vi_udb/43-LUK.usfm

2180 lines
242 KiB
Plaintext
Raw Permalink Blame History

This file contains ambiguous Unicode characters

This file contains Unicode characters that might be confused with other characters. If you think that this is intentional, you can safely ignore this warning. Use the Escape button to reveal them.

\id LUK
\ide UTF-8
\h LU-CA
\toc1 LU-CA
\toc2 LU-CA
\toc3 luk
\mt LU-CA
\s5
\c 1
\p
\v 1 Gửi Thê-ô-phi-lơ thân mến, có nhiều người đã ghi chép lại những sự kiện lạ lùng đã xảy ra ở giữa chúng ta.
\v 2 Chúng ta đã được nghe những điều này từ chính những người chứng kiến chúng xảy ra ngay từ lúc bắt đầu. Những người này đã dạy dỗ thông điệp của Đức Chúa Trời cho người khác.
\v 3 Chính tôi đã cẩn thận tra cứu mọi ghi chép và sự dạy dỗ của họ. Thế nên, tôi cho rằng tốt hơn tôi nên viết cho ngài một bản tường thuật chính xác về những sự việc này thưa ngài Thê-ô-phi-lơ cao quý.
\v 4 Tôi làm điều này để ngài biết rằng những điều mình đã học là chính xác.
\s5
\v 5 Vào thời Vua Hê-rốt cai trị xứ Giu-đê, có một thầy tế lễ người Do Thái tên là Xa-cha-ri. Ông nằm trong nhóm các thầy tế lễ gọi là A-bi-a. Cả ông và vợ là Ê-li-sa-bét, đều là con cháu của A-rôn.
\v 6 Hai người được Đức Chúa Trời kể là công bình vì họ luôn vâng theo mọi mạng lệnh của Ngài một cách trọn vẹn.
\v 7 Tuy nhiên, họ không có con vì Ê-li-sa-bét không thể sanh con. Hơn thế nữa, cả hai đều đã cao tuổi.
\s5
\v 8 Một ngày nọ, khi Xa-cha-ri đang làm việc trong đền thờ Giê-ru-sa-lem theo phiên thứ của ban mình.
\v 9 Theo thông lệ, các thầy tế lễ bắt thăm và ông đã được chọn vào đền thờ của Chúa để dâng hương.
\v 10 Tới giờ dâng hương, có rất nhiều người đứng ngoài sân đền thờ để cầu nguyện.
\s5
\v 11 Một thiên sứ được Chúa sai đến đã hiện ra với Xa-cha-ri, đứng bên phải bàn thờ dâng hương.
\v 12 Khi Xa-cha-ri nhìn thấy thiên sứ, ông hoảng hốt và rất sợ hãi.
\v 13 Nhưng thiên sứ bảo ông, “Nầy Xa-cha-ri, đừng sợ! Khi ông cầu nguyện, Chúa đã nghe lời cầu xin của ông. Thế nên, Ê-li-sa-bét, vợ ông, sẽ sinh một con trai. Ông phải đặt tên cho con là Giăng.
\s5
\v 14 Ông sẽ rất vui mừng và nhiều người khác cũng sẽ vui mừng vì sự ra đời của con trai đó.
\v 15 Đức Chúa Trời xem đứa bé này là rất quan trọng. Nó không được uống rượu hay thức uống có cồn. Nó thậm chí sẽ được đầy dẫy Đức Thánh Linh từ khi còn trong lòng mẹ.
\s5
\v 16 Con trẻ ấy sẽ thuyết phục nhiều con cháu của Y-sơ-ra-ên từ bỏ tội lỗi và bắt đầu vâng lời Chúa là Đức Chúa Trời của họ.
\v 17 Con trai ông sẽ đi trước Chúa như người báo tin của Ngài và tâm linh người sẽ được mạnh mẽ như tiên tri Ê-li xưa kia. Người sẽ khiến các bậc cha mẹ trở lại yêu thương con cái mình. Người sẽ khiến những kẻ không vâng lời Chúa sống khôn ngoan và vâng lời Ngài giống như những người công chính. Người sẽ làm tất cả những điều này nhằm chuẩn bị nhiều người sẵn sàng cho Chúa khi Ngài đến.”
\s5
\v 18 Xa-cha-ri thưa với thiên sứ: “Tôi đã già, vợ tôi cũng đã cao tuổi rồi. Làm sao tôi tin được những điều Ngài vừa nói sẽ xảy ra? ”
\v 19 Thiên sứ đáp, “Ta là Gáp-ri-ên! Ta hằng đứng trước sự hiện diện của Đức Chúa Trời! Ta được sai đến để báo tin mừng về những việc sẽ xảy đến này cho ông.
\v 20 Những gì ta vừa nói với ông chắc chắn sẽ xảy ra vào đúng thời điểm Đức Chúa Trời đã định, nhưng ông đã không tin lời ta. Vì thế, Đức Chúa Trời sẽ khiến ông không thể nói được cho đến ngày con trai ông ra đời!”
\s5
\v 21 Trong khi Xa-cha-ri và thiên sứ nói chuyện trong đền thờ thì dân chúng ở ngoài sân đang đợi ông đi ra. Họ tự hỏi vì sao ông lại ở trong đền thờ lâu đến thế.
\v 22 Lúc đi ra, Xa-cha-ri không thể nói với họ. Bởi vì ông không thể nói được, nên ông ra dấu bằng tay để giải thích việc gì đã xảy ra. Khi ấy, họ mới biết rằng ông đã thấy một khải tượng đến từ Đức Chúa Trời trong lúc ông ở trong đền thờ.
\v 23 Khi đã hết thời gian phục vụ trong vai trò thầy tế lễ trong đền thờ, Xa-cha-ri rời Giê-ru-sa-lem để trở về nhà.
\s5
\v 24 Sau đó ít lâu, vợ ông là Ê-li-sa-bét mang thai, thế nhưng bà không đi ra ngoài trong năm tháng.
\v 25 Bà tự nhủ, “Chúa đã cho tôi mang thai. Như vậy, Ngài đã đoái thương tôi và cất đi nguyên do khiến mọi người khinh thường tôi!”
\s5
\v 26 Khi Ê-li-sa-bét mang thai được gần sáu tháng, Đức Chúa Trời sai thiên sứ Gáp-ri-ên đến thành Na-xa-rét thuộc miền Ga-li-lê,
\v 27 Người đến đó để phán với một trinh nữ tên là Ma-ri. Cô đã đính hôn với một người nam thuộc dòng dõi của vua Đa-vít tên là Giô-sép. Tên của người trinh nữ đó là Ma-ri.
\v 28 Thiên sứ nói với cô rằng, “ Xin chào cô! Chúa ở cùng cô và đã bày tỏ sự nhân từ lớn lao trên cô! ”
\v 29 Nhưng Ma-ri vô cùng bối rối khi nghe lời chào thăm này. Cô tự hỏi không hiểu thiên sứ có ý gì khi nói những lời đó.
\s5
\v 30 Thiên sứ nói tiếp: “ Cô Ma-ri, đừng sợ, vì cô đã được ơn trước mặt Đức Chúa Trời!
\v 31 Cô sẽ mang thai và sinh một con trai, cô phải đặt tên cho con trai ấy là Giê-xu.
\v 32 Con trai ấy sẽ được tôn trọng và sẽ được gọi là Con của Đức Chúa Trời Chí Cao. Chúa là Đức Chúa Trời sẽ lập Ngài làm vua cai trị dân Ngài như Đa-vít, tổ tiên của Ngài.
\v 33 Ngài sẽ cai trị đời đời trên dòng dõi của Gia-cốp. Ngài sẽ cai trị mãi mãi.”
\s5
\v 34 Ma-ri thưa với thiên sứ, “Tôi là một trinh nữ thì làm sao việc ấy có thể xảy ra được? ”
\v 35 Thiên sứ đáp, “Đức Thánh Linh sẽ đến trên cô và quyền năng của Đức Chúa Trời sẽ bao phủ cô. Cho nên, đứa con mà cô mang trong mình sẽ là Con Thánh và sẽ được gọi là Con Đức Chúa Trời.
\s5
\v 36 Và hãy nghe điều này. Ê-li-sa-bét, người bà con của cô cũng đang mang thai một con trai, dù bà ấy đã cao tuổi. Và dù chẳng ai nghĩ rằng bà có thể sinh con, thế mà hiện nay bà đã mang thai được sáu tháng rồi.
\v 37 Bởi vì Đức Chúa Trời có thể làm mọi việc! ”
\v 38 Ma-ri thưa, “Vâng, tôi là tôi tớ Chúa, xin mọi việc Ngài đã nói về tôi sẽ xảy ra! ” Rồi thiên sứ rời khỏi cô.
\s5
\v 39 Ngay sau đó, Ma-ri chuẩn bị sẵn sàng và vội vã đi lên miền cao nguyên xứ Giu-đê, đến thành phố nơi Xa-cha-ri sinh sống.
\v 40 Cô vào nhà ông và chào hỏi Ê-li-sa-bét, vợ ông.
\v 41 Ngay khi Ê-li-sa-bét nghe tiếng Ma-ri, thì đứa bé trong bụng Ê-li-sa-bét liền nhảy nhót. Lập tức, Ê-li-sa-bét được Đức Thánh Linh dẫn dắt, cất tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời.
\s5
\v 42 Bà reo lên với Ma-ri rằng, “ Đức Chúa Trời đã ban phước cho con nhiều hơn những phụ nữ khác, và Ngài cũng ban phước cho đứa bé mà con sẽ mang trong bụng!
\v 43 Thật vinh hạnh cho cô vì được mẹ của Chúa đến thăm!
\v 44 Ngay khi cô nghe tiếng con chào, đứa bé trong bụng cô liền nhảy nhót, nó mừng vì con đã đến thăm!
\v 45 Phước cho con vì đã tin rằng lời Chúa phán với con sẽ được ứng nghiệm.”
\s5
\v 46 Ma-ri ngợi khen Đức Chúa Trời rằng: “Ôi, tôi ngợi khen Chúa!
\v 47 Tôi rất vui mừng vì Đức Chúa Trời là Đấng cứu tôi.
\s5
\v 48 Tôi chỉ là một đầy tớ gái hèn mọn của Ngài, nhưng Ngài không quên tôi. Thế nên, từ nay về sau, mọi người thuộc mọi thời đại sẽ nói rằng Đức Chúa Trời đã chúc phước cho tôi.
\v 49 Họ sẽ nói điều này bởi những việc lớn mà Đức Chúa Trời, Đấng Toàn Năng, đã làm cho tôi. Danh Ngài là thánh!
\s5
\v 50 Ngài thương xót những người tôn kính Ngài, từ thế hệ này qua thế hệ kia.
\v 51 Ngài bày tỏ cho con người thấy Ngài là Đấng đầy quyền năng. Ngài làm cho tan tác những kẻ có tư tưởng kiêu ngạo trong lòng.
\s5
\v 52 Ngài truất ngôi các vua và Ngài khiến những người bị áp bức được nên tôn trọng.
\v 53 Ngài ban thức ngon cho người đói và đuổi kẻ giàu đi mà không cho họ bất cứ gì.
\s5
\v 54-55 Ngài đã giúp đỡ Y-sơ-ra-ên, là dân phục vụ Ngài. Khi xưa Ngài đã hứa với tổ tiên chúng ta rằng Ngài sẽ tỏ lòng thương xót đối với họ. Ngài đã giữ lời hứa ấy và luôn bày tỏ lòng thương xót đối với Áp-ra-ham cùng dòng dõi người.”
\s5
\v 56 Ma-ri ở với Ê-li-sa-bét khoảng tháng, rồi cô trở về nhà mình.
\v 57 Đến ngày sinh nở, Ê-li-sa-bét đã sinh một bé trai.
\v 58 Những người hàng xóm và bà con nghe về việc Chúa đã tỏ lòng nhân từ lớn lao trên bà, họ đều chung vui với bà.
\s5
\v 59 Đến ngày thứ tám, mọi người đến để tổ chức lễ cắt bì cho đứa bé. Bởi vì tên của cha đứa bé là Xa-cha-ri, nên họ muốn đặt tên đó cho đứa bé.
\v 60 Nhưng mẹ đứa trẻ nói rằng, “Không được, tên nó phải là Giăng! ”
\v 61 Họ nói với bà, “Nhưng trong vòng bà con của bà có ai tên Giăng đâu!”
\s5
\v 62 Họ dùng tay ra dấu để hỏi người cha xem ông muốn đặt tên cho con là gì.
\v 63 Thế nên, ông ra hiệu rằng họ nên lấy một cái bảng đưa cho ông để ông viết. Khi họ đưa cho ông tấm bảng, ông viết lên đó, “Tên nó là Giăng. ” Mọi người ở đó đều ngạc nhiên!
\s5
\v 64 Ngay lúc đó, Xa-cha-ri liền nói lại được và ông bắt đầu cất tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời.
\v 65 Mọi người sống gần đó đều hết sức kinh hãi bởi việc Chúa đã làm. Họ đã kể cho nhiều người khác nữa về những việc đã xảy ra và tin tức lan truyền khắp miền cao nguyên xứ Giu-đê.
\v 66 Ai nghe đến cũng đều suy ngẫm về điều đó. Họ nói: “Không biết đứa nhỏ này khi lớn lên sẽ làm những việc gì! ” Qua những việc đã xảy ra, họ chắc rằng Đức Chúa Trời sẽ dùng quyền năng mà giúp đỡ cho con trẻ ấy.
\s5
\v 67 Sau khi con trai ra đời, Xa-cha-ri được Đức Thánh Linh hướng dẫn và ông đã nói những lời đến từ Đức Chúa Trời rằng:
\v 68 “Ngợi khen Chúa là Đức Chúa Trời mà dân Y-sơ-ra-ên chúng con thờ phượng, vì Ngài đã đến để trả tự do cho dân của Ngài.
\s5
\v 69 Ngài đã sai đến cho chúng con người sẽ giải cứu chúng con cách quyền năng, một người thuộc dòng dõi của tôi tớ Ngài là vua Đa-vít.
\v 70 Từ xưa, Đức Chúa Trời đã khiến các tiên tri nói rằng Ngài sẽ làm điều đó.
\v 71 Đấng Cứu Thế đầy quyền năng này sẽ cứu chúng con khỏi các kẻ thù, và Ngài giải cứu chúng con khỏi quyền lực của những người ghen ghét chúng con.
\s5
\v 72 Ngài làm điều này bởi vì Ngài thương xót tổ tiên của chúng con và nhớ lại giao ước thánh của Ngài,
\v 73 là lời thề Ngài đã hứa cùng Áp-ra-ham, tổ tiên của chúng con.
\v 74 Đức Chúa Trời đã hứa sẽ giải cứu chúng con khỏi quyền lực của các kẻ thù chúng con và cho chúng con được phục vụ Ngài mà không sợ hãi gì,
\v 75 trong sự thánh khiết và công bình trọn đời của chúng con.
\s5
\v 76 Rồi Xa-cha-ri nói cùng con trai mình: “Con của ba, con sẽ được gọi là tiên tri của Đức Chúa Trời Chí Cao. Con sẽ đi trước Chúa để chuẩn bị một dân tộc sẵn sàng khi Ngài đến.
\v 77 Con sẽ cho mọi người biết rằng Đức Chúa Trời có thể tha thứ cho họ và cứu họ khỏi bị hình phạt vì cớ tội lỗi của mình.
\s5
\v 78 Đức Chúa Trời sẽ tha thứ cho chúng ta bởi vì Ngài nhân từ và có lòng thương xót đối với chúng ta. Và vì cớ ấy, Đấng Cứu Thế, giống như mặt trời đang mọc lên, sẽ từ trời xuống trần gian để giúp chúng ta.
\v 79 Ngài sẽ soi sáng những người đang sống trong bóng tối thuộc linh và trong nỗi sợ hãi sự chết. Ngài sẽ dẫn dắt chúng ta để chúng ta được sống bình an.
\s5
\v 80 Thời gian trôi qua, con trai của Xa-cha-ri và Ê-li-sa-bét lớn lên và được mạnh mẽ về phần tâm linh. Ông sống ở nơi hoang vắng và vẫn sống ở tại đó khi ông bắt đầu công khai rao giảng trước dân sự của Đức Chúa Trời, dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\c 2
\p
\v 1 Lúc ấy Sê-sa Au-gút-tơ ra chiếu chỉ rằng mọi người dân sống dưới quyền cai trị của đế quốc La-mã phải đăng ký tên vào sổ lưu trữ công cộng.
\v 2 Lần đầu tiên điều này được thực hiện là khi Qui-ri-ni-u làm tổng đốc xứ Sy-ri.
\v 3 Thế nên, mọi người đều phải trở về nguyên quán để đăng ký.
\s5
\v 4-5 Giô-sép cũng phải đi về nguyên quán của mình cùng với Ma-ri, vợ sắp cưới của mình đang mang thai. Bởi vì Giô-sép là con cháu của vua Đa-vít, họ phải rời thành Na-xa-rét, xứ Ga-li-lê để đi đến thành Bết-lê-hem, xứ Giu-đê, còn được gọi là thành Đa-vít. Giô-sép và Ma-ri đã đi đến đó để đăng ký tên mình vào sổ lưu trữ công cộng.
\s5
\v 6-7 Khi họ đến Bết-lê-hem, nơi khách vãng lai thường ở đều đã không còn chỗ. Vì thế họ phải ở nơi người ta cho gia súc ngủ qua đêm. Trong khi họ ở đó, ngày sinh nở của Ma-ri đã đến và cô đã sinh con trai đầu lòng. Cô lấy những mảnh vải bọc con mình và đặt con nằm trong máng dùng để cho gia súc ăn.
