó là Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 42 Chúa Giê-xu nói với họ: “Nếu Đức Chúa Trời là Cha của các ông, thì các ông phải yêu Tôi, vì Tôi từ Đức Chúa Trời đến và giờ đây Tôi đã đến thế giới này. Tôi không tự ý đến, mà là vì Ngài đã sai phái tôi.
\v 43 Tôi sẽ cho các ông biết vì sao các ông không hiểu điều Tôi nói. Đó là vì các ông không chấp nhận sứ điệp và lời dạy của Tôi.
\v 44 Các ông thuộc về cha mình là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì nó muốn. Ngay lúc đầu con ngươi phạm tội, nó đã là kẻ giết người. Nó đã bỏ chân lý của Đức Chúa Trời; chân lý Ngài không có trong nó. Bất cứ lúc nào nó nói dối, thì nó nói theo bản chất của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối; ai nói dối tức là làm điều ma quỉ muốn mình làm.
\s5
\v 45 Vì tôi nói thật với các ông, nên các ngươi không tin Tôi!
\v 46 Có ai trong các ngươi vạch tội Tôi được chăng? Vì Tôi nói cho các ông sự thật, sao các ông lại không tin Tôi?
\v 47 Những ai thuộc về Đức Chúa Trời thì nghe và vâng theo những điều Ngài dạy bảo họ. Lý do các ông không nghe và không vâng theo sứ điệp của Ngài bởi vì các ông không thuộc về Ngài.”
\s5
\v 48 Những người Do Thái thù ghét Ngài đáp: “Chắc chắn chúng tôi đúng khi nói rằng ông là người Sa-ma-ri ông thật sự không phải là người Do Thái đích thực! và ma quỉ ở trong ông! ”
\v 49 Chúa Giê-xu đáp: “Ma quỉ không ở trong Tôi! Tôi tôn vinh Cha, còn các ông thì hạ nhục Tôi!
\s5
\v 50 Ta không cố thuyết phục người ta khen ngợi Tôi. Có một Đấng muốn ban cho Tôi điều Tôi đáng được, và Ngài là Đấng sẽ phán xét mọi điều Tôi nói và làm.
\v 51 Tôi nói thật với các ông: “Nếu ai giữ chặt lấy lời Tôi và tin lời ấy như Tôi đã nói, thì người đó sẽ chẳng bao giờ chết!”
\s5
\v 52 Những người Do Thái chống đối Ngài nói với Ngài: “Giờ thì chúng tôi chắc chắn rằng ma quỉ ở trong ông! Áp-ra-ham và các tiên tri đã chết từ lâu lắm rồi! Vậy mà ông lại nói ai trung tín giữ lời ông dạy thì sẽ không chết!
\v 53 Ông chẳng lớn hơn tổ phụ Áp-ra-ham của chúng tôi đâu. Người đã chết, và tất cả các tiên tri cũng thế. Vậy, ông nghĩ mình là ai kia chứ?”
\s5
\v 54 Chúa Giê-xu đáp: “Tìm cách khiến người khác khen ngợi mình, thì chẳng giá trị gì. Chính Cha Tôi khen ngợi tôi, tính cách và phẩm chất thiện lành của Tôi, mà Ngài lại là Đấng các ông xưng nhận rằng: Ngài là Đức Chúa Trời của chúng tôi.
\v 55 Mặc dù các ông không biết Ngài, nhưng Tôi biết Ngài. Nếu Tôi nói Tôi không biết Ngài, thì Tôi cũng là kẻ nói dối như các người. Tôi biết Ngài và Tôi luôn vâng theo những điều Ngài phán.
\v 56 Là một tiên tri, Cha của các ông là Áp-ra-ham đã sung sướng khi người trông đợi và nhìn thấy những gì tôi có thể làm.”
\s5
\v 57 Những người lãnh đạo Do Thái nói với Ngài rằng: “Ông chưa được năm mươi tuổi! Vậy mà ông đã thấy Áp-ra-ham sao? ”
\v 58 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi nói thật với các ông: trước khi có Áp-ra-ham đã có Tôi rồi. ”
\v 59 Vậy là họ nhặt đá định ném cho Ngài chết. Nhưng, Chúa Giê-xu ẩn mình đi, rời khỏi đền thờ và đi đến nơi khác.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Khi Chúa Giê-xu đi đường, Ngài thấy một người mù từ lúc mới sinh ra.
\v 2 Các môn đồ hỏi Ngài: “Thưa thầy, lỗi của ai đã khiến cho người này mù từ lúc mới sinh? Người này bị mù do tội lỗi của chính mình, hay vì tội của cha mẹ anh ta?”
\s5
\v 3 Chúa Giê-xu đáp: “Không phải tội của anh ta, cũng không phải tội của cha mẹ anh. Anh ta bị mù như vậy để hôm nay người khác có thể nhìn thấy công việc quyền năng mà Đức Chúa Trời sẽ thực hiện trên anh ta.
\v 4 Khi còn ban ngày, chúng ta phải làm công việc của Đấng đã sai phái Thầy. Đêm đang dần đến và khi nó đến, thì không ai có thể làm việc được.
\v 5 Khi Thầy còn ở trần thế, Thầy là sự sáng của thế giới.”
\s5
\v 6 Khi Chúa Giê-xu nói như vậy xong, Ngài nhổ xuống đất. Ngài dùng nước bọt hòa thành bùn, và bôi chất bùn đó lên mắt của người mù như thuốc chữa.
\v 7 Rồi Chúa Giê-xu nói với anh: “Hãy đi rửa ở ao Si-lô-ê! ” (Tên của ao có nghĩa là được sai đi). Vậy, người ấy đi và rửa ở dưới ao. Khi anh trở lại, thì mắt anh thấy được.
\s5
\v 8 Những láng giềng của anh mù và những người đã nhìn thấy anh ăn xin trước đây nói: “Chẳng phải đó là người thường ngồi ăn xin ở đây sao? ”
\v 9 Một số bảo: “Chính là anh ta. ” Số khác nói: “Không phải đâu, người này chỉ trông giống anh ta đó thôi. ” Còn chính anh thì xác nhận: “Phải, đúng là tôi đây!”
\s5
\v 10 Vậy, họ hỏi anh: “Làm sao anh nhìn thấy được vậy? ”
\v 11 Anh đáp: “Người tên Giê-xu đã hòa bùn và sử dụng nó làm thuốc bôi lên mắt tôi. Rồi người ấy bảo tôi đi đến ao Si-lô-ê để rửa. Vậy, tôi đi đến đó rửa, và thế là lần đầu tiên trong đời tôi đã nhìn thấy được. ”
\v 12 Họ hỏi anh: “Người đó đâu rồi? ” Anh đáp: “Tôi không biết.”
\s5
\v 13 Một số người ở đó đưa anh này đến một buổi họp của những người Pha-ri-si.
\v 14 Hôm Chúa Giê-xu thực hiện phép lạ này là ngày Sa-bát.
\v 15 Vậy, những người Pha-ri-si lại hỏi người kia nhờ đâu giờ này anh được sáng mắt. Anh nói với họ: “Người đó xức bùn lên mắt tôi, và tôi đi rửa, vậy là tôi thấy được.”
\s5
\v 16 Có mấy người thuộc nhóm Pha-ri-si nói: “Chúng ta biết gã có tên Giê-xu này không phải từ Đức Chúa Trời đến bởi vì y không giữ ngày Sa-bát. ” Một số khác trong nhóm hỏi lại: “Nếu ông ta là người tội thì sao có thể làm những việc quyền năng như mọi người nhìn thấy? ” Vậy là có sự bất đồng ý kiến giữa vòng người Pha-ri-si.
\v 17 Họ lại hỏi anh mù một lần nữa: “Anh nói gì về ông ta, gã đã phục hồi lại thị lực cho anh đó? ” Người mù đáp: “Ông ấy là một nhà tiên tri. ”
\v 18 Bấy giờ, những người Do Thái chống đối Chúa Giê-xu không tin rằng anh này đã mù mà nay lại có thể nhìn thấy. Vậy, họ sai đem cha mẹ của anh ta đến để chất vấn.
\s5
\v 19 Họ hỏi cha mẹ anh: “Có phải đây là con trai của ông bà không? Ông bà có xác nhận anh ta bị mù từ lúc mới sinh không? Làm sao anh ta có thể nhìn thấy được? ”
\v 20 Cha mẹ anh mù đáp: “Chúng tôi biết đây là con trai mình. Chúng tôi biết cháu bị mù từ lúc mới sinh ra.
\v 21 Nhưng chúng tôi không biết làm cách nào giờ đây cháu có thể nhìn thấy được. Chúng tôi cũng không biết ai đã chữa lành mắt cho cháu. Hãy hỏi cháu, cháu đủ lớn để có thể tự trả lời.”
\s5
\v 22 Những người Do Thái chống đối Chúa Giê-xu trước đó đã thỏa thuận với nhau sẽ điểm mặt và cấm vào nhà hội bất kỳ ai xưng nhận Giê-xu là Chúa Cứu Thế.
\v 23 Đó là lý do cha mẹ anh mù đáp: “Hãy hỏi cháu, cháu đủ lớn để tự trả lời.”
\s5
\v 24 Vậy, họ gọi người trước đây bị mù đến gặp họ lần thứ hai. Khi anh đến, họ bảo anh: “Hãy thề trước Chúa rằng anh chỉ nói ra sự thât! Chúng tôi biết người đã chữa lành cho anh kia là kẻ có tội, và y không tuân giữ luật pháp của Môi-se. ”
\v 25 Anh đáp: “Tôi không biết ông ta là người có tội hay không. Điều tôi biết là tôi đã từng bị mù, mà giờ đây lại nhìn thấy được.”
\s5
\v 26 Vậy, họ hỏi anh: “Người đó đã làm gì cho anh? Y đã chữa cho anh bằng cách nào mà giờ anh được sáng mắt? ”
\v 27 Anh trả lời họ: “Tôi đã nói cho các ông rồi mà các ông có tin tôi đâu. Sao các ông lại muốn tôi nhắc lại? Bộ các ông cũng muốn làm môn đồ của người ấy luôn sao? ”
\v 28 Vậy là họ nổi giận lăng mạ anh: “Mày mới là môn đồ của y, còn chúng ta đây là môn đồ của Môi-se!
\v 29 Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời đã phán với Môi-se; nhưng với gã này, ngay việc y đến từ đâu chúng ta cũng không biết.”
\s5
\v 30 Anh ta trả lời: “Nói nghe lạ thật! Ông ấy đã mở mắt để tôi có thể nhìn thấy, mà các ông lại không biết ông ta đến từ đâu!
\v 31 Chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời không nghe lời cầu nguyện của người có tội, tức những kẻ bỏ qua luật pháp của Ngài, nhưng Ngài nghe người tôn thờ Ngài và làm theo điều Ngài muốn.
\s5
\v 32 Từ khi bắt đầu thế giới này, chưa từng ai nghe người nào có thể mở mắt cho người mù từ lúc mới sanh!
\v 33 Nếu người này không phải từ Đức Chúa Trời đến, thì ông không thể làm một việc như thế! ”
\v 34 Họ đáp lại anh: “Mày sinh ra trong tội lỗi, và đã sống cả đời mình trong tội mà lại cho rằng mình đủ tư cách để dạy bọn tao à? ” Rồi họ cấm anh lui tới nhà hội.
\s5
\v 35 Chúa Giê-xu nghe biết những gì người Pha-ri-si đã làm cho người mù Ngài chữa lành, thể nào họ đã trục xuất anh khỏi nhà hội. Vậy là Ngài đi tìm anh. Khi đã tìm gặp Ngài hỏi anh: “Anh có tin Tôi, tức Con Người, không? ”
\v 36 Anh ta trả lời, “Thưa ông, người ấy là ai? Xin nói cho tôi biết, để tôi có thể tin người. ”
\v 37 Chúa Giê-xu đáp: “Anh đã thấy người ấy. Đó là người đang nói chuyện với anh đây. ”
\v 38 Anh trả lời: “Lạy Chúa, tôi tin. ” Rồi anh quì xuống và thờ lạy Ngài.
\s5
\v 39 Chúa Giê-xu: “Tôi đã vào thế giới này để đoán xét thế giới, hầu cho những ai không thấy sẽ được thấy, còn những ai thấy thì sẽ trở nên mù. ”
\v 40 Có mấy người Pha-ri-si đang có mặt ở chỗ Ngài, nghe Ngài nói điều này thì hỏi Chúa Giê-xu rằng: “Bộ chúng tôi cũng mù à? ”
\v 41 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Nếu các ông mù thì các ông chẳng có tội. Nhưng vì các ông tự bào chữa mình, rằng: Chúng tôi thấy, nên tội lỗi vẫn còn trong các ông.
\s5
\c 10
\p
\v 1 “Tôi nói thật với các ông: ai vào chuồng chiên thì phải vào bằng cổng. Nếu người đó trèo vào bằng đường khác, thì không phải là người chăn dắt chiên, mà là kẻ trộm cắp chiên.
\v 2 Người vào chuồng chiên bằng cổng là người chăn đích thực, vì người đó chăm sóc chiên.
\s5
\v 3 Người được thuê gác cổng khi người chăn đi vắng sẽ mở cửa cho ngươi chăn lúc người chăn trở về. Tuy nhiên, chiên chỉ nhận ra tiếng của người chăn khi người chăn gọi đúng tên chúng. Rồi người chăn dẫn chiên ra khỏi chuồng để cho chúng ăn, uống.
\v 4 Sau khi người chăn đã đem hết chiên ra ngoài, thì đi trước chúng. Chiên háo hức đi theo người chăn bởi vì chúng biết tiếng của người chăn.
\s5
\v 5 Chiên sẽ không bao giờ đi theo tiếng gọi của người lạ. Chúng sẽ chạy trốn bởi vì chúng không quen tiếng của người lạ.
\v 6 Chúa Giê-xu sử dụng việc người chăn làm để minh họa điều Ngài nói. Dù vậy, họ không hiểu điều Ngài nói với mình.
\s5
\v 7 Vì vậy, Chúa Giê-xu tiếp: “Tôi nói thật với ông: Tôi là cổng cho chiên ra vào chuồng.
\v 8 Tất cả những kẻ đến trước Tôi đều là kẻ cắp và kẻ tội phạm bắt trộm chiên, nhưng chiên không nghe chúng và không chịu theo chúng.
\s5
\v 9 Còn Tôi thì giống như cái cổng. Nếu người nào đi qua cổng mà vào chuồng chiên thì sẽ được an toàn; họ sẽ đi ra và gặp đồng cỏ. Tôi sẽ dẫn họ đến đồng cỏ xanh tốt ấy.
\v 10 Kẻ trộm chỉ đến để cướp, giết và hủy diệt; còn Tôi đã đến để chiên được sống và không thiếu thốn chi.
\s5
\v 11 Tôi là người chăn tốt. Người chăn tốt sẽ chết để bảo vệ và cứu chiên của mình.
\v 12 Người ta trả tiền cho người làm thuê để trông coi chiên. Người chăn thuê không đối xử với chiên như là chiên của mình; hắn chỉ là người được mướn để làm việc. Vì thế khi hắn thấy muông sói đến giết hại chiên thì hắn sẽ không liều mạng mình. Hắn sẽ bỏ chiên lại mà chạy, để mặc cho muông sói tấn công chiên, bắt lấy chiên, và làm tan tác bầy.
\v 13 Kẻ chăn thuê bỏ chạy vì hắn chỉ làm việc để nhận tiền. Hắn chẳng quan tâm đến việc chiên sống chết ra sao.
\s5
\v 14 Tôi, chính Tôi, là ngươi chăn tốt. Tôi biết chiên của Tôi, và chiên Tôi biết Tôi,
\v 15 giống như Tôi biết Cha và Cha biết Tôi vậy. Do vậy, Tôi sẵn sàng chết cho chiên của Tôi.
\v 16 Tôi còn những chiên khác không thuộc chuồng này. Tôi cũng sẽ khiến chúng nghe Tôi. Chúng sẽ nghe Tôi, để rồi sẽ chỉ có một bầy được Tôi, người chăn duy nhất, dắt chăn.
\s5
\v 17 Lý do Cha Tôi yêu Tôi là vì Tôi sẽ hy sinh mạng sống của mình. Tôi sẽ từ bỏ sự sống mình, và rồi lấy lại.
\v 18 Không một ai bắt Tôi hy sinh mạng sống mình. Tôi đã tự nguyện hiến dâng chính mình. Tôi có quyền hy sinh mạng sống mình, và tôi cũng có quyền lấy lại. Đây là công việc Cha giao cho Tôi, và Ngài đã truyền cho Tôi thực hiện.”
\s5
\v 19 Sau khi nghe những lời Chúa Giê-xu vừa nói, người Do Thái lại bất đồng ý kiến với nhau về Ngài.
\v 20 Nhiều người giữa vòng họ nói: “Ma quỉ đang điều khiển y và khiến y bị điên khùng. Đừng phí thì giờ nghe y nói. ”
\v 21 Những người khác bảo: “Những gì ông ta nói làm sao một người bị quỷ ám nói được. Chẳng có ma quỉ nào có thể mở mắt người mù!”
\s5
\v 22 Đã đến thời điểm kỷ niệm Lễ Cung Hiến, là dịp người Do Thái nhớ lại lúc tổ tiên họ thanh tẩy đền thờ Giê-ru-sa-lem và dâng nó lại cho Đức Chúa Trời. Lúc đó là vào mùa đông.
\v 23 Chúa Giê-xu đang đi lại trong sân đền thờ tại hành lang Sa-lô-môn.
\v 24 Những người Do thái chống đối Ngài tụ tập lại xung quanh và hỏi: “Ông cứ để chúng tôi thắc mắc về ông đến khi nào đây? Nếu ông là Chúa Cứu Thế, hãy nói rõ để chúng tôi biết.”
\s5
\v 25 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Tôi đã nói cho các ông rồi, mà các ông có tin đâu. Các ông có thể biết Tôi là ai nhờ các phép lạ và những việc khác mà Tôi đã làm bằng danh nghĩa và thẩm quyền của Cha. Những việc đó đủ để cho các ông biết về Tôi.
\v 26 Các ông không tin Tôi bởi vì các ông không thuộc về Tôi. Các ông là chiên của một kẻ chăn khác.
\s5
\v 27 Chiên Tôi nghe tiếng Tôi. Tôi biết rõ tên của từng con chiên; chúng theo Tôi và vâng lời Tôi.
\v 28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời. Không ai có thể giết hại chúng, và không ai có thể cướp chúng khỏi tay Tôi.
\s5
\v 29 Cha Tôi đã ban các chiên đó cho Tôi; Ngài lớn hơn bất cứ ai, vì thế không ai có thể cướp chúng khỏi tay Ngài.
\v 30 Tôi với Cha là một. ”
\v 31 Một lần nữa, những kẻ chống đối Chúa Giê-xu nhặt đá để ném cho Ngài chết đi.
\s5
\v 32 Chúa Giê-xu nói với họ: “Các ông đã thấy Tôi làm nhiều việc thiện lành, là những việc Cha đã bảo Tôi làm. Vì việc nào mà các ông định ném đá tôi?
\v 33 Những người Do thái chống đối đáp lại: “Chúng tôi muốn giết ông, không phải vì ông đã làm việc thiện lành, nhưng vì ông chỉ là người phàm, mà lại dám xúc phạm Đức Chúa Trời và tự tôn mình lên làm Đức Chúa Trời!”
\s5
\v 34 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Trong Kinh thánh có chép lời Đức Chúa Trời phán với những người lãnh đạo được Ngài chọn: Ta đã nói rằng các ngươi là thần ( tức rất cao trọng và có quyền hành trên nhiều người)!
\v 35 Đức Chúa Trời đã phán như vậy với những người lãnh đạo khi Ngài chọn họ. Không ai phản đối lời ấy, cũng không ai có thể cho thấy lời nào trong Kinh thánh là sai trật.
\v 36 Tôi là người mà Cha đã biệt riêng hoàn toàn cho chỉ một mình Ngài. Ngài là Đấng đã sai phái tôi vào thế giới này. Vậy, sao các ông nổi giận với Tôi khi Tôi nói: Tôi là Con Đức Chúa Trời tức bình đẳng với Ngài?
\s5
\v 37 Nếu Tôi không làm điều Cha bảo Tôi làm, thì Tôi sẽ không mong các ông tin Tôi.
\v 38 Nhưng, vì Tôi làm những việc này, nên các ông hãy tin những gì mà các việc đó cho các ông biết về tôi, cho dù các ông không tin lời tôi nói. Làm vậy, các ông sẽ biết và hiểu rằng Cha ở trong Tôi và Tôi ở trong Cha. ”
\v 39 Sau khi nghe Ngài nói vậy, họ lại tìm cách bắt Ngài nhưng, một lần nữa, Ngài thoát khỏi tay họ.
\s5
\v 40 Rồi Chúa Giê-xu trở về bờ phía đông bên kia sông Giô-đanh. Ngài đi đến chỗ Giăng Báp tít đã làm báp têm cho nhiều người lúc đầu. Chúa Giê-xu ở lại đó mấy ngày.
\v 41 Nhiều người đến với Ngài. Họ nói rằng: “Giăng Báp tít chưa từng thực hiện phép lạ nào, nhưng người này đã làm nhiều phép lạ! Mọi điều Giăng nói về người này đều đúng! ”
\v 42 Nhiều người bằng lòng tin Ngài; họ tin Ngài là ai, cũng như tin Ngài sẽ làm gì cho mình.
\s5
\c 11
\p
\v 1 Có một người tên La-xa-rơ bị bệnh rất nặng. Anh sống tại làng Bê-tha-ni cùng với Ma-ri và Ma-thê.
\v 2 Ma-ri này chính là người về sau đã xức dầu thơm cho Chúa rồi dùng tóc lau chân Ngài để bày tỏ tình yêu và sự tôn kính đối với Ngài. Người bệnh La-xa-rơ là anh của cô.
\s5
\v 3 Hai chị em sai người đến nói cùng Chúa Giê-xu về tình trạng của La-xa-rơ; họ thưa với Ngài rằng: “Thưa Chúa, người Chúa yêu bị bệnh. ”
\v 4 Khi Chúa Giê-xu nghe La-xa-rơ bị bệnh, Ngài nói: “Bệnh này sẽ không đến mức khiến La-xa-rơ chết. Mục đích của căn bệnh là để người ta nhìn thấy và biết được Đức Chúa Trời vĩ đại như thế nào khi Ngài thực hiện những điều kỳ diệu, và để Tôi, Con Đức Chúa Trời, cũng có dịp thể hiện năng quyền lớn lao của mình.”
\s5
\v 5 Số là Chúa Giê-xu yêu mến Ma-thê, em gái cô là Ma-ri, và La-xa-rơ.
\v 6 Dầu vậy, khi nghe biết La-xa-rơ bị bệnh, Ngài đã trì hoãn đến gặp ông. Ngài ở lại chỗ hiện đang ở thêm hai ngày.
\v 7 Rồi Ngài nói cùng các môn đồ: “Chúng ta hãy trở lại Giu-đê.”
\s5
\v 8 Các môn đồ đáp: “Thưa Thầy, chỉ cách đây ít lâu thôi, những người Do Thái chống đối đã từng muốn ném đá Thầy, mà giờ đây Thầy lại còn muốn trở lại nơi đó nữa! ”
\v 9 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Anh em biết là mỗi ngày có mười hai giờ, đúng không? Người nào đi vào ban ngày sẽ an toàn bởi vì người đó thấy mọi thứ trên đường.
\s5
\v 10 Nhưng, khi ai đó đi lúc ban đêm, người ấy sẽ dễ vấp té vì không thấy đường. ”
\v 11 Nói xong, Ngài bảo họ: “Bạn của chúng ta đã ngủ nhưng Thầy sẽ đến đó để đánh thức anh ta.”
\s5
\v 12 Các môn đồ nói với Ngài: “Thưa Chúa, nếu anh ấy ngủ thì rồi sẽ thức dậy thôi. ”
\v 13 Thật ra, Chúa Giê-xu đang muốn nói rằng La-xa-rơ đã chết, nhưng các môn đồ nghĩ rằng Ngài đang nói về giấc ngủ thông thường mà chúng ta đều biết là giúp nghỉ ngơi.
\v 14 Cho nên Ngài nói rõ cho họ luôn: “La-xa-rơ chết rồi;
\s5
\v 15 nhưng vì anh em mà Thầy mừng là Thầy không có ở đó khi anh ta chết, để anh em thấy được vì sao Thầy đáng cho anh em tin cậy. Còn bây giờ thì đã đến lúc; chúng ta cùng đi đến đó, nào. ”
\v 16 Vậy là Thô-ma, vốn được gọi là Sinh Đôi, nói với các môn đồ kia: “Chúng ta cũng hãy đi với Chúa Giê-xu để cùng chết với Ngài.”
\s5
\v 17 Khi Chúa Giê-xu đến Bê-tha-ni, Ngài thấy La-xa-rơ đã chết và đã được chôn trong mộ bốn ngày.
\v 18 Giê-ru-sa-lem chỉ cách Bê-tha-ni khoảng ba ki-lô-mét.
\v 19 Nhiều người Do Thái biết La-xa-rơ và gia đình của anh nên đã từ Giê-ru-sa-lem đến để an ủi Ma-thê và Ma-ri về sự qua đời của người anh trai.
\v 20 Khi Ma-thê nghe biết Chúa Giê-xu gần đến, cô liền chạy ra đường để gặp Ngài. Ma-ri thì không đi, mà cứ ở lại trong nhà.
\s5
\v 21 Khi Ma-thê thấy Chúa Giê-xu, cô nói với Ngài: “Lạy Chúa, nếu Ngài ở đây, thì anh tôi đâu có chết.
\v 22 Nhưng thậm chí bây giờ đây, tôi biết rằng bất cứ điều gì Ngài cầu xin Đức Chúa Trời thì sẽ được ban cho. ”
\v 23 Chúa Giê-xu nói với cô: “Anh của cô sẽ sống lại.”
\s5
\v 24 Ma-thê thưa với Ngài: “Tôi biết anh ấy sẽ sống lại khi Đức Chúa Trời khiến cho cho mọi người đã chết sống lại vào ngày cuối cùng. ”
\v 25 Chúa Giê-xu nói với cô: “Tôi là Đấng khiến người chết sống lại; Tôi là Đấng ban cho họ sự sống. Người nào tin Tôi, dù đã chết thì cũng sẽ sống lại.
\v 26 Tất cả những ai nhận được sự sống liên kết với Tôi và đặt lòng tin nơi Tôi thì họ sẽ không bao giờ chết. Cô có tin Tôi không?”
\s5
\v 27 Cô đáp lại Ngài: “Vâng thưa Chúa! Tôi tin lời Ngài nói, tôi cũng tin Ngài là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời, Đấng Đức Chúa Trời đã hứa sẽ đến thế gian. ”
\v 28 Sau khi nói như vậy, cô trở về nhà và đem Ma-ri riêng ra, nói với em mình: “Thầy đã đến và đang gọi em. ”
\v 29 Khi Ma-ri nghe vậy, cô liền đi ra gặp Chúa.
\s5
\v 30 Lúc đó, Chúa Giê-xu chưa vào trong làng; Ngài vẫn còn ở chỗ Ma-thê đã gặp Ngài.
\v 31 Những người đến nhà để an ủi hai chị em thấy Ma-ri vội đứng dậy đi ra ngoài. Vậy là họ đi theo cô, vì nghĩ rằng cô đến mộ La-xa-rơ để than khóc cho anh trai mình.
\v 32 Ma-ri đến chỗ Chúa Giê-xu; khi gặp Ngài, thì cô quì xuống trước mặt Ngài và thưa: “Lạy Chúa, nếu Ngài đã ở đây, thì anh trai của tôi đã không chết.”
\s5
\v 33 Khi Chúa Giê-xu thấy Ma-ri đau buồn khóc thương anh mình, và những người đến phân ưu cùng đi với cô cũng khóc, thì tận nơi sâu thẳm trong tâm hồn Ngài cũng xúc động và bối rối.