\s5
\v 8 Đêm đó, có mấy người chăn chiên đang canh giữ bầy chiên ở những cánh đồng gần Bết-lê-hem.
\v 9 Bất ngờ có một thiên sứ của Chúa hiện ra với họ. Ánh sáng chói lóa cho thấy sự vinh hiển của Chúa chiếu rạng xung quanh họ. Thế nên, họ vô cùng sợ hãi.
\s5
\v 10 Nhưng thiên sứ bảo họ: “Đừng sợ! Ta đến để báo cho các anh một tin tức tốt lành, nó sẽ ích lợi cho mọi người và sẽ khiến cho mọi người đều vui mừng!
\v 11 Hôm nay, trong thành Đa-vít, một đứa bé đã ra đời, đứa bé ấy sẽ cứu các anh khỏi những tội lỗi của mình! Ngài là Đấng Mê-si-a, là Chúa!
\v 12 Đây là cách để các anh nhận ra Ngài: tại Bết-lê-hem, các anh sẽ tìm thấy một em bé được bọc bằng những mảnh vải và được đặt nằm trong máng cho gia súc ăn.”
\s5
\v 13 Thình lình, một nhóm đông các thiên sứ từ trên trời hiện đến và gia nhập vào cùng với những thiên sứ khác. Tất cả họ đều ngợi ca Đức Chúa Trời rằng:
\v 14 “Nguyện hết thảy các thiên sứ trên trời rất cao đều ngợi khen Đức Chúa Trời! Nguyện sự bình an trên đất, giữa những người làm đẹp lòng Đức Chúa Trời!”
\s5
\v 15 Sau khi các thiên sứ rời họ trở về trời, những người chăn chiên nói với nhau: “Chúng ta hãy đi ngay đến Bết-lê-hem để xem điều kỳ diệu vừa xảy ra, là điều mà Chúa đã cho chúng ta hay! ”
\v 16 Thế là họ nhanh chóng đi ngay, khi đã tìm thấy nơi Ma-ri và Giô-sép đang ở, họ nhìn thấy đứa bé đang nằm trong máng ăn của gia súc.
\s5
\v 17 Sau khi đã thấy Ngài, họ kể lại cho mọi người những gì họ đã được mách bảo về đứa bé này.
\v 18 Tất cả những người nghe chuyện mấy người chăn chiên này kể lại đều ngạc nhiên.
\v 19 Còn Ma-ri cứ suy nghĩ về những điều mà cô đã nghe và cẩn thận ghi nhớ chúng.
\v 20 Mấy người chăn chiên trở về với bầy chiên của mình. Họ không ngừng nói về sự vĩ đại của Đức Chúa Trời và ngợi khen Ngài về mọi điều mình đã nghe và thấy, vì tất cả đều xảy ra y như những gì thiên sứ đã nói với họ.
\s5
\v 21 Vào ngày thứ tám sau khi con trẻ ra đời, họ cắt bì cho con trẻ và đặt tên cho Ngài là Giê-xu. Đây là tên mà thiên sứ đã dặn họ đặt cho Ngài, thậm chí từ trước khi Ngài được thai dựng trong bụng mẹ.
\s5
\v 22 Khi những ngày thanh tẩy theo luật của Môi-se đã hết, Ma-ri và Giô-sép đi lên thành Giê-ru-sa-lem để dâng con trai mình cho Chúa.
\v 23 Như trong luật pháp của Chúa có chép: “Mọi con trai đầu lòng phải được biệt riêng ra thánh cho Chúa. ”
\v 24 Luật pháp của Chúa cũng nói rằng cha mẹ của đứa con trai vừa mới sanh đó phải dâng “một cặp chim gáy hoặc chim bồ câu con” làm của lễ.
\s5
\v 25 Lúc ấy, tại thành Giê-ru-sa-lem có một cụ ông tên là Si-mê-ôn. Ông luôn làm vui lòng Chúa và vâng giữ luật pháp của Ngài. Ông nóng lòng trông đợi ngày Đức Chúa Trời sai Đấng Mê-si-a đến để yên ủi dân Y-sơ-ra-ên và Đức Thánh Linh đã hướng dẫn ông.
\v 26 Đức Thánh Linh đã tỏ cho ông biết trước rằng ông sẽ được thấy Đấng Mê-si-a mà Chúa đã hứa trước khi ông qua đời.
\s5
\v 27 Khi Giô-sép và Ma-ri đem con trẻ là Giê-xu đến đền thờ để thực hiện các nghi lễ mà Chúa đã truyền trong luật pháp của Ngài, thì Đức Thánh Linh đã dẫn Si-mê-ôn đi vào trong sân đền thờ.
\v 28 Ông bồng Giê-xu trên tay mình và ngợi khen Đức Chúa Trời rằng:
\v 29 Lạy Chúa, Ngài đã cho con được thỏa lòng và bây giờ con đã có thể ra đi trong bình an theo như lời Ngài đã hứa.
\s5
\v 30 Con đã thấy Đấng Ngài sai đến để cứu loài người ra khỏi tội lỗi của họ,
\v 31 là Đấng mà Ngài đã chuẩn bị ở giữa muôn dân.
\v 32 Đấng ấy sẽ giống như ánh sáng bày tỏ chân lý của Ngài cho các dân tộc khác, và Ngài sẽ đem vinh dự về cho dân Y-sơ-ra-ên.
\s5
\v 33 Cha mẹ của Chúa Giê-xu rất ngạc nhiên trước những điều Si-mê-ôn nói về Ngài. Rồi Si-mê-ôn chúc phước cho họ và nói với Ma-ri, mẹ của Chúa Giê-xu rằng,
\v 34 “Hãy nhớ điều tôi nói đây: Đức Chúa Trời đã định rằng vì đứa trẻ này, nhiều người Y-sơ-ra-ên sẽ lìa bỏ Đức Chúa Trời và nhiều người khác sẽ trở lại cùng Ngài. Con trẻ này sẽ là một dấu hiệu cảnh báo cho mọi người và nhiều người sẽ chống đối Ngài.
\v 35 Kết quả là, tư tưởng của nhiều người sẽ bị lộ ra. Một thanh gươm cũng sẽ đâm thấu linh hồn cô.”
\s5
\v 36 Trong sân đền thờ lúc ấy cũng có một nữ tiên tri đã rất già là An-ne. Cha của bà là Pha-nu-ên, thuộc bộ tộc A-se. Sau khi kết hôn được bảy năm thì chồng bà qua đời.
\v 37 Sau đó, bà ở góa suốt tám mươi bốn năm qua. Bà luôn phục vụ trong trong khu vực đền thờ và ngày đêm thờ phượng Chúa. Bà thường kiêng ăn và cầu nguyện.
\v 38 Ngay lúc ấy, An-ne cũng đến cùng họ và bắt đầu cảm tạ Đức Chúa Trời về đứa trẻ. Sau đó, bà đi nói về Giê-xu cho những người đang trông đợi Đức Chúa Trời giải cứu Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 39 Khi Giô-sép và Ma-ri đã hoàn tất mọi điều luật pháp của Chúa quy định, họ trở về thành mình là Na-xa-rét, trong vùng Ga-li-lê.
\v 40 Đứa trẻ lớn lên, mạnh mẽ và rất khôn ngoan, Đức Chúa Trời rất hài lòng về Ngài.
\s5
\v 41 Hàng năm, cha mẹ của Chúa Giê-xu thường lên thành Giê-ru-sa-lem để dự lễ Vượt Qua.
\v 42 Thế nên khi Chúa Giê-xu được mười hai tuổi, như thường lệ họ lên Giê-ru-sa-lem để dự lễ.
\v 43 Khi các ngày lễ đã qua, cha mẹ Ngài lên đường trở về nhà, nhưng Chúa Giê-xu ở lại Giê-ru-sa-lem. Cha mẹ Ngài không biết rằng Ngài vẫn còn ở lại.
\v 44 Họ cứ tưởng Ngài đi với những người khác cùng đi với mình. Sau khi đã đi được một ngày đường, họ mới bắt đầu đi tìm Ngài trong số những người bà con và bạn bè.
\s5
\v 45 Khi họ không tìm thấy Ngài, họ đã trở lại Giê-ru-sa-lem để tìm kiếm Ngài.
\v 46 Ba ngày sau, họ tìm thấy Ngài trong sân đền thờ, đang ngồi giữa các giáo sư Do Thái giáo. Ngài vừa nghe họ dạy vừa đặt ra những câu hỏi cho họ.
\v 47 Tất cả những người nghe Ngài nói đều ngạc nhiên vì sự hiểu biết và cách Ngài trả lời những câu hỏi mà các giáo sư đặt ra.
\s5
\v 48 Khi cha mẹ nhìn thấy Ngài, họ rất ngạc nhiên. Mẹ Ngài nói: “Con ơi, sao con lại làm vậy với cha mẹ? Cha và mẹ đã rất lo lắng tìm kiếm con! ”
\v 49 Ngài thưa với họ: “Cha mẹ tìm con làm gì? Cha mẹ không biết rằng con cần dự phần trong công việc của Cha con sao? ”
\v 50 Nhưng cha mẹ Ngài không hiểu ý nghĩa của điều Ngài nói với mình.
\s5
\v 51 Rồi Ngài theo cha mẹ trở về Na-xa-rét và luôn vâng lời họ. Mẹ Ngài luôn suy nghĩ về mọi điều ấy trong lòng.
\v 52 Năm tháng trôi qua, Chúa Giê-xu ngày càng cao lớn và khôn ngoan. Đức Chúa Trời và mọi người ngày càng hài lòng về Ngài.
\s5
\c 3
\p
\v 1 Khi Sê-sa Ti-be-rơ đã cai trị đế quốc La-mã được mười lăm năm, Bôn-xơ Phi-lát làm tổng đốc xứ Giu-đê, Hê-rốt An-ti-pa cai trị xứ Ga-li-lê, em trai ông là Phi-líp cai trị xứ Y-tu-rê và Tra-cô-nít, và Ly-sa-ni-a cai trị xứ A-by-len.
\v 2 Trong thời gian ấy, khi An-ne và Cai-phe làm thầy tế lễ thượng phẩm tại Giê-ru-sa-lem, Đức Chúa Trời đã phán với Giăng, con trai Xa-cha-ri, trong khi ông đang sống ở nơi hoang mạc.
\s5
\v 3 Giăng đã đi khắp các vùng gần sông Giô-đanh. Ông luôn kêu gọi mọi người rằng, “Nếu quý vị muốn được Đức Chúa Trời tha tội, quý vị phải ăn năn; rồi tôi sẽ làm báp-têm cho quý vị!”
\s5
\v 4 Tiên tri Ê-sai đã chép những lời này trong một cuộn giấy từ rất lâu rằng: “Trong hoang mạc, sẽ có người kêu lên rằng: Hãy dọn đường cho Chúa, Làm ngay thẳng các lối cho Ngài.
\s5
\v 5 Mọi thung lũng sẽ được lấp đầy, Và mọi núi đồi sẽ được ban bằng; Đường cong quẹo sẽ trở nên thẳng, Những lối đi gập ghềnh sẽ được làm cho phẳng.
\v 6 Và mọi người sẽ thấy cách Đức Chúa Trời cứu nhân loại.”
\s5
\v 7 Giăng nói với đoàn dân đến để ông làm báp-têm rằng, “Các người thật xấu xa như rắn độc! Không ai báo cho các người biết rằng sẽ có một ngày Đức Chúa Trời trừng phạt tất cả những kẻ phạm tội sao? Đừng tưởng các người có thể thoát được!
\s5
\v 8 Hãy làm những việc cho thấy rằng các người thực sự đã từ bỏ hành vi tội lỗi! Và đừng tự nhủ rằng, “Chúng ta là con cháu Áp-ra-ham! ” Vì tôi nói thật, Đức Chúa Trời có thể khiến những hòn đá này trở thành con cháu của Áp-ra-ham!
\s5
\v 9 Cái rìu đã được đặt ngay gốc cây, thế nên cây nào không cho ra trái tốt thì sẽ bị đốn và bị ném vào lửa.”
\s5
\v 10 Một số người trong đám đông hỏi Giăng: “Vậy, chúng tôi phải làm gì? ”
\v 11 Ông đáp: “Nếu ai trong quý vị có hai cái áo, người đó nên đêm một chiếc mà cho người không có áo. Nếu ai trong quý vị có nhiều thức ăn, thì người đó nên chia một ít cho những người không có thức ăn.”
\s5
\v 12 Cũng có mấy người thu thuế đến để Giăng làm báp-têm. Họ hỏi ông: “Thưa thầy, chúng tôi phải làm gì? ”
\v 13 Ông đáp: “Đừng thu tiền quá mức mà chính quyền La-mã đã quy định!”
\s5
\v 14 Một số quân nhân hỏi ông: “Còn chúng tôi? Chúng tôi nên làm gì? ” Ông đáp: “Đừng ép buộc người khác đưa tiền cho mình bằng cách đe dọa họ, và đừng vu khống bất kỳ ai cả! Hãy bằng lòng với đồng lương của mình.”
\s5
\v 15 Dân chúng đang rất hi vọng rằng Đấng Mê-si-a sẽ sớm đến, và nhiều người trong số họ tự hỏi không biết Giăng có phải Đấng Mê-si-a không.
\v 16 Nhưng Giăng trả lời rằng, “Không, tôi không phải. Đấng Mê-si-a vĩ đại hơn tôi nhiều. Ngài vĩ đại đến mức tôi không xứng đáng để mở dây giày của Ngài! Khi tôi làm báp-têm cho anh em, tôi chỉ dùng nước. Nhưng khi Đấng Mê-si-a đến, Ngài sẽ làm báp-têm cho anh em bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa.
\s5
\v 17 Cái nia đã ở trong tay Ngài, sẵn sàng để loại bỏ rơm rạ vô dụng ra khỏi những hạt lúa tốt. Ngài sẽ thu lúa vào kho cách an toàn và đốt rơm rạ trong lửa chẳng hề tắt.
\s5
\v 18 Giăng dùng nhiều cách khác để khuyên dân chúng ăn năn và quay trở về cùng Chúa trong khi ông tiếp tục nói cho họ về thông điệp tốt lành từ Đức Chúa Trời.
\v 19 Ông cũng quở trách Vua Hê-rốt vì đã lấy Hê-rô-đia, vợ của em trai mình, trong khi người này vẫn còn sống và về nhiều việc ác khác mà vua đã làm.
\v 20 Sau đó, Hê-rốt lại làm một việc ác khác nữa đó là sai lính bỏ tù Giăng.
\s5
\v 21 Nhưng trước khi Giăng bị bỏ tù, nhiều người đã được làm báp-têm và Chúa Giê-xu cũng chịu báp-têm. Sau đó, trong lúc Ngài đang cầu nguyện thì trời mở ra.
\v 22 Đức Thánh Linh, trong hình chim bồ câu, ngự xuống và đậu trên Chúa Giê-xu. Từ trên trời, Đức Chúa Trời phán với Chúa Giê-xu rằng, “Con là Con Trai Ta, là con mà ta rất yêu quý. Ta rất hài lòng về Con!”
\s5
\v 23 Khi Chúa Giê-xu bắt đầu công tác của Ngài cho Đức Chúa Trời, Ngài khoảng ba mươi tuổi. (Người ta nghĩ) Ngài là con trai của Giô-sép. Giô-sép con Hê-li.
\v 24 Hê-li là con của Mát-tát. Mát-tát là con của Lê-vi. Lê-vi là con của Mên-chi. Mên-chi là con của Gia-nê. Gia-nê là con của Giô-sép.
\s5
\v 25 Giô-sép là con của Ma-ta-thia. Ma-ta-thia là con của A-mốt. A-mốt là con của Na-hum. Na-hum là con của Ếch-li. Ếch-li là con của Na-ghê.
\v 26 Na-ghê là con của Ma-át. Ma-át là con của Ma-ta-thia. Ma-ta-thia là con của Sê-mê-in. Sê-mê-in là con của Giô-sếch. Giô-sếch là con của Giô-đa.
\s5
\v 27 Giô-đa là con của Giô-a-nan. Giô-a-nan là con của Rê-sa. Rê-sa là con của Xô-rô-ba-bên. Xô-rô-ba-bên là con của Sa-la-thi-ên. Sa-la-thi-ên là con của Nê-ri.
\v 28 Nê-ri là con của Mên-chi. Mên-chi là con của A-đi. A-đi là con của Cô-sam. Cô-sam là con của Ên-ma-đan. Ên-ma-đan là con của Ê-rơ.
\v 29 Ê-rơ là con của Giô-suê. Giô-suê là con của Ê-li-ê-se. Ê-li-ê-se là con của Giô-rim. Giô-rim là con của Mát-thát. Mát-thát là con của Lê-vi.
\s5
\v 30 Lê-vi là con của Si-mê-ôn. Si-mê-ôn là con của Giu-đa. Giu-đa là con của Giô-sép. Giô-sép là con của Giô-nam. Giô-nam là con của Ê-li-a-kim.
\v 31 Ê-li-a-kim là con của Mê-lê-a. Mê-lê-a là con của Men-na. Men-na là con của Mát-ta-tha. Mát-ta-tha là con của Na-than. Na-than là con của Đa-vít.
\v 32 Đa-vít là con của Gie-sê. Gie-sê là con của Ô-bết. Ô-bết là con của Bô-ô. Bô-ô là con của Sanh-môn. Sanh-môn là con của Na-ách-son.
\s5
\v 33 Na-ách-son là con của A-mi-na-đáp. A-mi-na-đáp là con của Át-min. Át-min là con của A-rơ-ni. A-rơ-ni là con của Ếch-rôm, Ếch-rôm là con của Pha-rê. Pha-rê là con của Giu-đa.