\v 34 Ngài hỏi họ: “Các người táng xác anh ấy ở đâu? ” Họ trả lời: “Thưa Chúa hãy đến và xem. ”
\v 35 Chúa Giê-xu khóc.
\s5
\v 36 Vậy, những người Do Thái bảo nhau: “Hãy xem ông ta yêu mến La-xa-rơ biết bao! ”.
\v 37 Tuy nhiên, có mấy người thắc mắc: “Bộ chẳng phải ông ấy mở mắt cho anh mù đấy sao? Sao ông ấy không cứu La-xa-rơ cho khỏi chết?”
\s5
\v 38 Người Chúa Giê-xu run lên và lòng Ngài bối rối khi Ngài đến nơi phần mộ. Đó là một hang đá, cửa vào đã được lấp bằng một tảng đá to.
\v 39 Chúa Giê-xu bảo những người đang đứng ở đó: “Hãy lăn tảng đá ra”. Nhưng Ma-thê phản đối: “Thưa Chúa, đến bữa này hẵn có mùi hôi thối, vì anh ấy đã chết bốn ngày rồi. ”
\v 40 Chúa Giê-xu nói với cô: “Chẳng lẽ Tôi không nói thật với cô khi bảo rằng nếu cô tin thì sẽ biết Đức Chúa Trời là ai và cũng biết những việc Ngài có thể làm, hay sao?”
\s5
\v 41 Vậy là họ lăn tảng đá đi. Chúa Giê-xu ngước mắt lên trời, nói: “Thưa Cha, Con cám ơn Cha vì đã nghe lời cầu xin của Con.
\v 42 Con biết rằng Cha luôn nghe Con. Con nói như vậy vì cớ những người đang đứng đây, để họ biết đặt lòng tin nơi Cha, và tin rằng Cha đã sai phái Con.”
\s5
\v 43 Sau khi nói lời đó, Ngài kêu lớn tiếng: “Nào, La-xa-rơ, hãy bước ra! ”.
\v 44 Người chết liền đi ra! Tay và chân anh vẫn còn bị quấn vải liệm, mặt thì bị quấn khăn. Chúa Giê-xu bảo họ: “Hãy cởi bỏ các mãnh vải cột quấn trên người để anh ấy được thong thả, rồi để cho anh ấy đi.”
\s5
\v 45 Kết quả là nhiều người Do thái đến thăm Ma-ri và được chứng kiến việc Chúa Giê-xu làm đã tin Ngài.
\v 46 Nhưng có một số người khác đã đến gặp những người Pha-ri-si, kể cho họ nghe việc Chúa Giê-xu đã làm.
\s5
\v 47 Vậy là các trưởng tế và người Pha-ri-si triệu tập hết các thành viên Tòa công luận của người Do Thái lại. Họ bàn với nhau: “Chúng ta sẽ làm gì đây? Gã này làm nhiều phép lạ.
\v 48 Nếu chúng cứ để cho y làm vậy thì mọi người sẽ tin y và nổi lên chống lại người La-mã. Rồi quân đội La-mã sẽ kéo đến hủy phá đền thờ lẫn đất nước của chúng ta!”
\s5
\v 49 Một người trong số các thành viên của Tòa Công luận tên là Cai-phe, Thầy Thượng tế đương chức năm đó. Ông ta nói với mọi người: “Tất cả các ông đều chẳng biết gì cả!
\v 50 Các ông không hiểu là thà một người chết cho mọi người, còn hơn là để cả dân tộc bị diệt vong sao?”
\s5
\v 51 Ông ta nói lời đó không phải do tự mình nghĩ ra, mà là trong cương vị Thầy Thượng tế đương chức, ông ta đang nói tiên tri rằng Chúa Giê-xu sẽ chết thay cho cả dân tộc Do Thái.
\v 52 Nhưng ông cũng nói tiên tri rằng Chúa Giê-xu không chỉ chết vì dân Do Thái thôi đâu, mà còn để Ngài có thể nhóm lại thành một dân tất cả con cái Đức Chúa Trời sống ở mọi vùng đất khác.
\v 53 Vậy là kể từ ngày đó, Tòa Công luận bắt đầu tìm mọi cách để bắt Chúa Giê-xu và giết Ngài đi.
\s5
\v 54 Vì lý do đó, Chúa Giê-xu không còn đi lại cách công khai giữa vòng những người Do Thái chống đối Ngài nữa. Thay vào đó, Ngài rời Giê-ru-sa-lem và cùng với các môn đồ đi đến một thành kia gọi là Ép-ra-im trong khu vực gần vùng đất hoang dã và vùng sa mạc. Ngài ở lại đó với các môn đồ trong một thời gian.
\v 55 Bấy giờ gần đến thời điểm kỷ niệm Lễ Vượt Qua, nên có nhiều người từ vùng quê và các làng mạc lên thành Giê-ru-sa-lem. Họ sẽ chuẩn bị bằng cách tắm gội thanh tẩy mình theo như luật lệ của người Do Thái, để được phép ăn mừng Lễ Vượt Qua.
\s5
\v 56 Những người đến Giê-ru-sa-lem để thờ phượng nhân dịp Lễ Vượt Qua đã tìm kiếm Chúa Giê-xu. Họ đến đứng tại đền thờ, hỏi nhau: “Các anh thấy sao? Chắc ông ấy chẳng lên dự Lễ Vượt Qua đâu nhỉ? ”
\v 57 Các thầy trưởng tế và người Pha-ri-si đã ban hành lệnh rằng nếu ai tìm thấy Chúa Giê-xu ở đâu, thì phải báo cho họ, để họ bắt Ngài.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Chúa Giê-xu đến ở Bê-tha-ni sáu ngày trước khi Lễ Vượt Qua bắt đầu. Làng Bê-tha-ni là nơi sinh sống của La-xa-rơ, người đã chết nhưng sau được Chúa Giê-xu khiến sống lại.
\v 2 Tại Bê-tha-ni, họ tổ chức tiệc để tỏ lòng tôn quý Chúa Giê-xu. Ma-thê chuẩn bị cho bữa tiệc, còn La-xa-rơ thuộc trong số những người cùng ngồi ở bàn ăn.
\v 3 Lúc đó, Ma-ri lấy một chai dầu thơm đắt tiền (gọi là dầu cam tùng) và, để tỏ lòng tôn quý Chúa, cô dốc đổ dầu đó lên hai bàn chân Ngài, rồi dùng tóc mà lau. Mùi thơm của dầu lan tỏa khắp ngôi nhà.
\s5
\v 4 Tuy nhiên, một môn đồ của Ngài là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, (ông ta là kẻ đã phụ lòng tin của Chúa Giê-xu và chẳng bao lâu sau đó đã nộp Ngài cho kẻ thù) ông ta lên tiếng phản đối:
\v 5 “Bán dầu thơm này với giá tiền tương đương ba trăm ngày công, rồi lấy tiền đó mà giúp cho người nghèo có phải hơn không! ”
\v 6 Ông ta nói vậy không phải vì quan tâm đến người nghèo, nhưng vì ông ta là kẻ trộm. Ông ta chịu trách nhiệm giữ tiền của họ, và thường sử dụng tiền đó cho riêng mình mỗi khi ông ta muốn.
\s5
\v 7 Nhưng Chúa Giê-xu bảo: “Cứ để yên cho cô ấy! Cô ấy đã mua dầu này để chuẩn bị cho việc mai táng khi tôi qua đời.
\v 8 Các ông sẽ luôn có những người nghèo ở cùng, nhưng không phải lúc nào cũng có tôi ở cạnh đâu.”
\s5
\v 9 Một đám đông người Do Thái tại Giê-ru-sa-lem nghe rằng Chúa Giê-xu đang ở Bê-tha-ni, nên họ kéo đến. Họ không chỉ đến bởi vì Chúa Giê-xu có ở đó, nhưng cũng để xem La-xa-rơ, người Chúa Giê-xu đã khiến sống lại.
\v 10 Vậy là các vị trưởng tế quyết định cần phải giết luôn La-xa-rơ
\v 11 bởi vì do ông mà nhiều người Do thái không còn tin vào những điều giới trưởng tế giảng dạy; thay vào đó, họ tin nơi Chúa Giê-xu.
\s5
\v 12 Ngày hôm sau, đám đông dân chúng đến dự Lễ Vượt Qua nghe biết Chúa Giê-xu đang trên đường đến Giê-ru-sa-lem.
\v 13 Họ chặt những nhánh cây cọ rồi đem ra ngoài thành để đón Ngài vào. Họ tung hô: “Hô-sa-na! Ngợi khen Đức Chúa Trời! Phước cho Đấng nhơn danh Chúa mà đến! Vua Y-sơ-ra-ên, chúng tôi hoan nghênh Ngài!”
\s5
\v 14 Khi Chúa Giê-xu đến gần Giê-ru-sa-lem, Ngài thấy một con lừa con, nên Ngài lên ngồi và cưỡi lừa vào thành. Làm vậy, Ngài đã khiến ứng nghiệm lời được chép trong Kinh thánh, rằng:
\v 15 “Đừng sợ hãi, hỡi cư dân Giê-ru-sa-lem. Hãy xem! Vua của các ngươi đến kìa. Ngài đang cưỡi trên lưng lừa con!”
\s5
\v 16 Khi việc ấy xảy ra, các môn đồ của Ngài không hiểu nó đã làm ứng nghiệm lời tiên tri. Nhưng, sau khi Chúa Giê-xu hoàn tất công tác của Ngài và đã nhận lại quyền năng đầy đủ trong cương vị Đức Chúa Trời, họ mới nhớ lại những điều mà các nhà tiên tri đã viết về Ngài và những điều người ta đã làm cho Ngài.
\s5
\v 17 Đám đông đi theo Chúa Giê-xu cứ nói cho người khác về những điều họ chứng kiến, rằng Chúa Giê-xu đã kêu La-xa-rơ ra khỏi mồ mã, rằng Ngài đã khiến ông sống lại.
\v 18 Đám đông kia, tức những người đã ra bên ngoài cổng thành để đón Chúa Giê-xu, cũng làm như vậy vì họ nghe biết Ngài đã thực hiện những việc lớn lao để tỏ ra quyền năng của Ngài.
\v 19 Vì vậy, những người Pha-ri-si bàn với nhau: “Chà, chúng ta chẳng có được lợi thế nào ở đây cả! Xem đó, cả thiên hạ đều kéo theo y.”
\s5
\v 20 Trong số những người lên Giê-ru-sa-lem dự Lễ Vượt Qua có mấy người Hy Lạp.
\v 21 Họ đến gặp Phi-líp, người thành Bết-sai-đa trong vùng Ga-li-lê. Họ có việc nhờ ông giúp; họ nói: “Thưa ông, xin giới thiệu chúng tôi với Chúa Giê-xu?
\v 22 Phi-líp báo lại việc này cho Anh-rê, rồi cả hai người đến nói với Chúa Giê-xu.
\s5
\v 23 Chúa Giê-xu trả lời Phi-líp và Anh-rê: “Đã đến lúc Đức Chúa Trời bày tỏ cho người ta thấy mọi việc mà Thầy, tức Con Người, đã làm, và cho họ biết mọi điều Thầy đã nói.
\v 24 Thầy nói thật để anh em rõ: nếu hạt lúa mì được gieo vào đất mà không chết đi thì nó vẫn cứ là hạt lúa đơn độc; nhưng nếu chết đi trong lòng đất, thì nó sẽ lớn lên và sản sinh ra được nhiều hạt.
\s5
\v 25 Người nào sống cốt chỉ để chìu theo ý mình sẽ lụn bại, còn ai sống mà không tìm cách làm vừa lòng mình sẽ giữ được sự sống mình mãi mãi.
\v 26 Nếu ai muốn phục vụ Thầy, thì phải theo Thầy, bởi vì đầy tớ của Thầy thì phải ở với Thầy. Cha sẽ tôn quí những người nào phục vụ Thầy.
\s5
\v 27 Hiện giờ linh hồn Thầy rất bồn chồn. Thầy có nên xin: Thưa Cha, hãy cứu con khỏi giờ con phải chịu đau đớn và phải chết! chăng? Không, vì đây là lý do Thầy vào thế giới này.
\v 28 Thưa Cha của Con, xin hãy tỏ bày ra Cha quyền năng là dường nào trong mọi lời Cha đã phán, trong mọi việc Cha đã làm, và trong mọi điều thuộc bản tánh của Cha! ” Rồi Đức Chúa Trời từ trên trời đáp lại: “Ta đã phô bày bản tánh của Ta, các lời Ta phán, những việc Ta làm; và Ta sẽ còn làm như vậy nữa! ”
\v 29 Đám đông ở đó nghe tiếng của Đức Chúa Trời, nhưng một số người cho rằng đó chỉ là tiếng sấm. Số khác thì nói đó là tiếng thiên sứ nói với Chúa Giê-xu.
\s5
\v 30 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Tiếng nói mà các ông nghe đó là tiếng của Đức Chúa Trời. Nhưng Ngài phán không phải vì lợi ích của Tôi, mà là vì lợi ích của các ông!
\v 31 Giờ là lúc Đức Chúa Trời đoán xét thế gian. Giờ là thời điểm Ngài sẽ tống xuất Sa-tan, kẻ cai trị thế giới này.
\s5
\v 32 Về phần Tôi, khi người ta treo Tôi lên cây thập tự, thì Tôi sẽ kéo mọi người đến với mình. ”
\v 33 Ngài nói vậy để người ta biết Ngài sẽ chết như thế nào.
\s5
\v 34 Một số người trong đám đông hỏi lại Ngài: “Đọc Kinh thánh, chúng tôi hiểu rằng Đấng Mê-si sẽ sống đời đời. Vậy, sao ông nói Con Người sẽ chết? Con Người ông nói đó là ai?
\v 35 Chúa Giê-xu đáp: “Ánh sáng của tôi chỉ chiếu rọi trên các ông ít lâu nữa thôi. Hãy bước đi trong ánh sáng đang lúc các ông còn ánh sáng, nếu không, bóng đêm sẽ ập xuống các ông. Những kẻ bước đi trong bóng tối không thấy đường đi!
\v 36 Hãy tin cậy ánh sáng đó khi các ông có ánh sáng; rồi các ông sẽ thuộc về sự sáng. ” Nói mấy lời đó rồi, Chúa Giê-xu bỏ đi ẩn mình nơi khác.
\s5
\v 37 Mặc dù Chúa Giê-xu đã thực hiện nhiều phép lạ, nhưng đa số người vẫn không tin những điều Ngài nói với họ.
\v 38 Điều này là để ứng nghiệm lời của tiên tri Ê-sai đã báo từ lâu rằng: “Lạy Chúa, ai đã tin điều mà chúng con rao báo? Chúa đã tỏ cho chúng con thấy thể nào Ngài có thể dùng quyền năng mà giải cứu chúng con!”
\s5
\v 39 Ấy thế mà họ lại không thể tin Ngài, theo như lý do mà Ê-sai cho biết:
\v 40 “Chúa đã khiến cho họ không thấy được, và Ngài làm cho họ bướng bỉnh; họ không thấy được cho dù có nhìn, nếu nhìn thấy, họ sẽ hiểu; họ sẽ ăn năn và cầu xin Ta tha thứ. Vì lý do này, Ta không thể chữa lành họ!”
\s5
\v 41 Ê-sai viết những lời đó đã lâu lắm rồi vì ông hiểu rằng Đấng Cứu Thế sẽ hầu việc Đức Chúa Trời một cách quyền năng.
\v 42 Mặc dù đúng là như vậy, nhưng nhiều nhà lãnh đạo Do thái đã tin nơi Chúa Giê-xu. Tuy nhiên, vì họ rất sợ bị người Pha-ri-si đuổi khỏi nhà hội, nên họ không dám nói thẳng là mình tin Chúa Giê-xu.
\v 43 Họ thích được người ta khen ngợi và tôn trọng hơn là được Đức Chúa Trời khen ngợi.
\s5
\v 44 Chúa Giê-xu nói lớn với đám đông đã tụ tập quanh Ngài: “Ai tin Tôi thì thật ra người đó không chỉ tin Tôi thôi đâu, mà cũng tin Đức Chúa Trời, là Đấng sai phái Tôi.
\v 45 Khi các ông nhìn thấy Tôi đây tức các ông cũng đang nhìn thấy Đấng sai phái Tôi.
\s5
\v 46 Tôi đã vào thế giới này để làm ánh sáng cho thế giới; ai tin Tôi sẽ không còn ở trong bóng tối nữa.
\v 47 Tôi không đến thế giới này để đoán xét những kẻ nghe lời Tôi mà không chịu vâng theo. Tôi không vào thế giới để đoán xét người ta.
\s5
\v 48 Nhưng có một thứ sẽ lên án những kẻ khước từ Tôi và không làm theo sứ điệp của Tôi. Họ sẽ bị lên án bởi sứ điệp mà Tôi đã nói cho họ.
\v 49 Khi Tôi dạy về Đức Chúa Trời, Tôi không chỉ đơn thuần nói ra những điều mình nghĩ. Đức Chúa Trời, là Đấng đã sai Tôi đến, ban cho Tôi các chỉ dẫn rõ ràng về những điều Tôi cần nói và cách Tôi phải nói.
\v 50 Tôi biết rằng những chỉ dẫn quan trọng nhất của Cha là những lời dạy người ta cách để được hưởng sự sống đời đời, và Tôi đã truyền đạt chính xác những gì Cha bảo Tôi nói ra.”
\s5
\c 13
\p
\v 1 Còn một ngày nữa là đến Lễ Vượt Qua. Chúa Giê-xu biết đã đến lúc Ngài rời bỏ thế giới để trở về cùng Cha Ngài cho thấy Ngài rất đỗi yêu thương những người từng ở với Ngài trong thế giới này, và Ngài yêu thương họ cho đến cuối cuộc đời.
\v 2 Trước khi Chúa Giê-xu và các môn đồ Ngài ăn bữa tối, thì ma quỷ đã gieo vào đầu Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, con Si-môn, ý tưởng giao nộp Chúa Giê-xu cho kẻ thù của Ngài.
\s5
\v 3 Nhưng Chúa Giê-xu biết Cha đã ban cho Ngài mọi quyền trên mọi vật. Ngài cũng biết rằng Ngài đã từ Đức Chúa Trời đến, và sẽ trở về với Đức Chúa Trời.
\v 4 Chúa Giê-xu đứng dậy khỏi bàn ăn. Ngài cởi áo ngoài rồi quấn một khăn ngang thắt lưng mình.
\v 5 Ngài đổ nước vào chậu và bắt đầu rửa chân cho các môn đồ, rồi dùng khăn lau khô chân họ.
\s5
\v 6 Ngài đến chỗ Si-môn Phi-e-rơ, thì ông thưa với Ngài: “Lạy Chúa, Ngài định rửa chân cho tôi sao? ”
\v 7 Chúa Giê-xu đáp: “Anh em chưa hiểu điều Thầy hiện đang làm cho anh em, nhưng về sau sẽ hiểu. ”
\v 8 Phi-e-rơ nói: “Sẽ không bao giờ có chuyện Ngài rửa chân cho tôi đâu! ” Chúa Giê-xu đáp lại ông: “Nếu Thầy không rửa chân cho anh thì anh không có liên hệ gì với Thầy cả. ”
\v 9 Vậy là Si-môn Phi-e-rơ nói nói với Ngài: “Lạy Chúa, xin rửa chân cho tôi, mà cũng rửa luôn tay và đầu tôi nữa!”
\s5
\v 10 Chúa Giê-xu đáp: “Người đã tắm thì chỉ cần rửa chân là đủ, vì phần thân thể còn lại đã sạch rồi. Anh em đã sạch, nhưng không phải tất cả đều sạch. ”
\v 11 Ngài biết ai sẽ nộp Ngài, nên Ngài đã nói: “Không phải tất cả các con đều sạch.”
\s5
\v 12 Sau khi rửa chân cho họ xong, Ngài mặc áo ngoài trở lại. Rồi Ngài ngồi lại vào chỗ mình và hỏi: “Anh em có hiểu điều Thầy đã làm cho anh em không?
\v 13 Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa. Anh em xưng hô như thế là phải lắm, vì Thầy đúng như vậy.
\v 14 Nếu Thầy là Thầy, là Chúa của anh em, mà lại đi rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau.
\v 15 Thầy đã nêu gương cho anh em noi theo, để anh em làm như Thầy đã làm cho anh em.
\s5
\v 16 Thầy nói thật với anh em: đầy tớ không lớn hơn chủ, sứ giả cũng không lớn hơn người đã sai mình đi.
\v 17 Nếu anh em biết những điều này và thực hành, thì anh em có phước dường nào!
\v 18 Thầy không nói điều này về tất cả anh em. Thầy biết người Thầy đã chọn. Tuy nhiên, lời Kinh Thánh này phải được ứng nghiệm: Người đã ăn tại bàn của tôi như bạn hữu đã trở mặt chống lại tôi và đối xử với tôi chẳng khác nào kẻ thù.
\s5
\v 19 Thầy cho anh em biết điều này trước khi Thầy bị nộp, để khi việc xảy ra, thì anh em tin Thầy chính là Đức Chúa Trời.
\v 20 Thầy nói thật với anh em: nếu anh em tiếp người Thầy sai phái đến với anh em, tức anh em đang tiếp chính Thầy; và ai tiếp Thầy, tức cũng đang tiếp Cha Thầy, Đấng sai phái Thầy.”
\s5
\v 21 Sau khi Chúa Giê-xu nói như vậy, thì trong lòng Ngài bối rối. Ngài nghiêm nghị tuyên bố: “Thầy nói thật với anh em: một người giữa vòng anh em sẽ giao nộp Thầy cho kẻ thù. ”
\v 22 Các môn đồ nhìn nhau. Họ hoang mang không biết Ngài đang nói đến ai trong số họ.
\s5
\v 23 Một trong các môn đồ của Ngài là Giăng, người được Chúa Giê-xu đặc biệt yêu thương, đang ngồi kế bên Ngài.
\v 24 Si-môn Phi-e-rơ ra hiệu cho Giăng hỏi xem Chúa Giê-xu đang nói về môn đồ nào.
\v 25 Vậy là Giăng ngả lưng vào Chúa Giê-xu và hỏi nhỏ Ngài: “Thưa Thầy, người đó là ai vậy?”
\s5
\v 26 Chúa Giê-xu đáp: “Đó là người Thầy sẽ trao cho miếng bánh này, sau khi Thầy nhúng bánh vào chén. ” Rồi Ngài nhúng bánh và trao cho Giu-đa, con trai của Si-môn Ích-ca-ri-ốt.
\v 27 Ngay khi Giu-đa nhận bánh, Sa-tan nhập vào lòng y và sai khiến y. Chúa Giê-xu nói với y: “Việc anh phải làm thì hãy làm nhanh đi.”
\s5
\v 28 Không ai khác đang ngồi ăn hiểu vì sao Chúa Giê-xu lại nói như thế với Giu-đa.
\v 29 Một số cho rằng vì Giu-đa là người giữ tiền, nên Chúa Giê-xu bảo ông ta đi mua mấy thứ cần dùng cho Lễ Vượt Qua. Những người khác thì nghĩ rằng Chúa Giê-xu bảo Giu-đa chia sẻ cho người nghèo thứ gì đó.
\v 30 Sau khi nhận lấy bánh, Giu-đa lập tức đi ra ngoài. Lúc ấy trời đã tối.
\s5
\v 31 khi Giu-đa đi rồi, Chúa Giê-xu nói: “Giờ đây, Đức Chúa Trời sẽ khiến mọi người biết Thầy, tức Con Người, đang làm gì. Thầy, tức Con người, cũng sẽ khiến mọi người biết Đức Chúa Trời đang làm gì, và họ sẽ ca ngợi Ngài về việc đó.
\v 32 Vì Thầy, tức Con Người, khiến người ta biết Đức Chúa Trời, và vì Thầy tôn cao Ngài, nên Đức Chúa Trời cũng sẽ tôn cao Thầy.
\v 33 Các con bé nhỏ, Ta chỉ ở với các con ít lâu nữa thôi. Các con sẽ tìm kiếm Ta; nhưng, như Ta đã nói với người Do Thái và giờ đây Ta cũng nói với các con, nơi Ta sẽ đi các con không đến được.
\s5
\v 34 Ta sẽ ban cho các con điều răn mới này: Các con phải yêu thương nhau, như Ta đã yêu các con.
\v 35 Nếu các con yêu nhau, thì mọi người sẽ biết các con là môn đồ của Ta.”
\s5
\v 36 Si-môn Phi-e-rơ thưa với Ngài: “Lạy Chúa, Ngài sẽ đi đâu? ” Chúa Giê-xu đáp: “Nơi Thầy sắp đi, anh em không thể đến vào lúc này; nhưng về sau anh em sẽ đến đó. ”
\v 37 Phi-e-rơ hỏi: “Lạy Chúa, sao tôi lại không thể đi với Ngài lúc này? Tôi sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Ngài. ”
\v 38 Chúa Giê-xu đáp: “Có thật là anh sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Thầy chăng, Phi-e-rơ? Thầy nói thật để anh biết: trước khi gà gáy sáng, anh sẽ ba lần chối không biết Thầy!”
\s5
\c 14
\p
\v 1 “Đừng bối rối hay lo âu. Anh em tin Đức Chúa Trời, thì cũng hãy tin Thầy.
\v 2 Nơi Cha Thầy ở có nhiều chỗ lắm. Nếu không đúng như vậy, thì Thầy đã nói cho anh em rồi. Thầy đi là để chuẩn bị một chỗ cho anh em.
\v 3 Nếu Thầy đi đến đó để sửa soạn chỗ cho anh em, thì Thầy cũng sẽ trở lại đưa anh em đi với Thầy, để rồi Thầy ở đâu thì anh em cũng ở đó với Thầy.
\s5
\v 4 Anh em biết Thầy đi đâu, và anh em cũng biết đường đi nữa. ”
\v 5 Thô-ma thưa với Ngài: “Lạy Chúa, chúng tôi không biết Ngài đi đâu thì làm sao biết được đường đi? ”
\v 6 Chúa Giê-xu đáp lại ông: “Thầy là đường đi, chân lý và sự sống. Nếu chẳng nhờ Thầy thì không ai có thể đến sống với Cha được.
\v 7 Nếu anh em biết Thầy tức anh em cũng đã biết Cha Thầy. Từ giờ phút này, anh em biết Ngài và đã thấy Ngài.”
\s5
\v 8 Phi-líp thưa với Chúa Giê-xu: “Lạy Chúa, xin chỉ Cha cho chúng tôi và đó là tất cả những gì chúng tôi từng mong muốn! ”
\v 9 Chúa Giê-xu đáp lại ông: “Phi-líp này, Thầy đã ở với anh lâu nay mà anh vẫn chưa biết Thầy. Những người đã thấy Thầy tức đã thấy Cha. Vậy, sao anh lại bảo: Hãy chỉ Cha cho chúng tôi?
\s5
\v 10 Phải chăng anh không tin rằng Thầy liên kết với Cha, và Cha liên kết với Thầy? Những điều Thầy đã cho anh em biết không phải do Thầy tự nghĩ ra; đúng hơn, chính Cha đã sai phái Thầy nói cho anh em mọi điều ấy, vì Cha liên kết với Thầy và hành động qua Thầy.
\v 11 Hãy tin Thầy vì Thầy đã với cho anh em rằng Thầy liên kết với Cha và Cha liên kết với Thầy; còn không thì cũng hãy tin Thầy vì mọi dấu hiệu và việc quyền năng mà anh em đã thấy Thầy thực hiện.
\s5
\v 12 Thầy nói thật với anh em: ai tin Thầy cũng sẽ thực hiện những việc Thầy làm đó. Người ấy thậm chí làm những việc lớn hơn nữa vì Thầy sắp đi về với Cha.
\v 13 Bất kỳ việc gì anh em nhân danh Thầy cầu xin thì Thầy sẽ thực hiện. Thầy sẽ làm như vậy để mọi người tôn kính Cha, và để họ nhờ mọi việc mà Thầy, tức Con của Ngài, thực hiện mà biết Cha.