\v 34 Giu-đa là con của Gia-cốp. Gia-cốp là con của Y-sác. Y-sác là con của Áp-ra-ham. Áp-ra-ham là con của Tha-rê. Tha-rê là con của Na-cô.
\v 35 Na-cô là con của Sê-rúc. Sê-rúc là con của Rê-hu. Rê-hu là con của Bê-léc. Bê-léc là con của Hê-be. Hê-be là con của Sa-la.
\s5
\v 36 Sa-la là con của Cai-nam. Cai-nam là con của A-bác-sát. A-bác-sát là con của Sem. Sem là con của Nô-ê. Nô-ê là con của Lê-méc.
\v 37 Lê-méc là con của Mê-tu-sê-la. Mê-tu-sê-la là con của Hê-nóc. Hê-nóc là con của Giê-rệt. Giê-rệt là con của Ma-ha-la-ên. Ma-ha-la-ên là con của Kê-nan.
\v 38 Kê-nan là con của Ê-nót. Ê-nót là con của Sết. Sết là con của A-đam. A-đam là con của Đức Chúa Trời, là người Đức Chúa Trời tạo dựng nên.
\s5
\c 4
\p
\v 1 Chúa Giê-xu, được đầy dẫy Đức Thánh Linh, rời khỏi sông Giô-đanh và Đức Thánh Linh đưa Ngài vào trong hoang mạc.
\v 2 Đức Thánh Linh đưa Ngài đi quanh trong hoang mạc suốt bốn mươi ngày. Trong khi Ngài ở đó, ma quỷ liên tục cám dỗ Ngài. Trong suốt thời gian Chúa Giê-xu ở trong hoang mạc Ngài không ăn bất cứ gì, thế nên sau bốn mươi ngày, Ngài rất đói.
\s5
\v 3 Ma quỷ nói với Chúa Giê-xu rằng: “Nếu Ngài đúng là Con Đức Chúa Trời, hãy ra lệnh cho những hòn đá này biến thành bánh mà ăn đi! ”
\v 4 Chúa Giê-xu đáp: “Không, ta sẽ không làm vậy, vì Kinh Thánh chép rằng: “Người ta sống chẳng phải chỉ nhờ đồ ăn mà thôi.”
\s5
\v 5 Sau đó, ma quỷ đưa Chúa Giê-xu lên một đỉnh núi cao và ngay lập tức chỉ cho Ngài tất cả các quốc gia trên thế giới.
\v 6 Rồi nó nói với Ngài: “Tôi sẽ cho Ngài quyền cai trị tất cả các quốc gia này và Ngài sẽ sở hữu mọi sự nguy nga và của cải trong đó. Đức Chúa Trời đã cho phép tôi cai quản chúng, thế nên tôi muốn làm gì với chúng cũng được.
\v 7 Vì vậy, nếu Ngài thờ lạy tôi, tôi sẽ cho Ngài cai trị tất cả!”
\s5
\v 8 Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Không, Ta sẽ không thờ lạy ngươi, vì Kinh Thánh chép rằng: Ngươi phải thờ phượng Chúa là Đức Chúa Trời ngươi. Ngài là Đấng duy nhất mà ngươi phục vụ!”
\s5
\v 9 Ma quỷ đem Chúa Giê-xu lên thành Giê-ru-sa-lem. Nó đặt Ngài ở nơi cao nhất đền thờ và nói với Ngài rằng, “Nếu Ngài thật là Con Đức Chúa Trời, hãy nhảy từ đây xuống đi.
\v 10 Ngài sẽ không bị thương đâu vì trong Kinh Thánh có chép: Đức Chúa Trời sẽ ra lệnh cho các thiên sứ Ngài bảo vệ ngươi.
\v 11 Và trong đó cũng nói rằng: Họ sẽ nâng ngươi trên đôi tay mình khi ngươi ngã, để ngươi không bị thương. Thậm chí chân ngươi còn chẳng vấp phải đá. ’”
\s5
\v 12 Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Không, Ta sẽ không làm vậy, vì Kinh Thánh chép rằng Đừng cố gắng để thử Chúa là Đức Chúa Trời ngươi. ”
\v 13 Sau khi đã dùng mọi cách để cám dỗ Chúa Giê-xu, ma quỷ bỏ đi khỏi Ngài chờ dịp khác.
\s5
\v 14 Sau sự việc này, Chúa Giê-xu ra khỏi hoang mạc và trở về xứ Ga-li-lê. Đức Thánh Linh thêm năng lực cho Ngài. Khắp trong vùng ấy, người ta nghe về Chúa Giê-xu và kể với những người khác về Ngài.
\v 15 Ngài dạy dỗ dân chúng trong các nhà hội và tất cả họ đều khen ngợi Ngài vì sự dạy dỗ của Ngài.
\s5
\v 16 Chúa Giê-xu đến thành Na-xa-rét, nơi Ngài sinh trưởng. Vào ngày Sa-bát, Ngài đi đến nhà hội như vẫn thường làm. Ngài đứng lên đọc lớn tiếng một đoạn trong Kinh Thánh.
\v 17 Người phục vụ trong nhà hội trao cho Ngài cuộn giấy ghi chép những lời mà tiên tri Ê-sai đã viết cách đây rất lâu. Chúa Giê-xu mở cuộn giấy ra và tìm thấy chỗ những lời này được chép:
\s5
\v 18 “Thánh Linh của Chúa ngự trong Ta. Ngài đã chỉ định Ta rao giảng tin lành của Đức Chúa Trời cho người nghèo. Ngài đã sai Ta đến đây để tuyên bố rằng những người bị giam cầm sẽ được tự do, Và sẽ nói với những ai mù lòa rằng họ sẽ được sáng mắt. Ta sẽ giải phóng những người bị áp bức.
\v 19 Ngài đã sai Ta đến đây để tuyên bố rằng đây là thời điểm Chúa sẽ đối xử cách nhân từ trên loài người.
\s5
\v 20 Rồi Ngài cuốn sách lại, trả cho người phục vụ và ngồi xuống. Mọi người trong nhà hội chăm chú nhìn Ngài.
\v 21 Ngài nói với họ: “Hôm nay lời Kinh Thánh mà anh em vừa nghe đã được ứng nghiệm. ”
\v 22 Ai nấy nghe điều Ngài nói đều lấy làm kinh ngạc về Ngài và ngạc nhiên trước tài ăn nói của Ngài. Nhưng một số người nói rằng: “Người này chỉ là con trai Giô-sép thôi mà, phải không?”
\s5
\v 23 Ngài nói với họ: “Chắc anh em sẽ nói với tôi câu tục ngữ này: Bác sĩ ơi, hãy tự chữa cho mình đi! Anh em sẽ nói rằng, Hãy làm tại đây, nơi quê hương ông, những phép lạ như ông đã làm ở Ca-bê-na-um ấy! ’”
\v 24 Ngài lại nói, “Thật sự, thông điệp của một tiên tri chẳng bao giờ được người ở quê hương ông đón nhận.
\s5
\v 25 Nhưng hãy thử nghĩ mà xem: Trong thời tiên tri Ê-li, khi nạn đói hoành hành khắp cả nước vì trời không mưa suốt ba năm rưỡi, có biết bao nhiêu góa phụ trong dân Y-sơ-ra-ên.
\v 26 Thế nhưng Đức Chúa Trời không sai Ê-li đến để giúp đỡ bất cứ người nào trong số những quả phụ người Y-sơ-ra-ên đó. Ngài sai ông đến Sa-rép-ta, gần thành Si-đôn, để giúp đỡ một quả phụ không phải là người Y-sơ-ra-ên.
\v 27 Trong thời tiên tri Ê-li-sê, cũng có nhiều người Y-sơ-ra-ên mắc bệnh phong hủi. Nhưng Ê-li-sê chẳng chữa lành cho bất kỳ người trong số đó. Ông chỉ chữa cho Na-a-man, một người không phải dân Do-Thái đến từ Sy-ri.”
\s5
\v 28 Khi mọi người trong nhà hội nghe Ngài nói những lời đó, họ rất giận dữ.
\v 29 Tất cả họ đều đứng dậy lôi Ngài ra khỏi thành. Họ đem Ngài lên đỉnh một ngọn đồi bên ngoài thành để xô Ngài xuống vách đá và giết Ngài đi.
\v 30 Nhưng Ngài chỉ đơn thuần đi ra khỏi giữa vòng họ và bỏ đi.
\s5
\v 31 Một ngày kia, Chúa Giê-xu đi xuống thành Ca-bê-na-um, một thành thuộc xứ Ga-li-lê. Đến ngày Sa-bát, Ngài dạy dỗ dân chúng trong nhà hội.
\v 32 Mọi người không ngừng ngạc nhiên trước điều Ngài dạy dỗ, vì Ngài nói cách quả quyết.
\s5
\v 33 Lúc ấy, trong nhà hội có một người bị quỷ ám. Người đó la lớn lên rằng:
\v 34 “Hỡi Giê-xu, đến từ Na-xa-rét! Tà linh chúng tôi chẳng liên quan gì đến Ngài! Có phải Ngài đến để hủy diệt chúng tôi không? Tôi biết Ngài là ai. Ngài là Đấng Thánh đến từ Đức Chúa Trời!”
\s5
\v 35 Chúa Giê-xu khiển trách tà linh rằng: “Hãy im đi và ra khỏi người này! ” Trước mặt mọi người, ma quỷ vật mạnh người xuống đất và ra khỏi mà không làm hại người.
\v 36 Tất cả mọi người trong nhà hội đều vô cùng kinh ngạc. Họ nói với nhau: “Ông ấy nói thật quả quyết và lời của ông ta thật mạnh mẽ làm sao! Cả tà linh cũng vâng lời ông ta và ra khỏi những người bị chúng ám khi ông ấy ra lệnh! ”
\v 37 Họ cứ bàn tán không thôi về việc Chúa Giê-xu đã làm ở mọi nơi trong khắp các vùng lân cận.
\s5
\v 38 Chúa Giê-xu ra khỏi nhà hội và đến nhà Si-môn. Mẹ vợ của Si-môn đang bệnh và sốt cao. Một vài người ở đó xin Ngài chữa cho bà.
\v 39 Thế nên, Ngài cúi xuống truyền cho cơn sốt dứt đi. Lập tức, bà khỏe lại! Bà đứng lên và dọn thức ăn phục vụ mọi người.
\s5
\v 40 Khi mặt trời đã lặn vào ngày hôm đó, nhiều người đưa bạn bè, người thân, là những người đang đau ốm với đủ thứ bệnh tật, đến với Chúa Giê-xu. Ngài đặt tay trên họ và chữa lành cho họ.
\v 41 Ngài cũng buộc các tà linh ra khỏi nhiều người. Khi các tà linh ra khỏi họ, chúng kêu lớn tiếng với Chúa Giê-xu rằng: “Ngài là Con Đức Chúa Trời! ” Nhưng Ngài ra lệnh cho chúng không được nói với ai về Ngài, vì chúng biết Ngài là Đấng Mê-si-a.
\s5
\v 42 Sáng sớm hôm sau, Chúa Giê-xu ra khỏi nhà và đi vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện. Đám đông dân chúng đi tìm Ngài, khi tìm được, họ cố năn nỉ Ngài đừng rời khỏi họ.
\v 43 Nhưng Ngài nói với họ: “Tôi còn phải nói cho dân chúng ở những thành phố khác thông điệp về cách Đức Chúa Trời sẽ cai trị trên cả nhân loại, vì đó là việc mà Tôi được sai đi để làm. ”
\v 44 Vậy nên, Ngài tiếp tục rao giảng trong các nhà hội ở những thành khác nhau trong xứ Giu-đê.
\s5
\c 5
\p
\v 1 Một ngày nọ, trong khi đám đông dân chúng tụ tập quanh Ngài để nghe thông điệp của Đức Chúa Trời mà Ngài dạy, thì Ngài đang đứng cạnh bờ hồ Ghê-nê-xa-rết.
\v 2 Ngài nhìn thấy hai chiếc thuyền đánh cá đậu gần bờ. Các ngư dân đã rời khỏi thuyền và đang giặt lưới.
\v 3 Chúa Giê-xu lên một trong hai chiếc thuyền, là thuyền của Si-môn. Ngài bảo Si-môn chèo thuyền ra xa bờ một chút, Chúa Giê-xu ngồi trong thuyền và tiếp tục dạy dỗ dân chúng.
\s5
\v 4 Sau khi giảng dạy xong, Ngài nói với Si-môn: “Hãy chèo thuyền ra vùng nước sâu hơn và thả lưới xuống nước để đánh cá. ”
\v 5 Si-môn thưa: “Thưa Thầy, chúng tôi đã làm việc cật lực nguyên đêm nhưng chẳng bắt được con cá nào. Nhưng tôi sẽ thả lưới thêm lần nữa, vì Thầy đã bảo tôi làm vậy. ”
\v 6 Si-môn và những người của ông thả lưới xuống và họ bắt được nhiều cá đến nỗi lưới bắt đầu đứt ra.
\v 7 Họ ra hiệu cho những người đánh cá trên các thuyền khác đến giúp. Những người đó đến và kéo lên đầy cả hai thuyền cá đến nỗi chúng gần chìm.
\s5
\v 8 Thấy vậy, Si-môn Phi-e-rơ quỳ xuống trước Chúa Giê-xu và thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con vì con là người tội lỗi. ”
\v 9 Ông nói vậy vì quá kinh ngạc trước số cá họ vừa bắt được. Tất cả những người ở đó với ông cũng đều kinh ngạc, bao gồm cả Gia-cơ và Giăng, các con trai của Xê-bê-đê, là hai người bạn cùng đánh cá với Si-môn.
\v 10 Nhưng Chúa Giê-xu nói với Si-môn: “Đừng sợ! Trước giờ con chuyên đánh bắt cá, nhưng từ nay trở đi, con sẽ đem nhiều người đến để trở nên môn đồ của Thầy. ”
\v 11 Thế nên sau khi những người đó đưa thuyền vào bờ, họ bỏ nghề cá cùng mọi thứ khác mà đi theo Chúa Giê-xu.
\s5
\v 12 Khi Chúa Giê-xu đang ở tại một trong những thành gần đó, có một người mắc bệnh da liễu gọi là phong hủi. Khi thấy Ngài, ông sấp mặt xuống đất và nài xin Ngài: “Lạy Chúa, xin chữa lành cho tôi, vì Ngài có thể chữa lành cho tôi nếu Ngài muốn! ”
\v 13 Chúa Giê-xu giơ tay ra, chạm vào người ông và nói: “Tôi sẵn lòng chữa lành cho anh và Tôi sẽ chữa lành cho anh ngay bây giờ! ” Lập tức, người này được lành. Ông không còn bị phong hủi nữa!
\s5
\v 14 Chúa Giê-xu dặn ông: “Đừng vội cho mọi người biết rằng anh đã được lành. Trước tiên, hãy đi gặp thầy tế lễ ở Giê-ru-sa-lem và trình diện để ông ấy kiểm tra và xác nhận anh đã hết bị phong hủi. Cũng hãy đem của lễ đến cho thầy tế lễ theo như Môi-se đã truyền về việc một người được chữa lành khỏi bệnh phong hủi phải làm.”
\s5
\v 15 Thế nhưng nhiều người đã nghe về việc Chúa Giê-xu đã chữa lành người bị bệnh phong hủi ấy ra sao. Kết quả là những đám đông dân chúng kéo đến cùng Chúa Giê-xu để nghe Ngài dạy dỗ và để được Ngài chữa lành những bệnh tật.
\v 16 Nhưng Ngài thường tránh xa khỏi họ đi vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện.
\s5
\v 17 Một ngày kia, khi Chúa Giê-xu đang giảng dạy, có một số người thuộc phái Pha-ri-si ngồi gần đó. Vài người trong số họ là những thầy giáo rất am hiểu về luật pháp của người Do Thái. Họ đến từ nhiều làng mạc trong xứ Ga-li-lê, cũng có người đến từ Giê-ru-sa-lem và các thành phố khác trong xứ Giu-đê. Lúc ấy, Đức Chúa Trời ban cho Chúa Giê-xu quyền năng để chữa bệnh.
\s5
\v 18 Trong khi Chúa Giê-xu ở đó, có mấy người đem đến cho Ngài một người bị bại liệt. Họ khiêng người ấy trên tấm ra và cố gắng tìm cách đưa anh ta vào nhà để đặt trước mặt Chúa Giê-xu.
\v 19 Nhưng họ không thể đem người vào được vì trong nhà có quá đông người, thế là họ đi lên những bậc thang ở bên ngoài để trèo lên mái nhà. Sau đó, họ dỡ mấy miếng ngói trên mái nhà để tạo một khoảng trống. Họ dòng người bại liệt đang nằm trên tấm ra qua khoảng trống đó xuống giữa đám đông và đặt người ngay trước mặt Chúa Giê-xu.
\s5
\v 20 Khi Chúa Giê-xu thấy rằng họ tin Ngài có thể chữa lành cho người này, Ngài nói với người bại liệt: “Bạn ơi, Tôi tha tội cho anh! ”
\v 21 Các thầy giáo am hiểu luật pháp cùng những người Pha-ri-si khác liền nghĩ thầm trong lòng: “Người này nói vậy thật là kiêu ngạo và xúc phạm Đức Chúa Trời! Ai ai cũng biết chỉ Đức Chúa Trời mới có quyền tha tội!”