\v 14 Nếu anh em cầu xin Cha bất kỳ điều gì vì cớ anh em thuộc về Thầy, thì Thầy sẽ làm cho.
\s5
\v 15 Nếu anh em yêu mến Thầy thì anh em sẽ sống như Thầy đã dạy anh em.
\v 16 Thầy sẽ xin Cha ban cho anh em một tặng phẩm nữa, và Cha sẽ sai phái một Đấng Cứu Giúp khác đến với anh em; Đấng ấy sẽ đến bên anh em để ở cùng anh em mãi mãi.
\v 17 Ngài là Thần Linh, Đấng tỏ bày chân lý về Đức Chúa Trời. Những kẻ vô tín trong thế giới này sẽ không bao giờ đón tiếp Ngài. Thế nhân không thấy Ngài, cũng chẳng biết Ngài. Nhưng anh em biết Ngài vì Ngài sống với anh em và sẽ liên kết cùng anh em.
\s5
\v 18 Thầy sẽ chẳng bỏ anh em và để mặc anh em không có ai chăm sóc đâu. Thầy sẽ đến với anh em.
\v 19 Chẳng bao lâu nữa thế nhân sẽ không còn thấy Thầy, nhưng anh em sẽ thấy Thầy. Vì Thầy sống, nên anh em sẽ sống.
\v 20 Khi anh em thấy Thầy lại, thì anh em sẽ biết rằng Thầy liên kết với Cha; còn anh em thì liên kết với Thầy, và Thầy cũng liên kết với anh em.
\s5
\v 21 Ai nghe các điều răn của Thầy và vâng giữ thì đó là người yêu mến Thầy. Người yêu mến Thầy thì Cha Thầy sẽ yêu mến lại; Thầy cũng yêu mến họ và sẽ tự bày tỏ mình cho họ biết. ”
\v 22 Lúc đó, Giu-đa (không phải là Ích-ca-ri-ốt, mà là một môn đồ khác có cùng tên) hỏi Chúa Giê-xu: “Thưa Chúa, làm sao Ngài lại chỉ tỏ mình cho chúng tôi biết, mà không phải là cho thế nhân nói chung?”
\s5
\v 23 Chúa Giê-xu đáp lại ông: “Đây là cách để anh em biết được người ta có yêu mến Thầy chăng, đó là xem họ có thực hành những điều Thầy đã dạy anh em làm hay không. Người nào như vậy thì Cha Thầy sẽ yêu mến họ. Ngài và Thầy đây sẽ đến cùng họ và sống với họ.
\v 24 Với người không yêu mến Thầy, họ sẽ không vâng giữ những điều Thầy bảo họ làm. Những điều mà Thầy đã nói cho anh em không phải là những điều Thầy tự nói, mà là những điều Cha đã sai bảo Thầy nói.
\s5
\v 25 Thầy nói những điều này cho anh em trong lúc Thầy vẫn còn ở với anh em.
\v 26 Đấng Cứu Giúp, tức Đấng sẽ đến bên anh em để ở với anh em mà Cha Thầy sẽ nhân danh Thầy sai phái đến Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều mà anh em cần biết. Ngài cũng sẽ nhắc cho anh em nhớ tất cả những lời mà Thầy đã nói với anh em.
\v 27 Khi Thầy để lại cho anh em sự bình an, thì sự bình an mà Thầy cho anh em đó là sự bình an của chính Thầy. Thầy cho anh em loại bình an mà chẳng ai hoặc chẳng điều gì thuộc trần thế này có thể cho anh em. Vậy nên anh em đừng bối rối, lo âu; và cũng đừng sợ hãi.
\s5
\v 28 Anh em đã nghe Thầy nói là Thầy sẽ ra đi và sau đó sẽ trở lại với anh em. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì anh em sẽ vui sướng khi Thầy đi về cùng Cha vì Cha lớn hơn Thầy.
\v 29 Bây giờ thì Thầy đã cho anh em biết các việc này trước khi chúng xảy đến, để khi việc xảy đến thì anh em sẽ tin tục tin cậy Thầy.
\v 30 Thầy không thể nói chuyện với anh em nhiều nữa vì đứa cai trị thế giới này đang đến. Tuy nhiên, nó chẳng có quyền gì đối với Thầy,
\v 31 và Thầy sẽ làm điều Cha đã truyền cho Thầy làm. Điều này là để thế gian biết rằng Thầy yêu mến Cha. Nào, chúng ta hãy đi khỏi đây.”
\s5
\c 15
\p
\v 1 “Thầy là cây nho thật, còn Cha Thầy là người trồng nho.
\v 2 Nhánh nào ở trong Thầy không sinh trái thì Cha Thầy chặt và vứt bỏ. Đối với các nhánh sai trái thì Ngài tỉa sửa sạch sẽ để nó kết quả càng hơn.
\s5
\v 3 Anh em đã được thanh sạch nhờ sứ điệp Thầy truyền dạy.
\v 4 Hãy cứ liên kết với Thầy, thì Thầy sẽ cứ liên kết với anh em. Như nhánh không tự sinh ra trái, thì anh em cũng vậy, trừ khi anh em cứ liên kết với Thầy và lệ thuộc vào Thầy trong mọi việc.
\s5
\v 5 Thầy là cây nho, còn anh em là nhánh nho. Nếu anh em cứ liên kết với Thầy, và Thầy cứ liên kết với Cha, thì anh em sẽ kết nhiều quả, vì lìa khỏi Thầy thì anh em chẳng làm được gì cả.
\v 6 Ai không cứ liên kết với Thầy và nhờ Thầy cung cấp sự sống thì sẽ bị vứt bỏ như nhánh nho chết.
\v 7 Còn nếu anh em cứ liên kết với Thầy và sống nhờ sứ điệp của Thầy, thì anh em có thể cầu xin Đức Chúa Trời điều gì cũng được, và Ngài sẽ thực hiện.
\s5
\v 8 Khi anh em kết nhiều quả thì việc ấy khiến người ta tôn kính Cha. Lúc đó anh em mới là môn đồ của Thầy.
\v 9 Cha đã yêu thương Thầy như thế nào thì Thầy cũng yêu thương anh em như vậy. Hãy cứ để cho Thầy yêu thương anh em.
\s5
\v 10 Nếu anh em vâng theo những điều Thầy truyền bảo cho anh em, tức anh em cứ để cho Thầy yêu thương mình. Anh em sẽ giống Thầy ở chỗ Thầy đã vâng theo những điều Cha Thầy truyền phải làm, và nhờ sự vâng lời đó mà Thầy cứ ở trong tình yêu của Cha. Với anh em cũng sẽ như vậy.
\v 11 Thầy nói cho anh em những điều này để niềm vui của Thầy ở trong anh em, và để anh em được vui mừng đầy trọn.
\s5
\v 12 Điều Thầy yêu cầu anh em thực hiện là anh em hãy yêu thương nhau giống như Thầy đã yêu thương anh em.
\v 13 Anh em không thể có tình yêu nào lớn hơn loại tình yêu khiến anh em hy sinh mạng sống vì bạn mình.
\s5
\v 14 Anh em là bạn hữu Thầy nếu anh em nghe và sống theo các giới mạng của Thầy.
\v 15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ, vì tôi tớ thì chẳng hiểu việc chủ làm. Giờ đây Thầy gọi anh em là bạn, vì mọi việc mà Thầy đã nghe nơi Cha thì Thầy đều tỏ cho anh em biết, để anh em cũng hiểu các việc ấy.
\s5
\v 16 Anh em không chọn Thầy, mà là Thầy đã chọn anh em vì một lý do, đó là để anh em ra đi và kết nhiều quả, và để quả của anh em cứ còn mãi.
\v 17 Đây là điều Thầy truyền bảo anh em: Hãy yêu thương nhau.
\s5
\v 18 Nếu thế nhân khinh miệt anh em, thì anh em nên biết là họ đã ghét Thầy trước rồi.
\v 19 Nếu anh em thuộc về những kẻ vô tín trong thế giới này, thì thế nhân sẽ yêu anh em; còn anh em thì yêu những gì họ yêu và làm những việc họ làm. Nhưng anh em không thuộc về họ, vì Thầy đã chọn anh em để anh em phân rẽ với họ. Đó là lý do kẻ vô tín trong thế giới này khinh miệt anh em.
\s5
\v 20 Hãy nhớ lại khi Thầy dạy anh em, rằng: Tôi tớ không lớn hơn chủ. Vì họ đã làm khổ Thầy, nên anh em có thể chắc rằng họ cũng sẽ làm khổ anh em. Nếu ai trong số họ chịu tiếp nhận các lời dạy của Thầy và vâng theo, thì người đó cũng sẽ tuân giữ lời anh em dạy họ.
\v 21 Kẻ vô tín trong thế giới này sẽ làm những việc kinh tởm cho anh em vì anh em là đại diện của Thầy và vì họ không biết Cha Thầy, Đấng đã sai phái Thầy đến với anh em.
\v 22 Nếu Thầy không đến nói sứ điệp của Đức Chúa Trời cho họ, thì họ không mắc tội khước từ Thầy cùng sứ điệp của Thầy. Tuy nhiên, vì Thầy đã đến nói cho họ biết sứ điệp của Đức Chúa Trời, nên họ chẳng có cớ chối tội.
\s5
\v 23 Ai ghét Thầy thì cũng ghét Cha Thầy.
\v 24 Nếu Thầy không thực hiện những việc kia giữa vòng họ, tức những việc bày tỏ quyền năng của Thầy, những việc mà chưa ai khác từng làm, thì họ không mắc tội. Nhưng vì họ đã thấy Thầy, nên họ ghét Thầy, và cũng ghét Cha Thầy nữa.
\v 25 Những lời được chép trong luật pháp này giờ đây đã ứng nghiệm: Họ ghét tôi vô cớ.
\s5
\v 26 Khi Đấng Cứu Giúp đến, thì Ngài chính là Đấng từ Đức Chúa Trời đến và Ngài sẽ an ủi anh em. Ngài là Thần Linh tỏ bày chân lý về Đức Chúa Trời và về Thầy. Ngài sẽ nói cho mọi người biết Thầy là ai, và tỏ cho họ thấy mọi điều Thầy đã làm.
\v 27 Anh em cũng phải nói cho mọi người những gì anh em biết về Thầy vì anh em đã ở với Thầy mọi lúc kể từ những ngày Thầy bắt đầu giảng dạy dân chúng và thực hiện các phép lạ.”
\s5
\c 16
\p
\v 1 Thầy cho anh em biết những điều này để anh em khỏi vấp ngã hay mất lòng tin nơi Thầy khi đối diện với những khó khăn.
\v 2 Tháng ngày gian nan đang chờ đợi anh em. Kẻ thù của anh em sẽ ngăn cản anh em thờ phượng nơi nhà hội. Tuy nhiên, tình hình thậm chí còn tệ hại hơn nữa. Sẽ đến lúc người ta giết hại anh em và tưởng rằng mình khiến Đức Chúa Trời hài lòng.
\s5
\v 3 Họ làm vậy vì họ không biết Cha, cũng không biết Thầy.
\v 4 Thầy đã nói cho anh em như vậy để khi các khó khăn kia xảy ra thì anh em sẽ nhớ lại rằng Thầy đã báo trước cho anh em rồi.
\s5
\v 5 “Giờ đây Thầy sắp trở về với Cha, là Đấng sai phái Thầy. Thế nhưng chẳng ai trong anh em dám hỏi: Thầy đi đâu?
\v 6 Vì Thầy đã nói những điều này cho anh em, nên bây giờ lòng anh em sầu não.
\v 7 Thầy nói thật với anh em, Thầy đi là ích lợi cho anh em. Nếu Thầy không đi, Đấng Cứu Giúp an ủi anh em sẽ không đến. Còn nếu Thầy đi, thì Thầy sẽ phái Ngài đến với anh em.
\s5
\v 8 Khi Đấng Cứu Giúp đến, Ngài sẽ thuyết phục người ta về tội lỗi mà họ đã phạm; Ngài sẽ cho họ thấy rằng họ không khả năng đạt đến chuẩn mực thiện lành của Đức Chúa Trời; và Ngài đoan chắc với họ rằng Đức Chúa trời sẽ đoán xét họ vì đã làm những điều Đức Chúa Trời ngăn cấm.
\v 9 Họ phạm tội vì họ không đặt lòng tin nơi Thầy
\v 10 Việc họ không đạt đến chuẩn mực thiện lành của Đức Chúa Trời được xác chứng vì Thầy sẽ đi về với Cha Thầy và anh em không còn thấy Thầy nữa.
\v 11 Việc giải trình cuối cùng của họ sẽ diễn ra khi Đức Chúa Trời thi hành hình phạt đối với tội lỗi của họ. Điều này được bày tỏ qua hình phạt mà Sa-tan, là vua của thế gian này sẽ chịu vì đã chống nghịch lại Đức Chúa Trời.
\s5
\v 12 Thầy còn nhiều việc nữa muốn nói để anh em biết. Nhưng nếu Thầy nói ra bây giờ thì anh em sẽ không thể chịu nổi khi biết những điều này.
\v 13 Khi Thần Linh Chân lý đến, Ngài sẽ dẫn anh em vào mọi chân lý mà anh em cần biết. Ngài sẽ không nói bằng thẩm quyền riêng, nhưng những gì Ngài nghe thì Ngài nói cho anh em biết, và Ngài sẽ báo trước những việc sẽ xảy ra.
\v 14 Thánh Linh sẽ tôn vinh Thầy bằng cách nói cho anh em biết Thầy là ai và tỏ cho anh em thấy những việc Thầy đã làm. Ngài sẽ giải thích cho anh em mọi điều Ngài đã nghe nơi Thầy.
\s5
\v 15 Mọi điều gì của Cha Thầy đều thuộc về Thầy. Đó là lý do Thầy nói rằng Thánh linh sẽ lấy mọi điều Ngài nhận nơi Thầy và giải thích cho anh em rõ.
\v 16 Ít lâu nữa, anh em sẽ không thấy Thầy. Rồi ít lâu sau đó, anh em sẽ gặp lại Thầy.”
\s5
\v 17 Vậy là một số môn đồ Chúa hỏi nhau: “Ý Chúa Giê-xu là gì khi nói với chúng ta: Ít lâu nữa anh em sẽ không thấy Thầy, rồi ít lâu sau đó, anh em sẽ gặp lại Thầy? Và ý Ngài là gì khi nói: vì Thầy sẽ đi về với Cha? ”
\v 18 Họ cứ thắc mắc: “Ý Ngài là gì khi nói ít lâu nữa? Chúng ta chẳng hiểu Ngài muốn nói gì cả."
\s5
\v 19 Chúa Giê-xu thấy họ muốn hỏi Ngài thêm. Vì thế, Ngài nói với các môn đồ: “Sao anh em lại thắc mắc với nhau về điều Thầy muốn nói? Thầy nói rằng chẳng bao lâu nữa anh em sẽ không thấy Thầy; và rồi ít lâu sau đó, anh em lại sẽ thấy Thầy.
\v 20 Thầy nói thật với anh em: anh em sẽ khóc lóc, sầu thảm, còn những người thuộc về thế giới này sẽ vui mừng. Anh em sẽ trải qua cơn sầu thảm cao độ, nhưng rồi sự sầu thảm đó sẽ biến thành nỗi vui mừng.
\v 21 Điều này giống như người phụ nữ chịu đau đớn trong lúc sanh nở. Sau khi sinh con rồi thì chị quên hết cơn đau đó nhờ niềm vui chị có được vì con mình đã sinh ra trong thế giới này.
\s5
\v 22 Cũng như người phụ nữ ấy, hiện anh em đang buồn rầu, nhưng Thầy sẽ gặp lại anh em và Đức Chúa Trời sẽ ban cho anh em niềm vui lớn, niềm vui không ai đoạt lấy được.
\v 23 Trong ngày đó, anh em sẽ chẳng còn thắc mắc nào muốn Thầy giải đáp. Thầy nói thật với anh em: bất cứ điều gì anh em xin Cha thì Ngài sẽ ban cho anh em, khi anh em xin trong mối liên kết với Thầy.
\v 24 Cho đến lúc này, anh em vẫn chưa cầu xin bất cứ điều nào như thế. Hãy xin đi, rồi anh em sẽ nhận được, và Đức Chúa Trời sẽ ban cho anh em niềm vui tràn đầy.
\s5
\v 25 Lâu nay Thầy nói các điều này bằng lối nói sử dụng ẩn dụ, khó hiểu, nhưng sẽ sớm đến lúc Thầy không còn sử dụng lối nói đó nữa. Thay vì vậy, Thầy sẽ tỏ cho anh em biết mọi điều về Cha bằng lối nói mà anh em có thể hiểu rõ ràng.
\s5
\v 26 Lúc đó, anh em sẽ nhân danh Thầy trình dâng lên Đức Chúa Trời những lời cầu xin, theo như mục đích của Đức Chúa Trời. Thầy sẽ không phải xin Cha đáp ứng nhu cầu của anh em,
\v 27 bởi chính Cha yêu mến anh em vì anh em đã yêu mến Thầy và đặt lòng tin nơi Thầy, cũng như vì anh em biết rằng Thầy từ Đức Chúa Trời đến.
\v 28 Thầy từ Cha đến, và Thầy đã vào thế giới này. Giờ thì Thầy sẽ rời bỏ thế giới này và Thầy sẽ trở về với Cha.”
\s5
\v 29 Các môn đồ Ngài nói: “Cuối cùng thì Thầy cũng đã nói một cách rõ ràng mà không sử dụng lối nói bóng.
\v 30 Giờ đây chúng tôi hiểu rằng Thầy biết mọi sự. Không cần phải nêu thắc mắc gì với Thầy. Đây là lý do chúng tôi trao thác lòng tin cậy cho Thầy, và chúng tôi biết chắc rằng Thầy đến từ Đức Chúa Trời. ”
\v 31 Chúa Giê-xu đáp lại họ: “Anh em cuối cùng cũng đặt lòng tin nơi Thầy sao?
\s5
\v 32 Này nhé, sắp đến lúc người ta sẽ khiến anh em chạy tứ tán! Mỗi người sẽ trở về nhà mình và anh em sẽ lìa bỏ Thầy.
\v 33 Thầy đã nói cho anh em những điều này để anh em có sự bình an nơi Thầy. Trong thế giới này, anh em phải trải qua thử thách và sầu não, nhưng hãy can đảm lên! Thầy đã thắng thế giới này rồi!”
\s5
\c 17
\p
\v 1 Sau khi Chúa Giê-xu nói những lời này thì Ngài ngước mắt lên trời, thưa: “Cha ơi, đây là lúc để Cha công bố với mọi người và cho họ biết Con, tức Con của Cha, là ai, và tỏ cho họ thấy mọi việc Con đã làm. Xin hãy làm như vậy, để Con, tức Con của Cha, sẽ bày tỏ cho mọi người biết Cha thật sự là ai là Vua vĩ đại, toàn quyền làm mọi việc.
\v 2 Xin hãy làm điều này y như Cha đã cho phép Con, Con của Cha, cai trị trên tất cả mọi người. Cha ơi, Cha đã thực hiện điều này để Con có thể khiến sống mọi kẻ Cha đã ban cho Con được sống đời đời.
\s5
\v 3 Sự sống đời đời là nhìn biết Cha, Chân Thần duy nhất, và nhìn biết Con, tức Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng Cha đã sai phái vào thế giới này.
\v 4 Con đã đưa đủ hạng người đến với Cha để tỏ cho họ biết mọi điều về Cha. Con thực hiện điều này bằng cách hoàn tất công việc Cha đã giao cho Con.
\v 5 Cha ơi, xin hãy làm rạng danh Con bằng cách đem Con vào trong sự hiện diện của chính Ngài, như chúng ta từng như vậy trước lúc dựng nên thế gian.
\s5
\v 6 Những kẻ mà Cha đã chọn từ giữa vòng mọi người trong thế giới này để thuộc về Con, thì Con đã dạy cho họ biết Cha thật sự là ai và là Đấng như thế nào. Họ thuộc về Cha và Cha đã ban họ cho Con. Họ đã tin lời Cha nói cho họ, và họ đã vâng theo lời đó.
\v 7 Giờ đây họ biết rằng mọi điều Cha đã ban cho Con đều từ Cha mà đến.
\v 8 Con đã truyền cho họ sứ điệp mà Cha đã ban cho Con. Họ đã tiếp nhận, và họ biết chắc rằng Con đến từ Cha, và họ tin rằng Cha đã sai Con đến.
\s5
\v 9 Con cầu nguyện cho họ. Con không cầu nguyện cho những người thuộc về thế giới này, tức là những người tiếp tục chống đối Cha. Con cầu nguyện cho những người Cha đã giao cho Con bởi vì họ thuộc về Cha.
\v 10 Tất cả những gì Con có là của Cha, và tất cả những gì Cha có là của Con. Họ biết Con là ai, và họ chân thành nói sự thật về Con.
\v 11 Con không còn ở trần gian này nữa; còn họ thì vẫn cứ ở trong trần gian. Con sắp trở về cùng Cha. Lạy Cha Thánh, xin bảo toàn họ, và giữ cho họ cứ thuộc về Cha bằng quyền năng mà Cha đã ban cho Con, để họ được hiệp một với nhau, y như chúng ta vậy.
\s5
\v 12 Khi Con ở với họ, Con đã bảo toàn họ và gìn giữ họ bằng quyền năng của Cha không để mất người nào trong số họ, ngoại trừ đứa mà Cha đã định phải hư mất, như Kinh Thánh đã báo trước từ lâu.
\v 13 Thưa Cha, giờ đây Con sắp về với Cha. Con nói những điều này trong khi Con còn ở trần gian để Con có thể ban cho họ sự vui mừng trọn vẹn của Con.
\v 14 Con đã nói cho họ biết sứ điệp của Cha dành cho họ, và những kẻ thuộc về thế giới này ghét con dân của Cha bởi vì họ không thuộc về trần gian.
\s5
\v 15 Con không cầu Cha đem họ ra khỏi thế giới này, mà là xin Cha bảo vệ họ khỏi bị ma quỷ hãm hại.
\v 16 Họ không thuộc về thế giới này, cũng như Con vậy.
\v 17 Xin biệt riêng họ cho Cha bằng cách dạy dỗ họ chân lý về Cha. Xin dạy họ những gì họ cần biết để Cha có thể biệt riêng họ ra, vì sứ điệp của Cha hoàn toàn chân xác.
\s5
\v 18 Cha đã sai Con vào thế giới như thế nào, thì Con cũng sai họ như vậy.
\v 19 Con đã hoàn toàn trao thác mình cho Cha vì cớ họ, để họ cũng có thể thực sự trao thác mình cho Cha.
\s5
\v 20 “Con không chỉ cầu xin cho những người này, mà cũng cầu xin cho những người sẽ tin Con nhờ nghe sứ điệp của họ.
\v 21 Còn cầu xin cho tất cả đều được hiệp một, như Cha và Con hiệp một vậy. Thưa Cha, Cha đã hiệp một với Con, và Con đã hiệp một với Cha nguyện họ cũng được hiệp một với chúng ta. Xin hãy làm điều này để thế nhân biết rằng Cha đã sai Con.
\s5
\v 22 Con đã tỏ cho họ biết Con là ai, và họ đã nhìn thấy điều Con đã làm. Con đã dạy họ điều này để họ được hiệp một với nhau, như Cha và Con hiệp một vậy.
\v 23 Con hiệp một với họ và Cha hiệp một với Con. Con đã làm điều này để họ được hiệp một với nhau trọn vẹn và để những người không tin biết Cha đã sai Con đến và Cha yêu thương họ giống như yêu thương Con vậy.
\s5
\v 24 “Cha ơi, Con muốn những người mà Cha đã ban cho Con này cứ luôn ở cùng chỗ với Con để họ thấy được vinh quang và uy quyền mà Cha sẽ ban cho Con khi Con ở cùng Cha. Cha làm vậy vì Cha yêu Con từ trước khi chúng ta tạo dựng nên thế giới này.
\s5
\v 25 Thưa Cha công chính thế nhân không biết Cha, nhưng Con biết Cha; và những người ở với Con biết rằng Cha đã sai Con đến với họ.
\v 26 Con đã cho họ biết Cha là ai. Con sẽ tiếp tục làm như vậy để Cha cũng yêu thương họ giống như Cha yêu thương Con, và để Con được hiệp một với họ.”
\s5
\c 18
\p
\v 1 Khi Chúa Giê-xu cầu nguyện xong, Ngài cùng các môn đi băng qua thung lũng Kít-rôn. Phía bên kia thung lũng có một rừng cây ô-liu, và họ đã vào đó.
\v 2 Giu-đa, kẻ sắp giao nộp Chúa Giê-xu cho kẻ thù của Ngài, biết rõ nơi ấy vì Chúa Giê-xu thường đến đó với các môn đồ.
\v 3 Bấy giờ, các thầy trưởng tế và người Pha-ri-si đã ra lệnh cho một số binh lính và cảnh binh đến đó cùng với Giu-đa. Vậy, họ mang theo đèn, đuốc và vũ khí đến khu vườn.
\s5
\v 4 Chúa Giê-xu biết điều gì sắp xảy đến với Ngài, nên Ngài bước tới hỏi họ: “Các ông tìm ai? ”
\v 5 Họ trả lời Ngài: “Tìm Giê-xu người Na-xa-rét. ” Chúa Giê-xu đáp lại: “Chính Tôi đây. ” (Giu-đa, kẻ phản nộp Ngài, đang đứng chung với họ.)
\s5
\v 6 Khi Chúa Giê-xu nói với họ: “Chính Tôi đây, ” thì ngay lập tức họ lùi lại và té xuống đất.
\v 7 Vậy nên Ngài hỏi lại: “Các ông đang tìm ai? ” Họ trả lời: “Giê-xu người Na-xa-rét.”
\s5
\v 8 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi đã nói cho các ông rằng chính là Tôi đây. Vì Tôi là người mà các ông tìm, cho nên hãy để cho những người kia đi. ”
\v 9 Điều này xảy ra để ứng nghiệm lời Ngài đã nói khi cầu nguyện với Cha Ngài, rằng: “Con không để mất dầu chỉ là một người trong số những kẻ mà Cha đã giao cho Con.”
\s5
\v 10 Khi ấy, Si-môn Phi-e-rơ rút ra một thanh gươm nhỏ và chém đầy tớ của Thầy thượng tế, tên là Man-chu, khiến đứt lìa tai phải của anh ta.
\v 11 Chúa Giê-xu nói với Phi-e-rơ: “Hãy nạp gươm vào vỏ! Thầy sẽ cam chịu theo cách mà Cha Thầy đã định cho Thầy.”
\s5
\v 12 Rồi, toán lính, cùng với viên chỉ huy và một số kẻ gác đền, bắt Ngài trói lại để ngăn Ngài trốn thoát.
\v 13 Họ đưa Ngài đến An-ne, ông gia của Cai-phe, thầy thượng tế đương nhiệm năm đó.
\v 14 Chính Cai-phe là người đã khuyên những người lãnh đạo rằng thà để một người chết thay cho dân chúng còn hơn là mọi người phải vong mạng.
\s5
\v 15 Si-môn Phi-e-rơ đi theo Chúa Giê-xu, và một môn đồ khác cũng vậy. Môn đồ đó quen biết với thầy thượng tế, nên đã được phép vào trong sân dinh của thầy thượng tế khi quân lính giải Chúa Giê-xu đến.
\v 16 Còn Phi-e-rơ phải ở lại bên ngoài cổng. Do đó, môn đồ kia lại đi ra ngoài cổng nói với cô đầy tớ gác cổng, và cô ta cho Phi-e-rơ vào.
\s5
\v 17 Cô đầy tớ này nói với Phi-e-rơ: “Ông cũng là môn đồ của gã bị bắt đó chứ gì? ” Ông đáp: “Đâu có đâu. ”
\v 18 Lúc ấy trời lạnh, nên những đầy tớ của thầy thượng tế và mấy người lính gác đền thờ đã nhóm một đống lửa than rồi đứng sưởi ấm xung quanh đó. Phi-e-rơ cũng ở cùng với họ. Ông đứng đó để sưởi ấm.