\s5
\v 22 Chúa Giê-xu biết họ đang nghĩ gì, nên Ngài nói với họ: “Các ông đừng nên thắc mắc trong lòng về những điều tôi nói! Mà hãy suy xét điều này:
\v 23 Việc nói rằng Tội lỗi anh đã được tha thì dễ lắm vì chẳng ai biết người ấy có thực sự được tha thứ hay không. Nhưng nếu nói Hãy đứng dậy, bước đi thì không dễ chút nào vì người ta có thể thấy ngay rằng người này có được chữa lành hay không.
\v 24 Vì thế, tôi sẽ chữa lành cho người này để các ông biết rằng Đức Chúa Trời đã ban cho tôi, là Con Người, quyền để tha tội cho mọi người trên đất. ” Rồi Ngài nói với người bại liệt, “Tôi bảo anh, hãy đứng dậy, cầm tấm ra của mình và đi về nhà đi! ’”
\s5
\v 25 Lập tức, người đó được lành! Anh đứng dậy trước mặt mọi người. Anh cầm tấm ra mà mình đã nằm lên và đi về nhà, ngợi khen Đức Chúa Trời.
\v 26 Tất cả mọi người ở đó đều kinh ngạc! Họ ngợi khen Đức Chúa Trời và vô cùng sửng sốt vì những gì họ chứng kiến Chúa Giê-xu làm. Họ cứ nói mãi rằng: “Hôm nay chúng ta đã thấy những việc diệu kỳ!”
\s5
\v 27 Chúa Giê-xu rời khỏi đó, thấy một người tên Lê-vi, là nhân viên thu thuế của chính quyền La-mã. Ông đang ngồi tại phòng thuế, nơi người ta đến để nộp thuế theo quy định của nhà nước. Chúa Giê-xu nói với ông: “Hãy đến làm môn đồ của Thầy! ”
\v 28 Lê-vi liền bỏ việc và đi theo Chúa Giê-xu.
\s5
\v 29 Sau đó, Lê-vi chuẩn bị một bữa tiệc lớn tại nhà cho Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài. Có rất nhiều nhân viên thu thuế và những người khác cùng ăn chung với họ.
\v 30 Vài người thuộc phái Pha-ri-si, bao gồm cả những người dạy luật của người Do Thái, phàn nàn với các môn đồ của Chúa Giê-xu rằng: “Các ông không nên ăn chung với bọn thu thuế và những kẻ tội lỗi khác. ”
\v 31 Chúa Giê-xu nói với họ: “Người đau ốm mới là người biết mình cần bác sĩ chứ không phải người nghĩ rằng mình mạnh khỏe.
\v 32 Cũng vậy, tôi từ trời đến không phải để mời những người nghĩ rằng mình công bình đến với tôi. Trái lại, tôi đến để mời những ai biết mình là tội nhân, từ bỏ hành vi tội lỗi và đến với tôi.”
\s5
\v 33 Những người lãnh đạo Do Thái giáo đó nói với Chúa Giê-xu rằng: “Các môn đồ của Giăng Báp-tít thường kiêng ăn và cầu nguyện, các môn đồ của người Pha-ri-si cũng vậy. Nhưng còn các môn đồ của thầy thì ăn và uống! Sao họ không kiêng ăn như những người khác? ”
\v 34 Chúa Giê-xu đáp: “Các ông có bảo bạn bè của chú rể kiêng ăn trong khi anh ấy còn ở với họ không? Không, chẳng ai làm thế cả!
\v 35 Nhưng một ngày nào đó, chú rể sẽ bị đem đi khỏi những người bạn của anh. Lúc ấy, họ sẽ kiêng ăn.”
\s5
\v 36 Rồi Chúa Giê-xu đưa ra những ví dụ khác để giải thích ý Ngài muốn nói: Ngài nói, “Không ai đi cắt một mảnh vải từ chiếc áo mới để vá vào áo cũ. Nếu họ làm vậy, họ sẽ làm hư cái áo mới vì đã cắt đi một miếng vải từ đó và mảnh vải mới cũng không hợp với chiếc áo cũ.
\s5
\v 37 Cũng không ai cho rượu mới ép vào bầu da cũ để chứa nó. Nếu ai làm như vậy, thì bầu da cũ sẽ bị nứt ra vì không giãn ra khi rượu mới lên men và phồng ra. Khi ấy cái bầu da sẽ hỏng và rượu cũng sẽ hư vì nó sẽ bị đổ ra ngoài..
\v 38 Trái lại, rượu mới phải được chứa trong bầu da mới.
\v 39 Hơn nữa, người nào đã uống rượu cũ sẽ bằng lòng với nó. Họ không muốn uống rượu mới vì họ nói rằng: “Rượu cũ ngon hơn!”
\s5
\c 6
\p
\v 1 Vào ngày Sa-bát, khi Chúa Giê-xu cùng với các môn đồ của Ngài đi ngang qua mấy cánh đồng lúa mì, các môn đồ của Ngài ngắt lấy vài bông lúa. Họ vò chúng trong tay mình để tách hạt khỏi vỏ rồi ăn những hạt ấy.
\v 2 Một số người Pha-ri-si thấy được điều này nói với họ: “Các ông không nên làm việc trong ngày Sa-bát; luật pháp cấm chúng ta làm việc trong ngày Sa-bát!”
\s5
\v 3 Chúa Giê-xu đáp lời những người Pha-ri-si rằng: “Chắc các ông đã đọc trong Kinh Thánh chuyện vua Đa-vít đã làm khi ngài cùng những người ở với mình bị đói!
\v 4 Như các ông biết, vua Đa-vít vào đền tạm để xin ít thức ăn. Thầy tế lễ đưa cho ngài bánh đã dâng cho Đức Chúa Trời. Trong số những luật lệ của Môi-se, Đức Chúa Trời đã phán dặn chỉ có các thầy tế lễ mới được ăn bánh đó. Nhưng dù vua Đa-vít và những người của ngài không phải thầy tế lễ, ngài vẫn ăn bánh ấy và còn chia cho những người đi cùng với mình! ”
\v 5 Chúa Giê-xu cũng nói thêm với họ rằng: “Cũng vậy, Con Người có quyền quyết định điều gì được phép làm trong ngày Sa-bát!”
\s5
\v 6 Vào một ngày Sa-bát khác, khi Chúa Giê-xu đang giảng dạy trong nhà hội, tại đó có một người bị teo bàn tay phải.
\v 7 Những người dạy luật pháp Do Thái và người Pha-ri-si có mặt ở đó theo dõi nhất cử nhất động của Chúa Giê-xu. Họ muốn xem thử Ngài có chữa lành cho người ấy hay không để vu cho Ngài tội không tuân thủ luật cấm làm việc trong ngày Sa-bát.
\v 8 Nhưng Chúa Giê-xu biết họ đang nghĩ gì. Vì thế Ngài nói với người bị teo tay: “Hãy đến đây, đứng trước mặt mọi người! ” Người đó đứng dậy và làm theo.
\s5
\v 9 Rồi Chúa Giê-xu nói với họ: “Tôi hỏi các ông điều này: luật pháp Đức Chúa Trời ban cho Môi-se truyền dạy mọi người nên làm việc tốt hay việc xấu trong ngày Sa-bát? Cứu người hay giết người trong ngày Sa-bát? ”
\v 10 Không ai trả lời Ngài, thế nên Ngài nhìn quanh một lượt rồi nói với người teo tay: “Hãy giơ tay bị teo của anh ra! ” Người ấy làm theo và tay anh hoàn toàn được lành lặn!
\v 11 Nhưng những lãnh đạo tôn giáo vô cùng tức giận, họ cùng nhau bàn cách làm thế nào để loại trừ Chúa Giê-xu.
\s5
\v 12 Cách đó ít lâu, một ngày kia Chúa Giê-xu lên núi để cầu nguyện Ngài đã cầu nguyện với Đức Chúa Trời cả đêm ở tại đó.
\v 13 Ngày hôm sau, Ngài gọi tất cả các môn đồ đến gần Ngài. Trong số họ Ngài chọn mười hai người, là những người được gọi là các sứ đồ.
\s5
\v 14 Những sứ đồ này gồm có: Si-môn, người được Chúa ban cho tên mới là Phi-e-rơ; Anh-rê, em trai của Phi-e-rơ; Gia-cơ và em trai ông là Giăng; Phi-líp; Ba-thê-lê-my;
\v 15 Ma-thi-ơ, người còn có tên khác là Lê-vi; Thô-ma; Gia-cơ khác, con trai A-phê; Si-môn Xê-lốt,
\v 16 Giu-đa, con trai của một người khác có tên Gia-cơ; và Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, là kẻ về sau phản bội lại Chúa Giê-xu.
\s5
\v 17 Chúa Giê-xu đi xuống núi cùng các môn đồ và đứng ở một chỗ đất bằng. Có rất đông môn đồ củaNgài đang ở đó. Cũng có một nhóm rất đông người đến từ Giê-ru-sa-lem và nhiều nơi khác trong xứ Giu-đê, từ vùng duyên hải gần các thành Ty-rơ và Si-đôn.
\v 18 Họ đến để nghe Chúa Giê-xu dạy dỗ và để được chữa lành những bệnh tật. Ngài cũng chữa lành cho những người bị tà linh quấy nhiễu.
\v 19 Mọi người trong đám đông đều cố tìm cách chạm vào Ngài vì Ngài ra chữa lành cho mọi người bởi quyền năng của mình.
\s5
\v 20 Rồi Ngài nhìn các môn đồ và nói: “Thật tốt cho anh em là những người nghèo khó, vì Đức Chúa Trời đang cai trị anh em.
\v 21 Thật tốt cho anh em là những người đang đói, vì Đức Chúa Trời ban cho anh em mọi điều anh em cần. Thật tốt cho anh em là những người đang đau buồn, vì một ngày kia Đức Chúa Trời sẽ khiến anh em vui cười mừng rỡ.
\s5
\v 22 Thật tốt cho anh em khi những người khác ganh ghét anh em, khi họ khước từ anh em, khi họ sỉ nhục anh em và nói rằng anh em là kẻ gian ác bởi vì anh em đi theo Thầy, là Con Người.
\v 23 Khi điều đó xảy ra, hãy vui lên! Hãy nhảy nhót vì cớ anh em mừng rỡ! Đức Chúa Trời sẽ ban cho anh em phần thưởng rất lớn ở trên trời! Đừng quên rằng tổ tiên của họ cũng đã từng làm những điều tương tự với các tiên tri của Đức Chúa Trời trước đây!
\s5
\v 24 Nhưng thật đáng buồn cho anh em là người giàu có; vì sự giàu có đã đem lại cho anh em mọi tiện nghi mà anh em sẽ có được.
\v 25 Thật đáng buồn cho anh em là người nghĩ rằng mình đã có đủ mọi thứ mình cần rồi; anh em sẽ nhận thấy rằng những điều ấy chẳng làm cho anh em thỏa mãn. Thật đáng buồn cho anh em là người hiện đang vui vẻ; về sau anh em sẽ khóc lóc và buồn thảm.
\s5
\v 26 Thật đáng buồn cho anh em khi được mọi người khen tặng. Vì tổ tiên của những người ấy cũng đã từng nói tốt về những người giả dạng tuyên bố rằng mình là tiên tri của Đức Chúa Trời như vậy.
\s5
\v 27 “Nhưng Thầy nói với anh em là những người đang nghe Thầy nói rằng: Hãy yêu kẻ thù của anh em, đừng chỉ yêu bạn bè của mình! Hãy làm điều lành cho những người ghét anh em!
\v 28 Hãy xin Chúa chúc phước cho người nguyền rủa anh em! Hãy cầu nguyện cho những người đối xử tệ với anh em!
\s5
\v 29 Nếu ai đó sỉ nhục anh em bằng cách tát vào một trong hai bên má của anh em, hãy xoay mặt lại để người đó có thể tát vào má bên kia. Nếu ai đó muốn lấy áo ngoài của anh em, hãy để họ lấy luôn áo trong của anh em.
\v 30 Ai cho những ai hỏi xin anh em. Nếu ai đó đòi anh em đưa cho họ những món đồ thuộc về anh em, đừng đòi người đó trả chúng lại.
\s5
\v 31 Anh em muốn những người khác đối xử với anh em ra sao, thì đó là cách anh em nên đối xử với họ.
\v 32 Nếu anh em chỉ yêu những người yêu mình, thì đừng mong Đức Chúa Trời khen anh em bởi việc làm đó, vì ngay cả những người có tội cũng yêu người yêu mình.
\v 33 Nếu anh em chỉ làm điều tốt cho những người đối xử tốt với anh em, thì đừng mong Đức Chúa Trời thưởng cho anh em bởi việc làm đó, vì những người có tội cũng làm như vậy.
\v 34 Nếu anh em chỉ cho người có khả năng trả nợ mượn tiền hay tài sản của anh em, thì đừng mong rằng Đức Chúa Trời sẽ thưởng anh em bởi việc làm đó! Thậm chí những người có tội cũng cho những người có tội khác mượn vì họ mong người đó sẽ trả lại đầy đủ mọi thứ.
\s5
\v 35 Thay vào đó, hãy yêu kẻ thù của anh em! Làm những việc tốt cho họ! Hãy cho họ mượn và đừng mong họ sẽ trả lại! Khi đó, Đức Chúa Trời sẽ ban phần thưởng lớn cho anh em. Anh em sẽ là con của Đức Chúa Trời Chí Cao, vì Đức Chúa Trời nhân từ thậm chí đối với những người vô ơn và độc ác.
\v 36 Thế nên, anh em nên đối xử với người khác cách nhân từ, giống như Cha của anh em ở trên trời lấy lòng thương xót mà đối đãi với mọi người.
\s5
\v 37 Đừng phê phán người khác một cách khắc nghiệt thì Đức Chúa Trời sẽ không làm như vậy với anh em. Đừng lên án người khác, thì Ngài sẽ không lên án anh em. Hãy tha thứ cho người khác những việc xấu họ đã làm, thì Đức Chúa Trời sẽ tha thứ cho anh em.
\s5
\v 38 Hãy cho người khác những điều tốt, thì Đức Chúa Trời sẽ ban cho anh em những điều tốt. Điều đó sẽ giống như thể Ngài sẽ ban cho anh em một lượng hạt lúa rất lớn, nén chúng lại trong một cái giỏ và lắc chúng để chắc rằng cái giỏ đó thật sự đầy, thậm chí đến mức những hạt lúa rơi ra bên hông của giỏ! Hãy nhớ rằng, tiêu chuẩn anh em dùng để xét đoán hay chúc phước cho người khác sẽ là tiêu chuẩn mà Đức Chúa Trời dùng để xét đoán hay ban phước cho anh em!”
\s5
\v 39 Ngài cũng kể cho các môn đồ ẩn dụ này: “Một người mù không nên dắt một người mù vì cả hai sẽ rơi xuống hố!
\v 40 Người môn đồ không lớn hơn thầy của mình. Nhưng khi người đó đã được huấn luyện đầy đủ, người đó sẽ trở nên giống như thầy của mình. Vậy nên, anh em phải trở nên giống như Thầy.
\s5
\v 41 Mỗi người trong anh em đừng để ý những lỗi nhỏ của người khác. Việc ấy giống như để ý một mảnh rơm nhỏ trong mắt của người khác trong khi không nhìn thấy cả tấm ván gỗ thật lớn trong mắt của mình.
\v 42 Nếu anh em làm như vậy, anh em là kẻ đạo đức giả! Trước tiên anh em nên lấy tấm ván ra khỏi mắt mình rồi mới tìm cách để lấy hạt bụi nhỏ ra khỏi mắt của người khác. Khi anh em không phạm tội nữa thì anh em sẽ có được sự hiểu biết thuộc linh để giúp người khác từ bỏ tội lỗi của họ.
\s5
\v 43 Ai cũng biết rằng một cái cây khỏe mạnh thì không sinh trái xấu và một cái cây yếu ớt thì không sinh trái tốt.
\v 44 Và mọi người đều có thể chỉ ra cái cây ấy như thế nào bằng cách nhìn xem trái của nó ra sao. Ví dụ, bụi gai không sinh ra trái vả và bụi mâm xôi không sinh ra quả nho. Cũng vậy, thật dễ để biết con người thật của một ai đó bằng cách nhìn những việc người ấy làm.
\s5
\v 45 Người tốt làm việc tốt, là điều cho thấy họ có những ý nghĩ tốt, còn người xấu thì làm điều xấu, là điều cho thấy họ có những ý nghĩ xấu. Con người ta sẽ nói và hành động theo như những gì họ suy gĩ trong đầu mình.”
\s5
\v 46 Chúa Giê-xu nói với dân chúng rằng: “Sao anh em gọi tôi là Chúa khi anh em thậm chí không vâng theo lời tôi dạy anh em làm?
\v 47 Để tôi cho anh em biết người đến với tôi, nghe tôi dạy dỗ và làm theo là người thế nào.
\v 48 Họ giống như một người chuẩn bị xây nhà, đào xuống đất thật sâu để chuẩn bị xây nhà. Người muốn chắc rằng nền móng cho căn nhà đã được xây dựng trên đá cứng. Sau đó, có lũ lụt và dòng nước chảy xiết xô vào căn nhà ấy. Nhưng dòng nước chảy xiết cũng không lay động được căn nhà, vì nhà đã được xây trên một nền chắc chắn.
\s5
\v 49 Nhưng những người nghe những sự dạy dỗ của tôi mà không vâng theo những điều đó. Họ giống như một người xây nhà trên đất mà không có xây móng. Khi nước sông chảy tràn ra, căn nhà liền sập và hư nát hoàn toàn.”
\s5
\c 7
\p
\v 1 Sau khi Chúa Giê-xu đã nói xong với dân chúng, Ngài đi đến thành Ca-bê-na-um.