\s5
\v 19 Thầy thượng tế hỏi Chúa Giê-xu về các môn đồ của Ngài và những điều Ngài đã dạy dỗ họ.
\v 20 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi đã giảng dạy công khai trước mọi người. Tôi vẫn luôn dạy dỗ trong nhà hội và đền thờ, ở những nơi dân chúng nhóm lại. Tôi chẳng phát biểu điều gì lén lút.
\v 21 Vậy sao các ông đặt các câu hỏi này với Tôi? Hãy hỏi những người đã nghe lời tôi dạy. Họ biết Tôi đã nói gì.”
\s5
\v 22 Khi Chúa Giê-xu nói mấy lời này, một người trong số những lính canh đền thờ đang đứng gần Ngài đã dùng tay đánh Ngài thật mạnh. Anh ta bảo: “Không được phép trả lời thầy thượng tế như vậy. ”
\v 23 Chúa Giê-xu đáp lại: “Nếu Tôi có nói điều chi sai, thì cứ chỉ ra đi. Còn nếu lời Tôi nói là đúng thì anh không được vả mặt Tôi như vậy! ”
\v 24 Rồi An-ne sai giao Chúa Giê-xu vẫn còn bị trói cho thầy thượng tế Cai-phe.
\s5
\v 25 Si-môn Phi-e-rơ vẫn đang đứng sưởi ấm. Một người khác nói với ông: “Anh thuộc trong số các môn đồ của gã bị bắt đó phải không? ” Ông đáp: “Không phải. ”
\v 26 Một trong các tôi tớ của thầy thượng tế vốn là họ hàng với người đã bị Phi-e-rơ chém đứt tai, nói với ông: “Chẳng phải tôi đã thấy ông ở khu rừng ô-liu cùng với gã bị bắt kia sao?
\v 27 Phi-e-rơ lại chối và tức thì gà gáy.
\s5
\v 28 Rồi quân lính dẫn Chúa Giê-xu từ nhà Cai-phe đến trụ sở của Phi-lát, quan thống đốc La-mã. Lúc đó là sáng sớm. Phi-lát không phải là người Do thái, nên những người cáo tội Chúa Giê-xu cho rằng nếu họ vào trụ sở, thì họ sẽ bị ô uế và không được dự Lễ Vượt Qua. Do đó, họ đã không vào bên trong.
\v 29 Vậy là Phi-lát đi ra ngoài để nói chuyện với họ. Ông ta hỏi: “Các người cáo buộc anh này tội gì? ”
\v 30 Họ đáp: “Nếu hắn không phải là tội phạm, thì chúng tôi chẳng giải đến chỗ ngài làm gì!”
\s5
\v 31 Phi-lát nói với họ: “Chính các người hãy đem anh ta đi mà xử theo luật của các người. ” Mấy lãnh đạo Do Thái đáp: “Chúng tôi muốn xử tử hắn, nhưng luật pháp La-mã cấm chúng tôi thực hiện điều đó. ”
\v 32 Họ nói vậy để làm ứng nghiệm lời Chúa Giê-xu đã nói về cách mà Ngài sẽ chết.
\s5
\v 33 Vậy là Phi-lát trở vào bên trong trụ sở của mình. Ông ta cho gọi Chúa Giê-xu đến và hỏi Ngài: “Anh có phải là vua của dân Do Thái không? ”
\v 34 Chúa Giê-xu đáp: “Ông hỏi như thế vì chính ông muốn biết hay vì mấy người kia bảo ông hỏi? ”
\v 35 Phi-lát đáp: “Ta không phải là người Do Thái! Những trưởng tế và đồng bào của anh đã giao anh cho ta. Anh đã làm gì sai?”
\s5
\v 36 Chúa Giê-xu đáp “Vương quốc của Tôi không thuộc về thế giới này. Nếu vương quốc của Tôi thuộc về thế giới này, thì các tôi tớ của Tôi sẽ chiến đấu để Tôi khỏi bị nộp vào tay của những người Do Thái chống đối, nhưng vương quốc của Tôi không thuộc thế giới này. ”
\v 37 Rồi Phi-lát hỏi Ngài: “Vậy anh là vua à? ” Chúa Giê-xu đáp: “Phải. Lý do Tôi được sanh ra và vào thế giới này là để nói cho mọi người biết chân lý về Đức Chúa Trời. Ai yêu chân lý thì người đó nghe theo Tôi.”
\s5
\v 38 Phi-lát hỏi Ngài: “Chân lý là cái gì? ” Sau khi Phi-lát hỏi câu đó, ông ta lại đi ra trao đổi với những lãnh đạo người Do Thái một lần nữa. Ông ta nói: “Ta không thấy người này vi phạm luật nào cả.
\v 39 Dầu vậy, dân Do Thái các người có tục lệ hằng năm, vào dịp Lễ Vượt Qua, các người xin ta phóng thích một tù nhân. Vậy, các người có muốn ta phóng thích cho mình Vua của dân Do Thái không?
\v 40 Họ lại la lớn: “Không, xin đừng thả gã này, mà hãy thả Ba-ra-ba! ” Được biết, Ba-na-ba là một nhà cách mạng.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Rồi Phi-lát lệnh đem Chúa Giê-xu đến. Ông ta cho lính dùng roi da đánh đòn Ngài.
\v 2 Quân lính bện một cái mão rồi đội trên đầu Ngài. Chúng cũng cho Ngài mặc một áo dài màu đỏ tía.
\v 3 Chúng chế giễu Ngài, rằng: “Kính chào, Vua dân Do thái! ” rồi cứ liên tục đánh Ngài.
\s5
\v 4 Phi-lát đi ra ngoài một lần nữa và nói với dân chúng: “Đây nầy, ta đem anh ta ra cho các người để các người biết rằng ta không tìm thấy lý do nào xử phạt anh ta cả. ”
\v 5 Vậy, Chúa Giê-xu bước ra, đầu đội mão gai và trên người mặc áo choàng màu đỏ tía. Phi-lát nói với bọn họ: “Nầy, anh ta đây! ”
\v 6 Khi các trưởng tế và quân canh giữ đền thờ thấy Ngài, thì la lên rằng: “Hãy đóng đinh hắn đi! Hãy đóng đinh hắn đi! Phi-lát nói với họ: “Tự các ngươi hãy bắt và đóng đinh anh ta! Với ta, ta chẳng thấy có cớ gì để hình phạt anh ta cả.”
\s5
\v 7 Những người lãnh đạo Do thái đáp lại Phi-lát: “Chúng tôi có một điều luật quy định hắn phải chết vì hắn tự xưng mình là Con Đức Chúa Trời. ”
\v 8 Khi Phi-lát nghe điều này, thì ông ta thậm chí còn sợ hãi hơn.
\v 9 Ông trở vào trụ sở của mình một lần nữa và bảo quân lính đem Chúa Giê-xu vào bên trong. Rồi ông ta hỏi Chúa Giê-xu: “Anh là người ở đâu? Nhưng Chúa Giê-xu không trả lời ông ta.
\s5
\v 10 Vì vậy, ông ta nói với Ngài: “Anh không muốn trả lời tôi sao? Anh không biết là tôi có quyền phóng thích, và cũng có quyền đóng đinh anh sao? ”
\v 11 Chúa Giê-xu đáp lại ông ta: “Ông sẽ không có quyền gì trên tôi, nếu Đức Chúa Trời không ban quyền đó cho ông. Vậy nên người đã nộp tôi cho ông còn mắc tội nặng hơn.”
\s5
\v 12 Từ lúc đó trở đi, Phi-lát cứ tìm cách phóng thích Chúa Giê-xu. Tuy nhiên, những lãnh đạo Do Thái la lớn: “Nếu ông thả người này, thì ông không phải là bạn của Sê-sa! Bất cứ ai tự xưng mình là vua đều chống nghịch lại Sê-sa. ”
\v 13 Khi Phi-lát nghe như vậy, ông ta đem Chúa Giê-xu ra. Rồi Phi-lát ngồi vào ghế quan tòa trước mặt Ngài, là nơi ông ta thường tuyên án. Chỗ này được gọi là “Nền Đá, ” còn trong tiếng A-ram thì gọi là “Ga-ba-tha.”
\s5
\v 14 Khi đó là ngày trước Lễ Vượt Qua, tức ngày chuẩn bị. Gần đến giữa trưa thì Phi-lát nói với người Do Thái: “Này, vua của các người đây! ”
\v 15 Họ la lên: “Đem hắn đi! Đem hắn đi! Đóng đinh hắn trên thập tự giá! ” Phi-lát hỏi họ: “Ta phải đóng đinh Vua của các người sao? ” Các trưởng tế đáp: “Chúng tôi không có vua nào ngoài Sê-sa! ”
\v 16 Vậy, Phi-lát giao Chúa Giê-xu cho họ và họ mang Ngài đi.
\s5
\v 17 Ngài đi ra, một mình vác thập tự giá đến nơi gọi là “Đồi Sọ”, tiếng A-ram gọi là “Gô-gô-tha. ”
\v 18 Tại đó, họ đóng đinh Chúa Giê-xu, và cùng lúc họ cũng đóng đinh hai tên tội phạm trên hai cây thập tự khác. Mỗi bên một tên, còn Chúa Giê-xu ở giữa.
\s5
\v 19 Phi-lát cũng cho người viết trên một tấm bảng, rồi treo trên thập tự giá của Chúa Giê-xu. Bảng đó ghi: “Giê-xu người Na-xa-rét, Vua dân Do Thái!
\v 20 Nhiều người Do Thái đọc thấy bảng này, vì nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh gần với thành phố, và bảng được viết bằng ba ngôn ngữ: A-ram, La-tinh và Hy Lạp.
\s5
\v 21 Các trưởng tế trở lại chỗ Phi-lát, thưa: “Đáng ra ngài không nên viết là Vua dân Do Thái, mà phải viết: người này nói: Ta là Vua dân Do Thái. ’”
\v 22 Phi- lát đáp “Các người phải để nguyên tấm bảng đó y như ta đã viết vậy.”
\s5
\v 23 Sau khi bọn lính đã đóng đinh Chúa Giê-xu trên thập tự giá, họ lấy áo của Ngài chia làm tư, mỗi tên một phần. Nhưng để áo dài của Ngài riêng ra. Áo này được làm từ một tấm vải nguyên từ trên xuống dưới.
\v 24 “Vì vậy, họ bàn với nhau: “Chúng ta đừng xé áo ra, mà hãy rút thăm để quyết định xem ai sẽ được. ” Việc này xảy ra để làm ứng nghiệm lời Kinh Thánh, rằng: “Họ chia nhau đồ tôi mặc. Bắt thăm lấy trang phục của tôi.”
\s5
\v 25 Bọn lính đã làm những việc đó. Mẹ Chúa Giê-xu, chị của bà là Ma-ri, vợ Cơ-lê-ô-pa, và Ma-ri Ma-đơ-len, đều đang đứng gần thập tự giá.
\v 26 Khi Chúa Giê-xu thấy mẹ mình đứng ở đó và Giăng, môn đồ được Ngài đặc biệt yêu thương, đứng cạnh, thì Ngài nói với mẹ: “Này mẹ, đây là người sẽ thay con chăm sóc mẹ. ”
\v 27 Rồi Ngài nói với môn đồ đó: “Đây là mẹ anh! ” Vậy là từ lúc đó, môn đồ ấy đem bà về sống trong nhà của mình.
\s5
\v 28 Một lát sau, Chúa Giê-xu biết rằng mọi việc Đức Chúa Trời sai phái Ngài thực hiện giờ đây đã hoàn tất, và để làm ứng nghiệm điều cuối cùng mà Kinh Thánh đã báo trước, Ngài nói: “Tôi khát nước! ”
\v 29 Có một bình giấm ở đó, nên họ lấy một nhành cây bài hương, gắn một miếng bọt biển lên đó, rồi nhúng nó vào giấm và đưa lên miệng Chúa Giê-xu.
\v 30 Sau khi Chúa Giê-xu đã uống giấm xong, Ngài nói: “Xong rồi! ” và Ngài gục đầu trút hơi.
\s5
\v 31 Hôm ấy là ngày chuẩn bị cho Lễ Vượt Qua và tiếp sau đó là ngày Sa-bát. Luật pháp không cho phép treo xác chết trên thập tự giá vào ngày Sa-bát, nên họ đến gặp Phi-lát và xin phép đánh gãy chân của ba người đang bị treo cho mau chết, rồi đem xác họ xuống.
\v 32 Vậy, mấy tên lính đến đánh gãy chân người thứ nhất, rồi người thứ hai, tức hai kẻ cùng bị đóng đinh với Chúa Giê-xu.
\v 33 Khi họ đến chỗ Chúa Giê-xu thì thấy Ngài đã chết. Vì vậy, họ không đánh gãy chân của Ngài.
\s5
\v 34 Nhưng một tên lính dùng giáo đâm vào sườn Chúa Giê-xu, lập tức máu và nước trong người Ngài chảy ra.
\v 35 Người xem thấy việc này đã làm chứng lời chứng của anh ta là xác thực và anh ta biết mình nói thật để anh em đặt lòng tin nơi Chúa Giê-xu.
\s5
\v 36 Những việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, rằng: “Sẽ chẳng ai làm gãy chiếc xương nào của Ngài. ”
\v 37 Và cũng làm ứng nghiệm một lời Kinh Thánh khác nữa, đó là: “Họ sẽ nhìn thấy người họ đã đâm.”
\s5
\v 38 Sau những việc này, Giô-sép người A-ri-ma-thê, một môn đồ của Chúa Giê-xu, nhưng đã theo Chúa một cách thầm lặng vì người Do Thái, đã đến gặp Phi-lát xin được nhận thi thể của Chúa Giê-xu. Được Phi-lát cho phép, Giô-sép đến lấy xác Chúa.
\v 39 Ni-cô-đem, người trước đây đã đến gặp Chúa Giê-xu vào ban đêm, cũng đến, mang theo một hỗn hợp chất ướp gồm một dược và lô hội để tẩm liệm xác Chúa Giê-xu. Hỗn hợp đó nặng khoảng 34 bốn ki-lô-gam.