\s5
\v 2 Tại thành đó, có một viên sĩ quan trong quân đội La-mã, ông có một người nô lệ mà ông rất yêu quý. Người nô lệ này đang ốm nặng và sắp chết.
\v 3 Khi vị sĩ quan này nghe nói về Chúa Giê-xu, ông đã cử một vài trưởng lão người Do Thái tìm đến Chúa để xin Ngài đến chữa bệnh cho người nô lệ của mình.
\v 4 Khi họ đến với Chúa Giê-xu, họ thành khẩn nài xin Ngài cứu lấy người nô lệ của viên sĩ quan. Họ nói rằng: “Ông ấy xứng đáng được Thầy làm cho điều này,
\v 5 bởi vì ông ta thương người dân của mình và đã xây nhà hội cho chúng ta.”
\s5
\v 6 Vậy nên, Chúa Giê-xu bắt đầu đi cùng họ đến nhà của viên sĩ quan. Khi Ngài gần đến nơi, viên sĩ quan nhờ mấy người bạn gửi lời nhắn đến cho Chúa rằng: “Thưa Chúa, thật không dám phiền Ngài thêm nữa, vì tôi không xứng đáng để mời Chúa vào nhà của tôi.
\v 7 Tôi cũng không nghĩ mình xứng đáng để đến gặp Ngài. Nhưng Ngài chỉ cần phán một lời thì người nô lệ của tôi chắc chắn sẽ được lành.
\v 8 Tôi biết Ngài có thể làm được điều đó vì bản thân tôi là người phải tuân thủ những mệnh lệnh của các cấp trên, và tôi đồng thời cũng có quân lính là những người phải tuân theo lệnh tôi. Khi tôi bảo người này: Đi! , thì họ đi, và khi tôi bảo người khác rằng: Đến! thì họ đến.”
\s5
\v 9 Khi Chúa Giê-xu nghe những gì viên sĩ quan đã nói, thì Ngài rất ngạc nhiên về ông. Ngài quay sang đoàn dân đông đang đi cùng mình và nói: “Tôi nói với anh em, ngay trong dân Y-sơ-ra-ên tôi chưa tìm ra ai tin tôi nhiều như người ngoại quốc này đã tin! ”
\v 10 Khi những người báo tin trở về nhà viên sĩ quan, họ thấy rằng người nộ lệ đó đã khỏe mạnh trở lại.
\s5
\v 11 Ngay sau đó, Chúa Giê-xu đi đến thành Na-in. Các môn đồ và đoàn dân đông cùng đi với Ngài.
\v 12 Khi Chúa Giê-xu đến gần cổng thành, Ngài thấy một đám đông đang khiêng một người vừa qua đời đi ra. Đó là con trai duy nhất của một góa phụ. Bà đi chung với đoàn người và họ đang chuẩn bị để chôn đứa con trai của bà.
\v 13 Khi Chúa nhìn thấy bà, Ngài thương xót bà và nói với bà rằng: “Đừng khóc! ”
\v 14 Rồi Ngài đi đến gần họ và chạm vào cái cáng nơi cái xác đang nằm. Những người đang khiêng dừng lại. Ngài phán: “Này anh bạn trẻ, Ta truyền cho con, hãy thức dậy! ”
\v 15 Người đó ngồi dậy và bắt đầu nói! Rồi Chúa Giê-xu dẫn anh lại cho mẹ của mình.
\s5
\v 16 Mọi người ở tại đó đều kinh hãi. Họ ngợi khen Đức Chúa Trời và nói với nhau rằng: “Một tiên tri lớn đã đến với chúng ta! ” và: “Đức Chúa Trời đã đến để chăm sóc con cái Ngài! ”
\v 17 Tin tức về việc Chúa Giê-xu đã làm này lan ra khắp xứ Giu-đê và tất cả các vùng lân cận khác.
\s5
\v 18-19 Các môn đồ của Giăng Báp-tít kể cho ông nghe về tất cả những điều đó. Thế nên, Giăng liền gọi hai môn đồ của mình đến và bảo họ đi đến gặp Chúa và hỏi Ngài: “Thầy có phải là Đấng mà Đức Chúa Trời hứa sẽ đến hay chúng tôi còn phải đợi một đấng khác? ”
\v 20 Khi hai môn đồ này đến cùng Chúa Giê-xu, họ nói: “Giăng Báp-tít sai chúng tôi đến hỏi Thầy: Thầy có phải là Đấng mà Đức Chúa Trời hứa sẽ đến, hay chúng tôi còn phải đợi một đấng khác? ’”
\s5
\v 21 Cũng trong lúc ấy, Chúa Giê-xu đang chữa lành cho nhiều người khỏi những đau ốm và những căn bệnh nặng cũng như khỏi những tà linh. Ngài chữa lành cho nhiều người mù để họ được sáng mắt.
\v 22 Thế nên, Ngài trả lời với hai người họ rằng: “Hãy về kể lại cho Giăng những gì các anh đã nghe và thấy: những người mù nay có thể nhìn thấy được. Những người què nay đã đi lại được. Những người mắc bệnh da liễu được chữa lành. Những người điếc đã có thể nghe được. Những người chết được sống lại và tin tức tốt lành hiện đang được rao ra cho người nghèo.
\v 23 Và nói thêm với ông ấy rằng: “Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho người nào nhìn thấy việc tôi làm và nghe điều tôi dạy dỗ mà không xoay bỏ tôi.”
\s5
\v 24 Khi hai người được Giăng sai đến đã đi khỏi, Chúa Giê-xu bắt đầu nói với đoàn dân đông về Giăng. Ngài nói: “Anh em đi vào trong hoang mạc để xem gì? Một thân cây mỏng manh bị gió lay động phải không?
\v 25 Nhưng anh em đi ra đó để xem gì? Một người mặc áo sang trọng phải không? Nghe đây, những người mặc quần áo sang trọng và có mọi thứ tốt nhất thì sống ở trong những cung điện của vua.
\v 26 Vậy anh em đi ra đó để xem gì? Một tiên tri phải không? Đúng là như vậy! Nhưng tôi cho anh em hay, Giăng không chỉ là một nhà tiên tri bình thường.
\s5
\v 27 Ông là người mà từ xa xưa các tiên tri đã viết: Hãy xem, Ta sẽ sai sứ giả của Ta đi trước Con. Người sẽ chuẩn bị dân chúng cho việc Con đến.
\v 28 Tôi nói với anh em rằng, trong số tất cả những người từng sống trên đời, không ai lớn hơn Giăng. Tuy nhiên, người tầm thường nhất là người sẽ ở với Đức Chúa Trời tại nơi Ngài ngự sẽ cao trọng hơn cả Giăng.”
\s5
\v 29 Khi tất cả những người được Giăng làm báp tem nghe thấy điều Chúa Giê-xu nói, kể cả các nhân viên thu thuế, thì họ công nhận rằng Đức Chúa Trời là công chính.
\v 30 Nhưng người Pha-ri-si và những người thông thạo luật pháp Do Thái chưa được Giăng làm báp-têm cho thì chối bỏ ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho họ.
\s5
\v 31 Chúa Giê-xu còn nói rằng: “Anh em, là những người sống trong thời đại này, thì giống ai? Tôi cho anh em hay:
\v 32 Anh em giống như bọn trẻ con chơi đùa ở bên ngoài. Chúng gọi nhau mà nói rằng: “Chúng tôi lấy sáo thổi những khúc nhạc vui, mà các bạn không nhảy múa! Chúng tôi hát những bài hát đưa đám mà các bạn không khóc!”
\s5
\v 33 Cũng vậy, khi Giăng đến với anh em không ăn những thứ thực phẩm thông thường hay uống rượu, thì anh em không chấp nhận người và nói: Ông ta bị quỷ ám!
\v 34 Nhưng khi Con Người đến với anh em ăn những món ăn bình thường và uống rượu như những người khác thì anh em cũng không chấp nhận người mà nói rằng: Coi kìa, ông ta ăn qua nhiều đồ ăn và uống quá nhiều rượu, và ông ta lại còn giao du với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi khác!
\v 35 Nhưng sự khôn ngoan của Đức Chúa Trời được minh chứng là đúng bởi những người tuân giữ nó.
\s5
\v 36 Một ngày kia, có một người Pha-ri-si tên là Si-môn mời Chúa Giê-xu đến dùng bữa. Vì vậy, Chúa Giê-xu đến nhà ông và ngồi vào bàn ăn.
\v 37 Trong thành ấy cũng có một người phụ nữ mà nhiều người biết rằng cô làm nghề mại dâm. Khi cô nghe nói Chúa Giê-xu đang dùng bữa tại nhà của người Pha-ri-si nọ, cô đã tìm đến đó, mang theo một chiếc bình ngọc đựng dầu thơm.
\v 38 Khi Chúa Giê-xu đang ngồi ăn, cô đứng đằng sau, nơi chân của Ngài. Cô khóc và nước của cô rơi xuống nơi chân Chúa. Cô cứ lấy tóc mình mà lau và hôn chân Ngài, rồi lấy dầu thơm xức lên.
\s5
\v 39 Khi người Pha-ri-si đã mời Chúa Giê-xu thấy việc người phụ nữ đó làm, ông thầm nghĩ: “Nếu ông ta thật là một tiên tri thì chắc ông phải biết người phụ nữ đang chạm đến mình đó là ai, thuộc hạng người nào, rằng cô ta là một người tội lỗi. ”
\v 40 Để đáp lời, Chúa Giê-xu nói với ông: “Si-môn này, có vài điều tôi muốn nói với ông. ” Ông thưa: “Thưa thầy, đó là gì ạ?”
\s5
\v 41 Ngài kể cho ông nghe câu chuyện sau: “Có hai người cùng mắc nợ, một người chuyên cho người khác vay mượn. Một người nợ năm trăm đồng bạc, người kia nợ năm mươi đồng bạc.
\v 42 Vì hai người đều không thể trả nổi số nợ ấy, nên người chủ nợ nhân từ đã nói rằng họ không cần phải trả lại bất cứ thứ gì cả. Vậy, trong hai người ấy người nào yêu mến ông chủ nợ nhiều hơn? ”
\v 43 Si-môn thưa: “Tôi nghĩ là người nợ nhiều hơn sẽ yêu mến người chủ nợ nhiều hơn. ” Chúa Giê-xu nói với ông: “Đúng vậy.”
\s5
\v 44 Rồi Ngài quay về phía người phụ nữ và nói với Si-môn: “Thử nghĩ về việc người phụ nữ này đã làm mà xem! Khi tôi vào nhà ông, ông đã không thực hiện những điều mà những người chủ nhà thường làm để tiếp đón những vị khách của họ. Ông không đem nước cho tôi rửa chân, nhưng người phụ nữ này đã dùng nước mắt để rửa chân cho tôi, rồi lại lấy tóc mình mà lau!
\v 45 Ông không chào tôi bằng một cái hôn, nhưng từ khi tôi vào nhà, người phụ nữ này không ngừng hôn chân tôi!
\s5
\v 46 Ông không xức dầu ô-liu lên đầu tôi, nhưng người phụ nữ này đã dùng dầu thơm xức chân tôi.
\v 47 Cho nên, tôi nói với ông rằng tội lỗi của cô ấy nhiều lắm và đã được tha hết và đó là lý do cô ấy yêu mến tôi rất nhiều. Còn người nghĩ rằng mình chỉ phạm một ít tội, và đã được tha thứ rồi, thì chỉ yêu mến tôi một chút ít mà thôi.”
\s5
\v 48 Rồi Ngài nói với người phụ nữ: “Tội lỗi của cô đã được tha rồi. ”
\v 49 Những người cùng ngồi ăn với Ngài nói với nhau: “Người này là ai mà lại nói rằng mình có quyền để tha tội? ”
\v 50 Nhưng Chúa Giê-xu nói với người phụ nữ: “Vì cô đã tin nơi tôi nên Đức Chúa Trời đã cứu cô. Nguyện Đức Chúa Trời ban cho cô sự bình an khi đi!”
\s5
\c 8
\p
\v 1 Sau đó, Chúa Giê-xu cùng mười hai sứ đồ đi vòng khắp các thành phố và làng mạc. Khi họ đi, Chúa Giê-xu rao giảng cho người dân, công bố tin mừng về việc Đức Chúa Trời sẽ sớm bày tỏ chính Ngài ra như một vị vua.
\v 2 Cùng đi với họ có mấy người phụ nữ đã được Ngài chữa lành khỏi tà linh và bệnh tật. Trong đó có Ma-ri đến từ làng Ma-đơ-len, là người đã được Chúa đuổi bảy quỷ dữ ra khỏi,
\v 3 Gian-nơ, vợ Chu-xa, quản gia của Vua Hê-rốt An-ti-pa, Su-xan-nơ và nhiều người khác. Họ đã dùng tiền của mình để hỗ trợ cho Chúa Giê-xu và các môn đồ của Ngài.
\s5
\v 4 Một ngày nọ, khi đoàn dân đông tụ họp lại bởi nhiều người từ các thánh khác nhau đã đến để tìm gặp Chúa Giê-xu. Ngài đã kể cho họ câu chuyện này:
\v 5 “Một người đi ra đồng để gieo giống. Khi đang rải những hạt giống ra trên đất, một số hạt giống rơi trên đường đất cứng. Nó bị người đi đường dẫm lên và chim chóc đến ăn hết.
\v 6 Vài hạt rơi trên đất đá nơi gần như không có đất thịt. Do đó, ngay khi hạt giống đâm chồi chúng nhanh chóng khô héo bởi vì không có độ ẩm.
\s5
\v 7 Một số hạt giống khác rơi chỗ đất có những hạt giống của những cây gai. Những cây gai mọc lên cùng với cây lúa và chúng lấn át làm cho cây lúa không thể lớn lên được.
\v 8 Nhưng một số hạt giống rơi vào chỗ đất màu mỡ, phát triển khỏe mạnh và cho vụ mùa kết quả gấp trăm lần những hạt giống được gieo. ” Sau khi đã nói những điều này, Chúa Giê-xu lớn tiếng nói với họ rằng: “Anh em hãy suy ngẫm thật kỹ về những điều anh em vừa nghe tôi nói!”
\s5
\v 9 Sau đó, các môn đồ của Chúa Giê-xu đã xin Ngài nói cho họ biết ý nghĩa của câu chuyện.
\v 10 Ngài nói: “Anh em đã được ban cho đặc ân hiểu biết những điều bí ẩn về cách Đức Chúa Trời sẽ cai trị như một vị vua. Nhưng Thầy chỉ dùng những ẩn dụ để nói với những người khác, để họ, Mặc dầu thấy, nhưng không thể nhận thức được, mặc dầu nghe, nhưng không hiểu được.
\s5
\v 11 Câu chuyện ấy có ý nghĩa thế này: Những hạt giống tượng trưng cho lời của Đức Chúa Trời.
\v 12 Những hạt giống rơi trên đường đi cho thấy điều gì xảy ra với những người nghe lời Đức Chúa Trời, nhưng sau đó ma quỷ đến cướp lấy lời ấy ra khỏi lòng và tâm trí của họ. Kết quả là họ không tin lời ấy và không được cứu.
\v 13 Những hạt giống rơi xuống đất đá cho thấy điều gì xảy ra với những người nghe lời Chúa và vui mừng nhận lấy, nhưng họ không có rễ sâu. Kết quả là họ chỉ tin một thời gian ngắn. Ngay khi những khó khăn xảy đến với họ, họ không còn tin lời Chúa nữa.
\s5
\v 14 Những hạt giống rơi vào giữa những cây gai cho thấy điều gì xảy ra với những người nghe lời Đức Chúa Trời, nhưng trong đời sống hàng ngày của mình, họ để cho những thứ như sự lo lắng, giàu sang và vui thú đời này lấn át lời Chúa ra khỏi đời sống của họ. Kết quả là họ không thể trưởng thành về mặt thuộc linh.
\v 15 Còn những hạt giống rơi trên đất tốt cho thấy điều gì xảy ra với những người nghe lời Đức Chúa Trời và tiếp nhận nó với lòng kính trọng và ngay thẳng. Họ kiên trì trong đức tin và làm theo lời Chúa, thế nên họ sản sinh ra trái thuộc linh tốt.
\s5
\v 16 Sau khi thắp đèn, người ta không lấy thùng đậy nó lại hay để nó dưới gầm giường. Thay vào đó, họ sẽ đặt nó trên chân đèn để mọi người vào phòng đều nhìn thấy nhờ ánh sáng của nó.
\v 17 Điều này cho thấy rằng đến một ngày nào đó, mọi sự giấu kín sẽ bị lộ ra. Và mọi điều bí mật trong hiện tại một ngày nào đó sẽ bị phơi bày ra.
\v 18 Vì vậy, hãy chắc rằng anh em nghe cho kỹ lời Thầy, bởi vì Đức Chúa Trời sẽ ban cho những người tin nơi chân lý của Ngài sự hiểu biết ngày một nhiều hơn. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ khiến những ai không tin nơi chân lý của Ngài không hiểu được ngay cả những điều nhỏ nhất mà người ấy tưởng rằng mình đã hiểu.”
\s5
\v 19 Một ngày kia, Mẹ và anh em của Chúa Giê-xu đến tìm Ngài, nhưng vì trong nhà quá đông người vây xung quanh Ngài nên họ không thể đến gần Ngài được.
\v 20 Có người báo cho Ngài biết rằng: “Mẹ và anh em Thầy đang đứng bên ngoài, muốn gặp Thầy. ”
\v 21 Nhưng Ngài đáp lời họ rằng: “Mẹ và anh em tôi là những người nghe và làm theo lời Đức Chúa Trời."
\s5
\v 22 Vào một ngày khác, Chúa Giê-xu cùng các môn đồ đi xuống thuyền. Ngài bảo họ: “Chúng ta hãy sang bờ hồ bên kia. ” Vậy nên, họ bắt đầu chèo thuyền đi băng qua hồ.
\v 23 Nhưng trong lúc họ đang chèo thuyền thì Chúa Giê-xu ngủ. Một cơn bão lớn nổi lên trên hồ. Không lâu sau thuyền đã ngập nước và họ đang gặp nguy hiểm.
\s5
\v 24 Các môn đồ của Chúa Giê-xu đi đến chỗ của Ngài và đánh thức Ngài dậy. Họ nói với Ngài rằng: “Thầy ơi! Thầy ơi! chúng ta sắp chết rồi! ” Ngài thức dậy, ra lệnh cho gió và những cơn sóng lớn hãy yên lặng, chúng liền trở nên tĩnh lặng. Mọi thứ trở nên yên bình
\v 25 Rồi Ngài nói với các môn đồ: “Sao đức tin của anh em lại yếu như vậy? ” Các môn đồ sợ hãi và ngạc nhiên trước sự việc vừa xảy ra. Họ không ngừng hỏi nhau: “Người này là ai mà có thể ra lệnh cho gió và nước và chúng vâng lệnh Ngài?”
\s5
\v 26 Chúa Giê-xu và môn đồ tiếp tục chèo thuyền đến nơi người Giê-ra-sê sinh sống, ở bên bờ đối diện xứ Ga-li-lê.
\v 27 Sau khi Chúa Giê-xu ra khỏi thuyền để lên bờ, Ngài gặp một người đến từ một thành ở trong vùng ấy. Người này bị các quỷ nhập. Đã lâu anh ta không mặc quần áo và không ở trong nhà. Thay vào đó, anh ta sống ở những cái hang chôn người chết.
\s5
\v 28 Khi nhìn thấy Chúa Giê-xu, người ấy la lên, sấp mình xuống trước mặt Ngài và lớn tiếng nói rằng: “Lạy Giê-xu, Con Đức Chúa Trời Chí Cao, Ngài muốn gì ở tôi? Tôi van Ngài, đừng làm khổ tôi! ”
\v 29 Anh ta nói vậy vì Chúa Giê-xu vừa ra lệnh cho những tà linh ra khỏi anh. Để canh giữ anh, người ta đã xiềng tay chân anh bằng xích, nhưng nhiều lần tà linh bất ngờ nhập vào anh. Khi đó, anh bẻ những xiềng xích và ma quỷ đưa anh vào nơi hoang vắng.
\s5
\v 30 Chúa Giê-xu hỏi anh: “Ngươi tên gì? ” Anh đáp: “Tên tôi là Hàng Ngàn. ” Anh nói vậy là vì có nhiều quỷ nhập vào anh.
\v 31 Lũ quỷ không ngừng nài xin Chúa Giê-xu ra lệnh cho chúng xuống vực sâu là nơi Đức Chúa Trời hình phạt các quỷ.
\s5
\v 32 Lúc ấy có một đàn heo rất đông đang ăn trên sườn núi gần đó. Các quỷ cầu xin Chúa Giê-xu cho phép chúng nhập vào đàn heo và Ngài cho phép chúng.
\v 33 Thế nên các quỷ liền ra khỏi người này và nhập vào đàn heo, cả đàn heo chạy nhanh xuống bờ dốc lao xuống hồ và chết đuối.
\s5
\v 34 Khi những người chăn heo thấy việc đã xảy ra, họ liền chạy trốn! Họ báo tin ấy cho những người ở trong thành và ở thôn quê.
\v 35 Mọi người chạy ra xem việc gì đã xảy ra. Khi họ đến nơi Chúa Giê-xu, họ thấy người đàn ông các quỷ vừa ra khỏi đang ngồi dưới chân Chúa Giê-xu, nghe Ngài dạy dỗ. Họ thấy anh đã mặc quần áo và tâm trí đã bình thường trở lại thì họ rất sợ hãi.
\s5
\v 36 Những người đã chứng kiến sự việc kể lại cho những người mới đến về việc Chúa Giê-xu đã chữa lành cho người bị quỷ ám như thế nào.
\v 37 Nhiều người sống quanh vùng Giê-ra-sê yêu cầu Chúa Giê-xu ra khỏi khu vực của họ vì họ quá sợ hãi. Vậy nên, Chúa Giê-xu cùng các môn đồ đã xuống thuyền băng qua bờ hồ để trở về.
\s5
\v 38 Trước khi họ rời khỏi, người vừa được giải thoát khỏi các quỷ cầu xin Chúa Giê-xu rằng: “Xin cho tôi đi với thầy! ” Nhưng thay vì cho phép, Chúa Giê-xu cho anh về và nói rằng:
\v 39 “Không, hãy về nhà và kể lại cho mọi người những việc mà Đức Chúa Trời đã làm cho anh! ” Vậy, người này trở về và đi khắp thành kể cho mọi người nghe về những việc mà Chúa Giê-xu đã làm cho mình.
\s5
\v 40 Chúa Giê-xu và các môn đồ băng qua hồ trở về Ca-bê-na-um. Có một đoàn dân đông đang đón đợi Ngài tại đó.
\v 41 Lúc ấy, có một người tên là Giai-ru, một trong số những lãnh đạo của nhà hội tại đó, đến gần Chúa Giê-xu và úp mặt xuống trước Ngài. Ông nài xin Chúa Giê-xu đến nhà mình,
\v 42 vì đứa con gái duy nhất của ông, mới mười hai tuổi, đang hấp hối và ông mong Chúa Giê-xu sẽ chữa lành cho đứa bé. Nhưng khi Chúa Giê-xu đi thì nhiều người đã xúm lại xung quanh Ngài.
\s5
\v 43 Khi đó, trong đám đông có một phụ nữ đã bị bệnh rong huyết suốt mười hai năm. Bà đã dùng hết tiền bạc của mình để trả cho những thầy thuốc chữa bệnh cho bà, nhưng không một thầy thuốc nào chữa được cho bà.
\v 44 Bà đến đằng sau Chúa Giê-xu, chạm vào gấu áo của Ngài. Lập tức bệnh rong huyết của bà đã dứt.
\s5
\v 45 Chúa Giê-xu nói: “Ai đã chạm vào tôi? ” Mọi người xung quanh Chúa Giê-xu đều nói rằng họ không có chạm vào Ngài, nên Phi-e-rơ thưa: “Thưa Thầy, xung quanh Thầy có quá đông người chen lấn nên bất cứ ai trong số họ cũng có thể chạm vào Thầy! ”
\v 46 Nhưng Chúa Giê-xu đáp: “Thầy biết có người cố ý chạm vào Thầy, vì năng lực ra từ Thầy đã chữa lành cho người ấy.”
\s5
\v 47 Khi người đàn bà đó thấy rằng mình không thể giấu được nữa thì bà run sợ bước đến và úp mặt xuống đất trước Ngài. Trong khi những người khác đang lắng nghe, bà thưa với Chúa Giê-xu lý do bà chạm vào Ngài và rằng bà đã ngay lập tức được chữa lành ra sao.
\v 48 Chúa Giê-xu nói với bà: “Chị thân mến, vì chị đã tin rằng tôi có thể chữa lành cho chị, nên chị đã được lành. Bây giờ, chị có thể đi và nguyện sự bình an của Đức Chúa Trời ở với chị.”
\s5
\v 49 Khi Ngài đang nói với người phụ nữ đó, có người từ nhà Giai-ru đến và nói với ông rằng: “Con gái ông đã mất. Thế nên, đừng làm phiền Thầy nữa! ”
\v 50 Nhưng khi Chúa Giê-xu nghe thấy điều đó, Ngài nói với Giai-ru rằng: “Đừng sợ, hãy tin tôi thì con gái ông sẽ sống lại.”
\s5
\v 51 Khi Ngài đến bên ngoài nhà, Chúa Giê-xu không cho phép bất cứ ai đi vào trong nhà cùng Ngài, ngoại trừ Phi-e-rơ, Giăng, Gia-cơ, và cha mẹ của đứa bé.
\v 52 Tất cả những người ở đó đều kêu khóc lớn tiếng để cho thấy rằng họ đau buồn thế nào bởi việc cô bé đã mất. Nhưng Chúa Giê-xu nói với họ: “Đừng khóc, đứa bé chưa chết đâu, nó chỉ ngủ mà thôi! ”
\v 53 Mọi người cười nhạo Ngài vì họ biết đứa bé ấy đã chết rồi.
\s5
\v 54 Nhưng Chúa Giê-xu cầm tay đứa bé và gọi nó: “Con ơi, hãy thức dậy đi! ”
\v 55 Lập tức, linh hồn của đứa bé trở lại thân thể của nó và đứa bé ngồi dậy. Chúa Giê-xu bảo họ đem thức ăn đến cho đứa bé.
\v 56 Cha mẹ cô bé rất kinh ngạc nhưng Chúa Giê-xu dặn họ chưa nên nói cho ai biết việc đã xảy ra.
\s5
\c 9
\p
\v 1 Sau đó, Chúa Giê-xu gọi mười hai sứ đồ đến và ban cho họ quyền và năng lực để đuổi các thứ quỷ và để chữa lành những bệnh tật.
\v 2 Ngài sai họ ra đi để chữa lành cho mọi người và dạy họ về việc Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ chính Ngài như một vị vua.
\s5
\v 3 Trước khi họ đi, Ngài nói với họ: “Đừng đem gì theo khi đi đường. Đừng đem gậy, túi xách, thức ăn hay tiền bạc. Thậm chí, cũng đừng đem thêm áo.
\v 4 Bất cứ nhà nào anh em vào, hãy ở lại đó cho đến khi anh em rời khỏi khu vực đó.
\s5
\v 5 Thành nào người ta không tiếp đón anh em, thì anh em đừng nên tiếp tục ở lại đó. Khi ra khỏi thành hãy phủi bụi khỏi chân. Hãy làm điều đó như một lời cảnh cáo đối với họ vì đã hắt hủi anh em. ”
\v 6 Vậy, các sứ đồ của Chúa Giê-xu rời đi, họ băng qua rất nhiều làng mạc. Đi đến đâu họ cũng đều nói với mọi người về tin tức tốt lành đến từ Đức Chúa Trời và chữa lành những người bệnh.
\s5
\v 7 Hê-rốt, người cai trị xứ Ga-li-lê, nghe nói về mọi việc đang xảy ra. Ông rất hoang mang vì một số người nói rằng Giăng Báp-tít đã sống lại.
\v 8 Những người khác thì nói rằng tiên tri Ê-li đã hiện ra, còn một số người khác nữa thì nói rằng một trong các tiên tri thuở xưa đã sống lại.
\v 9 Nhưng Hê-rốt nói: “Không thể là Giăng được vì trẫm đã chặt đầu hắn rồi. Vậy thì người mà trẫm nghe nói đã làm những việc này là ai? ” Và vua luôn tìm cách để gặp Chúa Giê-xu.
\s5
\v 10 Khi các sứ đồ trở về sau chuyến hành trình của mình, họ kể lại cho Chúa Giê-xu mọi việc họ đã làm. Ngài đem họ riêng ra để đi với Ngài đến thành Bết-sai-đa.
\v 11 Nhưng khi những đám đông biết được nơi Ngài đã đi đến, họ đi theo Ngài đến đó. Ngài chào đón họ và nói với họ về việc Đức Chúa Trời sẽ sớm bày tỏ chính Ngài như một vị vua và Ngài chữa lành cho những ai cần được chữa lành.
\s5
\v 12 Khi thì giờ đã trễ, mười hai sứ đồ đến với Chúa và thưa rằng: “Xin hãy để cho dân chúng đi để họ đi vào các làng mạc và nông trại quanh đây mà mua thức ăn và tìm chỗ để nghỉ lại, vì chỗ này hoang vắng quá. ”
\v 13 Nhưng Ngài nói với họ rằng: “Anh em phải cho họ gì đó để ăn! ” Họ thưa: “Tất cả những gì chúng ta có chỉ là năm ổ bánh mì và hai con cá nhỏ. Chúng ta không thể đi mua đủ thức ăn cho tất cả những người này được! ”
\v 14 Họ nói vậy bởi vì tại đó có khoảng năm ngàn người nam. Chúa Giê-xu nói với các môn đồ rằng: “Hãy bảo dân chúng ngồi thành từng nhóm, mỗi nhóm khoảng năm mươi người.”
\s5
\v 15 Họ làm theo và bảo mọi người ngồi xuống.
\v 16 Ngài cầm lấy năm cái bánh và hai con cá. Ngài ngước mắt lên trời và tạ ơn Đức Chúa Trời về chúng. Sau đó, Ngài bẻ chúng ra thành từng mảnh và đưa cho các môn đồ để phân phát cho dân chúng.
\v 17 Mọi người đều ăn và mọi người đều có đủ thức ăn. Sau đó, các môn đồ thu lại những mẫu thức ăn còn thừa được mười hai giỏ đầy!
\s5
\v 18 Ngày nọ, khi Chúa Giê-xu đang cầu nguyện riêng, các môn đồ đến với Ngài và Ngài hỏi họ rằng: “Dân chúng nói Thầy là ai? ”
\v 19 Họ thưa: “Người thì nói Thầy là Giăng Báp-tít, nhưng số khác thì nói Thầy là tiên tri Ê-li và còn những người khác nữa thì cho rằng Thầy là một trong số các tiên tri thuở xưa đã sống lại.”
\s5
\v 20 Ngài hỏi họ: “Còn anh em thì sao? Anh em nói Thầy là ai? ” Phi-e-rơ thưa: “Thầy là Đấng Mê-si-a đến từ Đức Chúa Trời. ”
\v 21 Chúa Giê-xu nghiêm cấm họ không được nói điều đó với bất cứ ai.
\v 22 Ngài nói: “Thầy, là Con Người, phải chịu nhiều đau khổ: Thầy phải bị các trưởng lão, các thầy tế lễ cả và các thầy dạy luật người Do Thái loại trừ và Thầy sẽ bị giết. Rồi đến ngày thứ ba sau việc đó, Thầy sẽ sống lại.”
\s5
\v 23 Rồi Ngài lại nói mọi người, “Nếu ai muốn theo tôi để làm môn đồ tôi, thì anh em không được chỉ làm điều mình muốn. Mà mỗi ngày anh em phải sẵn sàng chịu khổ, thậm chí đến mức phải bỏ mạng sống mình.
\v 24 Anh em phải làm như vậy, vì ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất nó đời đời, còn ai chịu mất mạng sống mình vì là môn đồ tôi thì sẽ cứu được mạng sống của mình đời đời.
\v 25 Nếu anh em có được mọi thứ trong thế giới này nhưng cuối cùng phải mất đi, hay thậm chí là bỏ đi chính mình thì điều đó có ích lợi gì?
\s5
\v 26 Người nào khước từ sứ điệp của tôi và chối rằng họ không thuộc về tôi thì tôi, Con Người, cũng sẽ không xác nhận rằng người ấy thuộc về mình khi tôi trở lại trong vinh quang của mình và trong vinh quang của Cha và của các thiên sứ thánh.
\v 27 Nhưng tôi nói với anh em điều này: một vài người đang đứng đây sẽ không chết trước khi thấy Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài ra như một vị vua!”
\s5
\v 28 Khoảng tám ngày sau khi Chúa Giê-xu nói những lời đó, Ngài đưa Phi-e-rơ, Giăng và Gia-cơ cùng đi lên một ngọn núi để cầu nguyện tại đó.
\v 29 Trong khi Ngài đang cầu nguyện, vẻ mặt của Ngài trở nên rất khác và quần áo của Ngài trở nên trắng sáng, chói lóa như tia chớp.
\s5
\v 30 Bỗng nhiên, có hai tiên tri thuở xưa đang trò chuyện với Chúa Giê-xu; họ là Môi-se và Ê-li.
\v 31 Họ hiện ra trong vinh quang và nói với Chúa Giê-xu về sự ra đi của Ngài, là việc sắp được xảy ra tại thành Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 32 Phi-e-rơ và các môn đồ ở cùng với Ngài đã quá buồn ngủ. Khi họ tỉnh dậy, họ thấy vinh quang của Chúa Giê-xu; họ cũng thấy hai người đang đứng với Ngài.
\v 33 Khi Môi-se và Ê-li chuẩn bị rời khỏi Chúa Giê-xu, Phi-e-rơ thưa với Ngài rằng: “Thưa Thầy, ở đây tốt lắm! Chúng ta nên dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho Môi-se và một cho Ê-li! ” Nhưng ông thực sự không biết mình đang nói gì.
\s5
\v 34 Khi ông đang nói những điều này, thì một đám mây kéo đến bao phủ họ.
\v 35 Từ trong đám mây có tiếng Đức Chúa Trời phán với họ rằng: “Đây là Con Trai Ta, Người mà Ta đã chọn; hãy nghe lời Người! ”
\v 36 Khi tiếng ấy vừa dứt, ba môn đồ chỉ còn thấy một mình Chúa Giê-xu mà thôi. Họ giữ im lặng và suốt một thời gian dài họ không nói với bất kỳ ai về điều mình đã thấy.
\s5
\v 37 Hôm sau, khi họ đã xuống núi, có đoàn dân đông đến gặp Chúa Giê-xu.
\v 38 Bất ngờ, giữa đám đông có một người la lớn lên rằng: “Thưa Thầy, tôi van Thầy hãy làm điều gì đó để cứu con trai tôi! Nó là đứa con duy nhất của tôi.