\s5
\v 40 Họ lấy xác Chúa Giê-xu quấn trong những dải vải lanh, rồi họ dùng toàn bộ hương liệu đó để tẩm liệm xác.
\v 41 Tại nơi Chúa Giê-xu bị đóng đinh có một khu vườn, và ở bờ rìa khu vườn có một ngôi mộ mới chưa chôn cất ai.
\v 42 Lễ Vượt Qua bắt đầu vào tối hôm đó, nên họ đã chọn ngôi mộ này vì ngôi mộ sẵn gần bên và họ có thể nhanh chóng chôn cất Chúa Giê-xu. Vậy là họ đặt Chúa Giê-xu vào đó.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri Ma-đơ-len đi ra mộ rất sớm, lúc trời vẫn còn tối. Cô thấy ai đó đã dời hòn đá khỏi cửa mộ.
\v 2 Vậy là cô chạy vào thành Giê-ru-sa-lem, nơi Si-môn Phi-e-rơ và môn đồ kia tức người Chúa Giê-xu yêu thương đang ở, và báo cho họ: “Người ta đã mang Chúa ra khỏi mộ, không biết họ đặt Ngài ở đâu!”
\s5
\v 3 Khi nghe như vậy, Phi-e-rơ và môn đồ kia vội vàng chạy ra mộ.
\v 4 Cả hai người cùng chạy, nhưng môn đồ kia nhanh hơn Phi-e-rơ nên đến mộ trước.
\v 5 Khom người xuống nhìn vào trong mộ; anh thấy mấy miếng vải lanh đang nằm ở đó, nhưng ngại chưa bước vào bên trong.
\s5
\v 6 Kế đó, Si-môn Phi-e-rơ là người chạy sau, cũng đến, nhưng ông đi ngay vào bên trong mộ. Ông thấy mấy mảnh vải lanh nằm đó,
\v 7 và cả khăn đội đầu Chúa Giê-xu đã được gấp lại đặt một bên, tách biệt với những mảnh vải lanh.
\s5
\v 8 Sau đó, môn đồ kia cũng bước vào bên trong; anh nhìn thấy cảnh ấy và bắt đầu tin rằng Chúa Giê-xu đã từ cõi chết sống lại.
\v 9 Họ vẫn chưa hiểu những chỗ Kinh Thánh cho biết Chúa Giê-xu phải từ cõi chết sống lại.
\v 10 Vậy, hai môn đồ quay trở về nhà.
\s5
\v 11 Còn Ma-ri thì cứ đứng bên ngoài cửa mộ mà khóc. Vừa khóc, cô vừa cúi xuống nhìn vào bên trong.
\v 12 Cô thấy hai thiên sứ mặc áo trắng ngồi ngay chỗ để xác Chúa Giê-xu, một người ngồi đằng đầu, còn người kia ngồi đằng chân.
\v 13 Các thiên sứ hỏi cô: “Cô kia, sao cô khóc? ” Cô đáp lại họ: “Người ta đã mang Chúa của tôi đi, và chẳng biết họ để Ngài ở đâu!”
\s5
\v 14 Sau khi nói như vậy, cô quay lại thấy Chúa Giê-xu đứng đó, nhưng không biết đó là Ngài.
\v 15 Ngài hỏi cô: “Này, cô kia, sao cô khóc? Cô tìm ai? ” Vì tưởng người đang nói với mình là anh làm vườn, nên cô nói với Ngài: “Ông ơi, nếu ông đem xác Ngài đi, xin nói cho tôi biết ông để Ngài ở đâu, đặng tôi đến lấy.”
\s5
\v 16 Chúa Giê-xu gọi cô: “Ma-ri. ” Cô quay lại và kêu lên bằng tiếng A-ram: “Ra-bu-ni” (nghĩa là “Thầy”)
\v 17 Chúa Giê-xu nói với cô: “Đừng chạm vào Thầy, vì Thầy chưa lên trời cùng Cha Thầy. Hãy đi gặp các môn đồ của Thầy và bảo họ: Thầy sắp trở về trời với Cha Thầy, cũng là Cha anh em, với Đức Chúa Trời của Thầy, cũng là Đức Chúa Trời của anh em. ’”
\v 18 Ma-ri Ma-đơ-len đi gặp các môn đồ và tuyên bố: “Tôi đã thấy Chúa” rồi cô thuật lại cho họ lời Chúa Giê-xu đã nói với mình.
\s5
\v 19 Vào buổi chiều tối ngày hôm đó, là ngày đầu tiên trong tuần, các cửa cái đều khóa chặt, còn các môn đồ thì ở trong nhà vì sợ giới thẩm quyền Do thái bắt giữ. Thình lình, Chúa Giê-xu đến và đứng ngay giữa họ; Ngài nói với họ: “Nguyện Đức Chúa Trời ban cho anh em bình an. ”
\v 20 Sau khi Ngài nói như vậy, Ngài cho họ xem bàn tay và hông của Ngài. Các môn đồ hết sức vui mừng khi nhìn thấy Chúa!
\s5
\v 21 Chúa Giê-xu lại nói với họ nữa: “Nguyện Đức Chúa Trời ban cho anh em bình an. Như Cha đã sai phái Thầy thể nào, thì giờ đây Thầy cũng sai phái anh em như vậy. ”
\v 22 Sau khi Ngài nói lời đó, Ngài hà hơi trên họ và tiếp: “Hãy nhận lãnh Đức Thánh Linh.
\v 23 Nếu anh em tha tội cho ai, thì Đức Chúa Trời sẽ tha tội cho người đó. Nếu anh em không tha tội cho ai, thì tội của họ sẽ bị cầm lại để kết án họ."
\s5
\v 24 Bấy giờ, Thô-ma, một trong mười hai môn đệ, người được gọi là “Sinh Đôi, ” không có mặt ở đó với các môn đồ khi Chúa Giê-xu đến với họ.
\v 25 Những môn đồ khác thuật lại với ông: “Chúng tôi đã thấy Chúa. ” Tuy nhiên, ông đáp lại họ: “Nếu tôi không nhìn thấy dấu đinh trên tay Ngài và đặt các ngón tay mình vào đó, và nếu tôi không đặt bàn tay mình vào vết đâm nơi hông Ngài, thì tôi không bao giờ tin.”
\s5
\v 26 Tám ngày sau đó, các môn đồ của Ngài một lần nữa ở trong nhà, lần này có Thô-ma ở với họ. Mặc dù các cửa cái đều bị khóa, nhưng Chúa Giê-xu đã vào và đứng giữa họ. Ngài nói với họ: “Nguyện Đức Chúa Trời ban cho anh em bình an. ”
\v 27 Rồi Ngài nói với Thô-ma: “Hãy đặt ngón tay anh vào đây và xem hai bàn tay Thầy. Cũng hãy đặt tay anh vào hông Thầy đây! Đừng nghi ngờ đây không phải là Thầy, mà hãy tin Thầy.”
\s5
\v 28 Thô-ma trả lời Ngài: “Lạy Chúa tôi, và Đức Chúa Trời tôi! ”
\v 29 Chúa Giê-xu nói với ông: “Giờ thì anh tin Thầy đã sống lại vì anh thấy Thầy. Nhưng những người chưa thấy Thầy mà vẫn tin thì Đức Chúa Trời ban họ cho hạnh phước lớn.”
\s5
\v 30 Chúa Giê-xu làm nhiều việc quyền năng và phép lạ khác nữa để chứng minh Ngài là ai. Các môn đồ đều chứng kiến các việc ấy, nhưng chúng nhiều quá nên tôi không ghi lại hết trong sách này.
\v 31 Tuy nhiên, tôi đã ghi lại các việc này để anh em có thể hết lòng tin tưởng rằng Giê-xu chính là Chúa Cứu Thế, Con Đức Chúa Trời, và nhờ tin cậy Ngài mà anh em có được sự sống đời đời trong danh Ngài.
\s5
\c 21
\p
\v 1 Sau đó, Chúa Giê-xu hiện ra với các môn đồ tại hồ Ti-bê-ri-át (cũng được gọi là Biển Ga-li-lê). Ngài đã tỏ mình ra như thế này:
\v 2 Si-môn Phi-e-rơ, Thô-ma (được gọi là Sinh Đôi), Na-tha-na-ên, người Ca-na trong vùng Ga-li-lê, các con trai của Xê-bê-đê (tức Gia-cơ và Giăng) và hai môn đồ khác đang ngồi với nhau.
\v 3 Si-môn Phi-e-rơ nói với mấy người kia: “Tôi đi đánh cá đây. ” Họ đáp: “Chúng tôi sẽ đi với anh. ” Họ ra đi, lên thuyền, nhưng đêm đó họ chẳng bắt được gì.
\s5
\v 4 Lúc trời rạng sáng, Chúa Giê-xu đứng trên bờ nhưng các môn đồ không biết đó là Chúa Giê-xu.
\v 5 Chúa Giê-xu hỏi họ: “Các bạn ơi, có tôm cá gì không? ” Họ trả lời: “Không. ”
\v 6 Ngài bảo họ: “Hãy thả lưới bên phải thuyền, thì các anh sẽ thấy cá. ” Họ thả lưới như Ngài chỉ, và họ bắt được nhiều cá đến nỗi không thể kéo lưới lên thuyền.
\s5
\v 7 Giăng, môn đồ được Chúa Giê-xu yêu thương đặc biệt, nói với Phi-e-rơ: “Chúa đó! ” Khi Si-môn Phi-e-rơ nghe anh ta nói vậy, thì ông lấy áo phủ lên người (hầu như ông không mặc gì lúc làm việc) và nhảy xuống nước.
\v 8 Các môn đồ kia đưa thuyền vào bờ, kéo theo phía sau một mẻ lưới đầy cá. Lúc đó họ không ở xa, chỉ cách bờ khoảng chừng chín mươi mét.
\v 9 Khi họ vào đến bờ, họ thấy đã có sẵn một đống lửa than nóng hực, với cá đang được nấu trên đó, và có cả bánh nữa.
\s5
\v 10 Chúa Giê-xu bảo họ: “Hãy mang đến đây ít cá mà anh em vừa bắt! ”
\v 11 Si-môn Phi-e-rơ trở lại thuyền và kéo lưới lên bờ, đầy cá lớn. Có một trăm năm mươi ba con cá. Dù vậy, lưới vẫn không bị rách.
\s5
\v 12 Chúa Giê-xu bảo họ: “Đến đây ăn sáng! ” Không môn đồ nào dám hỏi Ngài”Ông là ai? ” Họ biết đó là Chúa.
\v 13 Chúa Giê-xu đến lấy bánh rồi đưa cho họ. Ngài cũng làm tương tự với cá.
\v 14 Đây là lần thứ ba Chúa Giê-xu hiện ra cùng các môn đồ sau khi Đức Chúa Trời khiến Ngài từ cõi chết sống lại.
\s5
\v 15 Ăn xong bữa sáng, Chúa Giê-xu hỏi Phi-e-rơ: “Nầy, Si-môn, con Giô-na, anh có yêu Thầy hơn những người này không? ” Phi-e-rơ trả lời Ngài: “Có, thưa Chúa, Ngài biết rằng tôi yêu Ngài. ” Chúa Giê-xu bảo: “Hãy chăm nuôi các chiên con của Thầy. ”
\v 16 Chúa Giê-xu hỏi ông lần thứ hai: “Nầy, Si-môn, con Giô-na, anh có yêu Thầy không? ” Ông đáp: “Có, thưa Chúa, Chúa biết rằng tôi yêu Ngài. ” Chúa Giê-xu nói với ông: “Hãy làm người chăn của chiên của Thầy.”
\s5
\v 17 Chúa Giê-xu lại hỏi ông lần thứ ba: “Nầy, Si-môn, con Giô-na, anh có yêu Thầy chăng? ” Phi-e-rơ rất buồn vì Chúa Giê-xu hỏi mình đến ba lần “Anh yêu Thầy chăng? ” Phi-e-rơ trả lời: “Lạy Chúa, Chúa biết hết mọi việc. Chúa biết rằng tôi yêu Ngài. ” Chúa Giê-xu đáp “Hãy chăm nuôi chiên của Thầy.
\v 18 Thầy nói thật để anh hay: Khi anh còn trẻ, anh tự mặc quần áo và muốn đi đâu cũng được. Nhưng khi đã già thì anh sẽ phải đưa tay ra để người khác mặc đồ cho mình, và họ sẽ dắt anh đến nơi anh không muốn.”
\s5
\v 19 Chúa Giê-xu nói vậy để chỉ rõ Phi-e-rơ sẽ chết như thế nào để tôn vinh Đức Chúa Trời. Rồi Ngài bảo ông: Hãy theo Thầy.”
\s5
\v 20 Phi-e-rơ quay lại thấy Giăng, là môn đồ được Chúa Giê-xu yêu đang theo sau. Anh này là người đã ngã người vào Chúa Giê-xu tại bàn và hỏi Ngài: “Thưa Chúa, ai sẽ giao nộp Ngài cho kẻ thù vậy? ”
\v 21 Khi Phi-e-rơ thấy anh thì ông hỏi Chúa Giê-xu: “Lạy Chúa, anh này về sau sẽ thế nào?”
\s5
\v 22 Chúa Giê-xu đáp lại Phi-e-rơ: “Nếu Thầy muốn anh ta cứ sống cho đến lúc Thầy trở lại, thì đó cũng chẳng phải là việc của anh! Còn anh hãy theo Thầy. ”
\v 23 Vậy là có lời đồn giữa vòng các anh em trong Chúa Cứu Thế rằng môn đồ này sẽ không chết; nhưng Chúa Giê-xu không nói rằng người ấy sẽ không chết. Ngài chỉ nói: “Nếu Thầy muốn anh ta cứ sống cho đến lúc Thầy trở lại, thì đó cũng chẳng phải là việc của anh!”
\s5
\v 24 Tôi, Giăng, là môn đồ chứng kiến tất cả những điều này, và tôi đã ghi lại. Chúng ta biết rằng lời chứng của anh ta là xác thực.
\v 25 Chúa Giê-xu còn làm nhiều việc khác nữa, nên nếu tôi ghi lại tất cả thì tôi e rằng cả thế giới này cũng không chứa hết số sách được viết ra.