\v 39 Một tà linh đột nhiên đã ám vào nó và khiến nó kêu la. Quỷ ấy vật dữ dội và làm cho nó sùi bọt mép. Quỷ hiếm khi ra khỏi đứa bé và mỗi lần như vậy nó lại khiến đứa nhỏ bị thương nghiêm trọng.
\v 40 Tôi đã xin các môn đồ của Thầy truyền lệnh cho quỷ ấy ra khỏi đứa bé nhưng họ không thể làm được!”
\s5
\v 41 Chúa Giê-xu đáp: “Thế hệ này không chịu tin thế nên tư tưởng của anh em đã hư hoại! Tôi còn phải ở với anh em bao lâu để anh em chịu tin đây? ” Rồi Ngài nói với cha cậu bé: “Hãy đưa con trai ông đến đây cho tôi! ”
\v 42 Trong khi họ đưa cậu bé đến, quỷ vật nó xuống đất và khiến nó vật vã dữ dội. Nhưng Chúa Giê-xu quở trách tà linh và chữa lành cho cậu bé. Rồi Ngài giao đứa bé lại cho cha nó.
\s5
\v 43 Mọi người đều kinh ngạc trước quyền năng lớn lao của Đức Chúa Trời. Trong lúc họ còn đang ngạc nhiên trước các phép lạ Chúa Giê-xu đã làm, Ngài nói với các môn đồ rằng
\v 44 “Hãy lắng nghe cho kỹ những gì Thầy sắp nói đây: Thầy, tức Con Người, sắp bị nộp vào tay những kẻ thù của Thầy. ”
\v 45 Nhưng các môn đồ không hiểu ý Ngài muốn nói là gì. Đức Chúa Trời đã ngăn không cho họ hiểu được điều đó, nên họ chưa thể hiểu được Chúa Giê-xu muốn nói gì và họ sợ không dám hỏi Ngài về điều Ngài vừa nói.
\s5
\v 46 Sau đó ít lâu, các môn đồ bắt đầu tranh cãi với nhau về việc trong đám họ, ai sẽ là người quan trọng nhất.
\v 47 Nhưng Chúa Giê-xu biết họ đang nghĩ gì nên Ngài đem một đứa trẻ đến đứng cạnh mình.
\v 48 Ngài nói với họ: “Nếu người nào vì Ta mà đón tiếp một đứa trẻ như thế này, thì điều đó đồng nghĩa với việc tiếp đón Thầy. Và nếu ai tiếp đón Thầy tức là tiếp Đức Chúa Trời, Đấng đã sai Thầy đến. Hãy nhớ rằng những người nào dường như là kém quan trọng nhất trong anh em thì đó là những người được Đức Chúa Trời kể là quan trọng nhất.”
\s5
\v 49 Giăng thưa cùng Chúa Giê-xu: “Thưa Thầy, chúng tôi thấy có một người nhân danh Thầy để truyền lệnh cho ma quỷ ra khỏi người ta. Thế nên chúng tôi đã cấm vì người đó làm như vậy vì người đó không đi theo Thầy như một phần của nhóm chúng ta. ”
\v 50 Nhưng Chúa Giê-xu nói: “Đừng cấm người ấy làm điều đó! Người nào không làm gì gây hại cho anh em tức là họ đang giúp đỡ cho anh em!”
\s5
\v 51 Gần đến ngày Đức Chúa Trời đem Ngài về trời, Chúa Giê-xu quyết định đi đến thành Giê-ru-sa-lem.
\v 52 Ngài sai vài sứ giả đi trước Ngài, họ vào một làng thuộc khu vực Sa-ma-ri và chuẩn bị cho Ngài đến đó.
\v 53 Nhưng người Sa-ma-ri không cho Chúa Giê-xu đi vào làng của họ vì Ngài đang trên đường đi đến Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 54 Khi hai môn đồ của Chúa là Gia-cơ và Giăng nghe vậy, họ thưa: “Thưa Chúa, Chúa có muốn chúng con xin Đức Chúa Trời giáng lửa từ trời xuống thiêu hủy họ không? ”
\v 55 Nhưng Chúa Giê-xu quay lại và nghiêm khắc nói rằng họ đã sai khi nói ra điều đó.
\v 56 Rồi họ đi qua làng khác.
\s5
\v 57 Khi Chúa Giê-xu và các môn đồ đang đi trên đường, có người đến thưa với Ngài: “Thầy đi đâu con sẽ theo đó! ”
\v 58 Chúa Giê-xu đáp: “Loài cáo có hang ở dưới đất để sống, loài chim thì có tổ, nhưng Thầy, là Con Người, thì không có nhà để ngủ!”
\s5
\v 59 Ngài nói với một người khác: “Hãy đi theo Thầy! ” Nhưng người ấy nói: “Thưa Chúa, xin cho tôi được về nhà chôn cha sau khi người qua đời trước đã. ”
\v 60 Nhưng Chúa Giê-xu nói với anh: “Hãy để người chết chôn sự chết của mình; còn anh hãy đi khắp nơi và nói với mọi người về việc Đức Chúa Trời sẽ sớm bày tỏ chính Ngài ra như một vị vua!”
\s5
\v 61 Một người khác nữa thưa: “Thưa Chúa, tôi sẽ đi theo và làm môn đồ của Chúa, nhưng xin cho tôi về nhà để từ giã người nhà trước đã. ”
\v 62 Chúa Giê-xu nói với anh: “Người nào đã bắt đầu cày ruộng của mình mà còn nhìn lại phía sau thì không thể phục vụ Đức Chúa Trời khi Ngài làm Vua cai trị trên muôn vật như một vị vua được.”
\s5
\c 10
\p
\v 1 Sau đó, Chúa Giê-xu đã chỉ định bảy mươi người khác để đi rao giảng. Ngài chuẩn bị sai từng đôi đi trước Ngài đến các thành và làng mạc nơi Ngài dự định sẽ đến.
\v 2 Ngài nói với họ: “Vụ mùa thì chắc chắn là bội thu, nhưng thợ gặt thì ít. Thế nên, hãy cầu nguyện với Chúa của vụ mùa và xin Ngài sai thêm thợ gặt đến để thu hoạch vụ mùa của Ngài.
\s5
\v 3 Bây giờ anh em hãy đi đi, nhưng phải nhớ rằng Thầy sai anh em đi để truyền đạt thông điệp của Thầy cho những người luôn tìm cách diệt trừ anh em. Anh em sẽ giống như những con chiên ở giữa bầy sói.
\v 4 Đừng đem theo tiền. Đừng đem theo túi xách. Đừng đem thêm giày dép. Đừng dừng lại để chào hỏi bất cứ ai trên đường đi.
\s5
\v 5 Hễ vào nhà nào, trước hết hãy nói với họ, Nguyện Đức Chúa Trời ban bình an mọi người ở trong nhà này!
\v 6 Nếu những người trong nhà đó ao ước nhận được sự bình an của Đức Chúa Trời, thì họ sẽ kinh nghiệm được sự bình an mà anh em đem lại cho họ. Nếu những người ở tại đó không muốn nhận được sự bình an của Đức Chúa Trời, thì sự bình an ấy sẽ trở về với anh em.
\v 7 Hãy ở lại nhà đó cho đến khi anh em rời khỏi nơi đó đi qua làng khác. Đừng ở hết nhà này sang nhà khác. Hãy ăn và uống bất cứ thứ gì họ tiếp đãi anh em, vì người làm công đáng được nhận tiền lương cho công việc mình làm.
\s5
\v 8 Khi anh em vào thành mà người dân ở đó đón tiếp anh em, hãy ăn đồ họ dọn cho anh em.
\v 9 Hãy chữa lành những người bệnh. Hãy nói với họ: Đức Chúa Trời sẽ sớm làm Vua cai trị khắp nơi.
\s5
\v 10 Nhưng nếu anh em vào một thành mà người ta không tiếp rước anh em, thì hãy đi ra ngoài đường cái mà nói rằng:
\v 11 Đây là lời cảnh báo chống lại các người, chúng tôi sẽ phủi bụi dính dưới chân và rời khỏi thành của các người. Nhưng các người nên biết điều này; Đức Chúa Trời sẽ sớm làm Vua cai trị trên muôn vật.
\v 12 Thầy bảo với anh em rằng, đến ngày cuối cùng khi Đức Chúa Trời phán xét mọi người, thì những người trong thành ấy sẽ phải chịu hình phạt nặng hơn những kẻ gian ác sống trong thành Sô-đôm khi xưa!
\s5
\v 13 Khốn cho các người là dân sống trong thành Cô-ra-xin và Bết-sai-đa, vì các người không chịu ăn năn! Nếu các phép lạ tôi đã làm trước mặt các người được thực hiện tại các thành Ty-rơ và Si-đôn ngày xưa thì những người gian ác sống tại đó trước đây đã tỏ ra ân hận về những tội lỗi của mình bằng cách ngồi dưới đất, mặc áo vải thô và đội tro lên đầu.
\v 14 Thế nên đến ngày phán xét cuối cùng, Đức Chúa Trời sẽ hình phạt các người nặng nề hơn dân thành Ty-rơ và Si-đôn vì các người không chịu ăn năn và tin nơi tôi mặc dù các người đã thấy các phép lạ tôi làm!
\v 15 Tôi cũng có vài điều để nói với các người là dân sống trong thành Ca-bê-na-um. Các người tưởng mình sẽ được tôn vinh trên trời ư? Trái lại, các người sẽ bị kéo xuống nơi của người chết!”
\s5
\v 16 Chúa Giê-xu cũng nói với các môn đồ, “Ai nghe sứ điệp của anh em, tức là nghe Thầy, và ai không tiếp nhận thông điệp của anh em, tức là không tiếp nhận Thầy. Và ai không tiếp nhận Thầy tức là không tiếp nhận Đức Chúa Trời, Đấng đã sai Thầy đến.”
\s5
\v 17 Bảy mươi người được Chúa Giê-xu chỉ định ra đi và làm theo mọi điều Ngài dặn họ. Khi trở về, họ rất vui mừng. Họ thưa rằng: “Thưa Chúa, bởi thẩm quyền của Chúa, thậm chí các quỷ cũng phải vâng lời chúng tôi khi chúng tôi ra lệnh cho chúng ra khỏi những người bị chúng ám! ”
\v 18 Ngài đáp: “Trong khi anh em ra đi để làm điều đó, Thầy đã thấy Sa-tan từ trời sa xuống đột ngột và nhanh chóng như sấm chớp vậy!
\v 19 Hãy nghe đây! Thầy đã ban cho anh em quyền để tấn công các tà linh. Chúng sẽ không làm hại anh em. Thầy đã ban cho anh em quyền mạnh hơn Sa-tan, là kẻ thù của chúng ta. Không gì có thể làm hại anh em.
\v 20 Nhưng nếu anh em vui vì những tà linh vâng lời mình thì anh em nên vui mừng hơn nữa vì tên của anh em đã được ghi trên trời.”
\s5
\v 21 Ngay lúc đó, Chúa Giê-xu tràn ngập niềm vui từ Đức Thánh Linh. Ngài nói: “Thưa Cha, Ngài là Chúa trên muôn vật cả trên trời và dưới đất. Một số người nghĩ rằng họ khôn ngoan bởi vì họ có học thức. Nhưng Con ca ngợi Cha vì Cha đã ngăn không cho họ biết những điều này. Thay vào đó, Ngài đã bày tỏ chúng cho những người sẵn lòng tiếp nhận chân lý của Ngài như trẻ con vậy. Vâng, thưa Cha, Ngài đã làm vậy vì điều đó khiến Ngài vui lòng.”
\s5
\v 22 Chúa Giê-xu cũng nói với các môn đồ: “Cha Thầy là Đức Chúa Trời đã ban mọi sự cho Thầy. Chỉ một mình Cha biết rõ Thầy, là Con Ngài. Hơn thế nữa, cũng chỉ một mình thầy, Đức Chúa Con, biết rõ Cha là ai, nghĩa là, chỉ một mình Thầy và những người Thầy chọn để tỏ bày về Cha là biết rõ Ngài.”
\s5
\v 23 Khi còn lại một mình với các môn đồ, Ngài quay về phía họ và nói: “Đức Chúa Trời đã ban cho anh em một món quà lớn lắm qua việc cho anh em nhìn thấy những việc Thầy đã làm!
\v 24 Thầy muốn anh em biết rằng rất nhiều tiên tri và các vị vua sống cách đây rất lâu đã ao ước được thấy những điều anh em đang thấy Thầy làm, nhưng họ không thể, bởi vì những việc đó đã không xảy ra vào lúc bấy giờ. Họ mong mỏi được nghe những điều mà anh em đã nghe Thầy nói, nhưng Thầy vẫn chưa bày tỏ những điều này ra vào lúc bấy giờ.”
\s5
\v 25 Một ngày kia, khi Chúa Giê-xu đang dạy dỗ dân chúng, một thầy dạy luật của người Do Thái có mặt ở đó. Ông muốn thử Chúa Giê-xu nên đặt ra cho Ngài một câu hỏi khó. Thế nên, ông đứng dậy và hỏi: “Thưa thầy, tôi phải làm gì để được sống với Đức Chúa Trời mãi mãi? ”
\v 26 Chúa Giê-xu nói với ông: “Ông đã đọc những điều Môi-se viết trong luật pháp mà Đức Chúa Trời ban cho. Thế luật pháp nói gì về điều này? ”
\v 27 Người ấy thưa: “Hãy yêu Chúa, là Đức Chúa Trời của anh em bằng tất cả tấm lòng, cả linh hồn, cả sức lực và cả tinh thần. Và hãy yêu thương người hàng xóm của anh em nhiều như anh em yêu chính mình vậy. ”
\v 28 Chúa Giê-xu đáp: “Ông đã trả lời rất đúng. Nếu làm được hết những điều đó, ông sẽ được sống với Đức Chúa Trời mãi mãi.”
\s5
\v 29 Nhưng người này muốn tìm cách để biện minh cho cách mình đối xử với người khác. Thế nên ông nói với Chúa Giê-xu: “Ai là những người hàng xóm mà tôi phải yêu thương? ”
\v 30 Chúa Giê-xu đáp: “Ngày nọ, có một người Do Thái đang đi từ Giê-ru-sa-lem đến Giê-ri-cô. Trong khi đi đường, một số tên cướp đã tấn công ông. Chúng lột hết quần áo và mọi thứ ông mang theo và chúng đánh ông đến nỗi gần chết. Rồi họ bỏ đi.
\s5
\v 31 Có một thầy tế lễ người Do Thái ngẫu nhiên cũng đi trên con đường đó. Khi ông nhìn thấy người bị nạn, thay vì giúp đỡ người đó thì ông ấy lại tránh sang bên kia đường mà đi.
\v 32 Tương tự như thế, có một người Lê-vi, là người làm việc trong đền thờ của Đức Chúa Trời, đi đến chỗ đó và thấy người bị nạn. Nhưng ông cũng tránh sang bên kia đường.
\s5
\v 33 Sau đó, có một người đến từ vùng Sa-ma-ri đi ngang qua trên con đường nơi nạn nhân đang nằm. Khi thấy người bị nạn, ông thấy thương hại người đó.
\v 34 Ông đến gần người bị nạn, lấy dầu ô-liu và rượu xức vào các vết thương để chúng được lành. Ông dùng vải quấn những vết thương lại. Sau đó ông đặt nạn nhân lên lưng lừa và đưa người đến một quán trọ để chăm sóc.
\v 35 Sáng hôm sau, ông lấy hai đồng bạc đưa cho chủ nhà trọ và nói: Hãy chăm sóc người này. Nếu ông dùng hơn số tiền này để chăm sóc cho anh ta, tôi sẽ trả lại cho ông khi trở lại. ’”
\s5
\v 36 Rồi Chúa Giê-xu nói: “Có ba người nhìn thấy nạn nhân bị cướp tấn công. Ai trong số họ cho thấy người đó thật sự là người hàng xóm của người bị nạn? ”
\v 37 Thầy dạy luật đáp: “Là người đã bày tỏ lòng thương xót đối với nạn nhân. ” Chúa Giê-xu nói với ông: “Đúng vậy, thế nên, bây giờ ông hãy đi và làm như vậy đối với những người ông có thể giúp!”
\s5
\v 38 Khi Chúa Giê-xu cùng các môn đồ tiếp tục đi, họ đi vào một làng gần thành Giê-ru-sa-lem. Có một phụ nữ tên là Ma-thê mời họ vào nhà của bà.
\v 39 Ma-ri, em gái Ma-thê, đến ngồi dưới chân Chúa Giê-xu. Cô lắng nghe những điều Ngài dạy dỗ.
\s5
\v 40 Nhưng Ma-thê thì rất bận tâm đến việc chuẩn bị bữa ăn. Bà đến với Chúa Giê-xu và thưa: “Thưa Chúa, Ngài không thấy rằng em tôi đã để tôi chuẩn bị mọi thứ một mình sao? Xin bảo nó giúp tôi! ”
\v 41 Nhưng Chúa trả lời: “Ma-thê ơi Ma-thê, bà lo lắng về nhiều việc quá.
\v 42 Nhưng chỉ có một việc thực sự cần thiết đó là lắng nghe những điều Thầy đang dạy. Ma-ri đã có quyết định đúng, phần phước mà em bà đang nhận lãnh từ việc cô ấy đang làm sẽ không thể bị cất đi mất.”
\s5
\c 11
\p
\v 1 Một ngày nọ, Chúa Giê-xu đang cầu nguyện tại một nơi kia. Khi Ngài cầu nguyện xong, một trong số các môn đồ thưa với Ngài: “Thưa Chúa, xin dạy chúng tôi cầu nguyện như Giăng đã dạy các môn đồ của ông!”
\s5
\v 2 Ngài nói với họ: “Khi anh em cầu nguyện, hãy nói những lời như sau: Thưa Cha, nguyện mọi dân ca ngợi danh Cha là thánh. Nguyện Cha sớm cai trị trên muôn dân ở mọi nơi.
\s5
\v 3 Xin ban cho chúng con thức ăn đủ dùng mỗi ngày.
\v 4 Xin tha thứ cho chúng con những lầm lỗi mà chúng con đã phạm, cũng như chính chúng con phải tha thứ cho người khác về những lầm lỗi mà họ đã gây cho chúng con. Xin giúp chúng con không phạm tội khi bị cám dỗ. ’”
\s5
\v 5 Rồi Ngài nói với họ: “Giả sử một người trong anh em đi đến nhà của một người bạn vào lúc nửa đêm. Giả sử anh em đứng bên ngoài gọi người ấy: Bạn ơi, xin cho tôi mượn ba ổ bánh mì!
\v 6 Vì một người bạn của tôi vừa đến nhà tôi nhưng tôi không sẵn đồ ăn để đãi anh ấy!
\v 7 Giả sử như người ở trong nhà trả lời rằng: Đừng làm phiền tôi! Cửa đã khóa và cả gia đình tôi đều đã đi ngủ. Thế nên tôi không thể dậy mà lấy bánh cho anh được!
\v 8 Thầy nói cho anh em biết, có thể người đó không muốn dậy và đưa bánh cho anh em dù anh em là bạn. Nhưng vì anh em cứ kiên trì nài nỉ, thì chắc chắn người đó sẽ dậy mà lấy bánh cho anh em những gì anh em cần.
\s5
\v 9 Vậy thầy nói với anh em điều này: Hãy cứ nài xin Đức Chúa Trời điều anh em cần, thì Ngài sẽ ban cho anh em. Hãy cứ tìm kiếm ý muốn của Ngài, Ngài sẽ bày tỏ cho anh em thấy. Hãy cứ khẩn thiết cầu nguyện với Đức Chúa Trời, giống như một người cứ đứng gõ cửa không ngừng, thì Ngài sẽ mở lối để anh em nhận được điều mình cầu xin.
\v 10 Hãy nhớ rằng, ai xin sẽ được, ai tìm sẽ gặp và ai gõ thì cửa sẽ được mở cho người đó.
\s5
\v 11 Nếu một trong số anh em có con mình đến xin cá để ăn, thì chắc chắn anh em sẽ không đem cho nó một con rắn độc thay vì cá, phải không?
\v 12 Và nếu nó xin anh em trứng, thì chắc chắn anh em sẽ không đem cho nó con bò cạp thay vì trứng, phải không?
\v 13 Mặc dù anh em là con người tội lỗi mà anh em còn biết cho con cái mình những điều tốt. Thì chắc chắn Cha của anh em ở trên trời sẽ ban Đức Thánh Linh cho anh em nếu anh em cầu xin Ngài làm điều đó.
\s5
\v 14 Một ngày nọ, có một người bị câm bởi vì ma quỷ điều khiển anh ta. Sau khi Chúa Giê-xu đã đuổi quỷ ấy ra, người đó liền nói được. Hầu hết mọi người ở tại đó đều kinh ngạc.
\v 15 Nhưng một số người trong bọn họ nói: “Chính Bê-ên-xê-bun, kẻ cầm đầu các quỷ, đã cho phép người này có quyền đuổi quỷ!”
\s5
\v 16 Những người khác ở tại đó yêu cầu Ngài làm một phép lạ để chứng tỏ Ngài đến từ Đức Chúa Trời.
\v 17 Nhưng Ngài biết họ đang suy nghĩ gì. Thế nên, Ngài nói với họ rằng: “Nếu dân trong cùng một quốc gia mà đánh nhau thì quốc gia ấy sẽ suy vong. Nếu người trong một nhà mà chống đối nhau thì gia đình ấy sẽ tan rã.
\s5
\v 18 Tương tự như vậy, nếu Sa-tan và các quỷ của nó đánh lẫn nhau, thì quyền cai trị của nó trên các quỷ chắc chắn sẽ không thể kéo dài! Tôi nói điều này bởi vì các ông bảo rằng tôi dùng quyền lực của chúa quỷ mà đuổi quỷ!
\v 19 Vậy thì, nếu thật sự Sa-tan cho tôi quyền để đuổi quỷ, thì phải chăng môn đồ của các ông cũng đuổi quỷ nhờ quyền lực của Sa-tan? Dĩ nhiên là không! Thế nên, chính họ chứng thực rằng các ông đã sai.
\v 20 Nhưng vì đây sự thật là nhờ quyền năng của Đức Chúa Trời mà tôi đuổi quỷ, nên tôi đang bày tỏ ra cho các ông thấy rằng Đức Chúa Trời đã bắt đầu cai trị trên các ông rồi.”
\s5
\v 21 Chúa Giê-xu nói tiếp, “Khi một người khỏe mạnh có nhiều vũ khí bảo vệ ngôi nhà của mình, không ai có thể lấy cắp những món đồ trong nhà của người đó được.
\v 22 Nhưng khi có một người khác mạnh hơn tấn công người đó và đánh bại anh ta, thì người kia mới có thể lấy đi những vũ khí mà người này tin tưởng. Rồi anh ta có thể lấy đi bất cứ thứ gì trong nhà của người kia mà mình muốn.
\v 23 Người nào không ủng hộ tôi tức là chống đối tôi và người nào không đưa người khác đến với tôi tức là khiến họ rời xa tôi.”
\s5
\v 24 Rồi Chúa Giê-xu nói rằng, “Đôi lúc, khi một tà linh rời khỏi một người, nó lang thang quanh những nơi hoang vắng để tìm chỗ ẩn náu. Nếu nó không tìm thấy nơi nào, nó sẽ tự nhủ bản thân: Ta sẽ quay lại với người mà ta vừa ra khỏi!
\v 25 Vậy, nó quay về và thấy rằng người ấy giống như một ngôi nhà đã được dọn dẹp sạch sẽ và ngăn nắp, nhưng vẫn vắng chủ.
\v 26 Như vậy, tà linh này liền đi và rủ thêm bảy linh khác độc ác hơn nó về. Tất cả chúng nhập vào người này và bắt đầu sống tại đó. Vậy nên, mặc dầu tình trạng của người đó lúc trước đã tệ, thì bây giờ còn tệ hại hơn trước.”
\s5
\v 27 Khi Chúa Giê-xu nói những điều này, thì một phụ nữ đang ngồi nghe lớn tiếng thưa với Ngài: “Người nữ nào đã sinh ra Ngài và người đã cho Ngài bú thật được phước lớn từ nơi Đức Chúa Trời! ”
\v 28 Ngài đáp: “Người nào nghe lời tôi và làm theo thì còn có phước hơn!”
\s5
\v 29 Khi ngày càng có nhiều người tụ họp lại đông hơn xung quanh Chúa Giê-xu, Ngài nói: “Những người sống trong thời này là những người gian ác. Nhiều người trong anh em muốn tôi làm phép lạ để chứng tỏ rằng tôi đến từ Đức Chúa Trời. Nhưng bằng chứng duy nhất mà anh em sẽ nhận được đó là phép lạ đã xảy ra với tiên tri Giô-na.
\v 30 Khi xưa Đức Chúa Trời đã làm phép lạ trên Giô-na như một lời chứng cho dân thành Ni-ni-ve thế nào, thì ngày nay Đức Chúa Trời cũng sẽ làm một phép lạ tương tự trên Con Người như một lời chứng cho những người đang sống trong hiện tại như vậy.
\s5
\v 31 Ngày xưa, nữ hoàng Sê-ba đã đi một quãng đường rất xa để đến nghe lời khôn ngoan của vua Sa-lô-môn. Ngày nay, một Đấng còn vĩ đại hơn Sa-lô-môn đang ở đây, nhưng anh em lại chẳng chịu nghe điều tôi nói. Vì vậy, đến ngày cuối cùng khi Đức Chúa Trời xét xử mọi người, vị nữ hoàng này sẽ đứng lên kết tội những người đang sống trong hiện tại.
\s5
\v 32 Những người sống trong thành Ni-ni-ve xưa kia đã từ bỏ lối sống tội lỗi của họ khi nghe lời Giô-na rao giảng cho họ. Ngày nay, tôi là Đấng vĩ đại hơn Giô-na, đã đến rao giảng cho anh em, nhưng anh em không chịu từ bỏ lối sống tội lỗi của mình. Vì vậy, đến ngày cuối cùng khi Đức Chúa Trời xét xử mọi người, những người sống trong thành Ni-ni-ve xưa sẽ đứng dậy mà kết tội những người đang sống trong hiện tại.”
\s5
\v 33 “Không ai thắp đèn rồi đem giấu đi hay để dưới cái thùng. Thay vào đó, họ đặt nó trên chân đèn để những ai đi vào phòng hoặc nhà đều có thể nhìn thấy ánh sáng.
\v 34 Mắt của anh em là đèn của thân thể. Nếu mắt của anh em khỏe mạnh, thì cả thân thể của anh em sẽ tràn ngập ánh sáng. Nhưng nếu ngược lại, thì cả thân thể của anh em sẽ tràn ngập sự tối tăm.
\v 35 Vì thế, hãy cẩn thận đừng để ánh sáng trong anh em lại trở thành bóng tối.
\v 36 Nếu cả thân thể anh em đầy ánh sáng, và không có phần nào tối tăm, thì cả thân thể tràn ngập ánh sáng của anh em sẽ giống như ngọn đèn giúp cho anh em nhìn thấy mọi thứ cách rõ ràng vậy.”
\s5
\v 37 Sau khi Chúa Giê-xu nói xong những điều đó, có một người Pha-ri-si mời Ngài dùng bữa cùng với ông. Thế nên, Chúa Giê-xu đi vào nhà của người Pha-ri-si đó và ngồi vào bàn ăn.
\v 38 Người Pha-ri-si rất ngạc nhiên khi thấy Chúa Giê-xu không thực hiện nghi thức rửa tay trước khi ăn.
\s5
\v 39 Chúa Giê-xu nói với ông: “Người Pha-ri-si các ông chỉ rửa bên ngoài chén và dĩa trước khi ăn, nhưng bên trong các ông thì lại vô cùng tham lam và gian ác.
\v 40 Các ông là những người dại dột! Các ông chắc chắn biết rằng Đức Chúa Trời không chỉ dựng nên bề ngoài, nhưng Ngài còn dựng nên cả bề trong!
\v 41 Thay vì lo lắng về chuyện làm sạch chén dĩa theo nghi thức, thì hãy có lòng thương xót mà đem cho những vật thực trong chén dĩa cho những người thiếu thốn, thì khi đó cả con người bề trong lẫn bề ngoài của các ông đều sẽ được sạch.
\s5
\v 42 Nhưng thật đáng kinh khiếp cho các ông là người Pha-ri-si! Các ông cẩn thận dâng một phần mười tất cả những gì mình có cho Đức Chúa Trời, kể cả những cây thảo mộc các ông trồng trong vườn nhà mình. Nhưng các ông lại chẳng yêu mến Đức Chúa Trời hay cư xử một cách công bằng đối với những người khác. Các ông phải chắc rằng mình yêu mến Chúa và cư xử một cách công bằng đối với những người khác bên cạnh những gì được dâng cho Đức Chúa Trời.
\s5
\v 43 Thật đáng kinh khiếp cho các ông là người Pha-ri-si, vì các ông thích ngồi ở những chỗ quan trọng trong các nhà hội và các ông thích người ta chào hỏi mình với thái độ kính trọng cách đặc biệt ở nơi phố chợ.
\v 44 Thật đáng kinh khiếp cho các ông, bởi vì các ông giống như những nấm mồ chưa được đánh dấu nên chẳng thể nhìn thấy được, là nơi mà mọi người dẫm lên để đi qua mà không hề nhận biết và theo luật pháp đã bị ô uế.”
\s5
\v 45 Một trong số những thầy dạy luật người Do Thái lên tiếng: “Thưa Thầy, Thầy nói vậy khác nào sỉ nhục cả chúng tôi nữa! ”
\v 46 Chúa Giê-xu đáp: “Thật đáng kinh khiếp cho các ông là những thầy dạy luật người Do Thái! Các ông áp đặt cho người ta nhiều gánh nặng nề, thế nhưng các ông chẳng làm gì, dù chỉ một việc nhỏ, để giúp họ mang lấy những gánh nặng ấy!
\s5
\v 47 Thật đáng kinh khiếp cho các ông, vì các ông xây những công trình để đánh dấu phần mộ của các tiên tri, nhưng chính tổ tiên của các ông là người đã giết hại các tiên tri!
\v 48 Thế nên khi các ông xây những công trình đó, các ông đang tuyên bố rằng các ông chấp thuận việc làm của tổ tiên mình khi họ giết các tiên tri.
\s5
\v 49 Vì thế, Đức Chúa Trời là Đấng rất khôn ngoan, đã phán: Ta sẽ sai các tiên tri và các sứ đồ đến để hướng dẫn dân Ta. Nhưng chúng sẽ làm cho họ rất khốn khổ và thậm chí sẽ giết đi vài người trong số họ.
\v 50 Kết quả là, nhiều người trong số những người đang sống trong thời đại này sẽ bị kể là có tội trong việc sát hại tất cả các tiên tri của Đức Chúa Trời kể từ khi thế giới này được tạo ra,
\v 51 bắt đầu từ khi A-bên bị giết bởi anh trai mình và cứ tiếp tục cho đến tiên tri Xa-cha-ri, là người bị giết trong đền thờ, giữa bàn thờ và nơi thánh. Phải, những người đang trong thời đại này sẽ bị xem kể là có tội về tất cả những tiên tri đã bị giết!
\s5
\v 52 Thật đáng kinh khiếp cho các ông là những thầy dạy luật người Do Thái. Vì các ông mà dân chúng không biết được làm thế nào để Đức Chúa Trời cai trị trên họ! Các ông không để Đức Chúa Trời cai trị mình, mà thậm chí các ông còn chắn đường những người muốn Đức Chúa Trời cai trị họ.”
\s5
\v 53 Sau khi Chúa Giê-xu nói xong những điều đó, Ngài rời đi. Từ đó các thầy dạy luật người Do Thái và người Pha-ri-si bắt đầu cư xử cách thù địch đối với Ngài. Họ vặn hỏi Ngài cách gay gắt về rất nhiều điều.
\v 54 Họ chỉ mong Ngài nói sai điều gì để họ có cớ cáo buộc Ngài.
\s5
\c 12
\p
\v 1 Trong khi đó, hàng ngàn người dân tụ họp lại quanh Chúa Giê-xu. Có nhiều người đến nỗi họ dẫm cả lên nhau. Nhưng trước hết, Ngài nói với các môn đồ: “Hãy đề phòng để anh em đừng trở nên giống như người Pha-ri-si là những người ra vẻ sùng đạo ở nơi công cộng, nhưng lại bí mật làm những việc gian ác. Giống như men làm dậy cả đống bột vậy, hành vi xấu xa của họ cũng khiến người khác trở thành những kẻ đạo đức giả giống như họ.
\s5
\v 2 Người ta không thể che giấu được tội lỗi của mình. Một ngày nào đó Đức Chúa Trời sẽ khiến mọi người biết mọi việc mà họ cố gắng che đậy.
\v 3 Mọi điều anh em nói trong bóng tối, một ngày kia mọi người sẽ nghe nó giữa ban ngày. Bất cứ điều gì anh em thì thầm trong phòng của mình, một ngày nào đó sẽ lộ ra nơi công cộng như thể nó được la lớn từ trên mái nhà vậy.”
\s5
\v 4 “Các bạn của Thầy, hãy nghe cho kỹ! Đừng sợ con người; họ có thể giết anh em, nhưng họ không thể làm gì hơn được như vậy sau đó!
\v 5 Nhưng Thầy sẽ cảnh báo cho anh em biết về Đấng anh em thật sự cần phải sợ. Anh em nên sợ Đức Chúa Trời, vì Ngài không chỉ có quyền khiến người ta phải chết, Ngài còn có quyền quăng họ vào địa ngục sau khi chết! Đúng vậy, Ngài chính là Đấng mà anh em thật sự phải kính sợ!
\s5
\v 6 Hãy nghĩ về loài chim sẻ. Chúng gần như chẳng có giá trị gì đến mức anh em có thể mua năm con với giá chỉ có hai đồng nhỏ nhoi, thế nhưng Đức Chúa Trời chưa bao giờ quên bất cứ con nào trong số chúng!
\v 7 Đức Chúa Trời thậm chí còn biết có bao nhiêu sợi tóc trên đầu của anh em. Đừng lo sợ, bởi vì đối với Đức Chúa Trời anh em đáng giá hơn chim sẻ rất nhiều.
\s5
\v 8 Thầy cũng cho anh em biết rằng nếu ai nói với những người khác rằng mình là môn đồ của Thầy, thì thầy, tức Con Người, sẽ nói rằng họ là môn đồ của Thầy trước mặt các thiên sứ của Đức Chúa Trời.
\v 9 Nhưng nếu họ nói với những người khác rằng họ không phải là môn đồ của Thầy, thì Thầy cũng sẽ nói với các thiên sứ của Đức Chúa Trời rằng họ không phải là môn đồ của Thầy.
\v 10 Thầy cũng nói với anh em rằng, nếu người nào nói những điều xấu về Thầy, tức Con Người, Đức Chúa Trời sẽ tha thứ cho họ về điều đó. Nhưng nếu người nào nói những điều xấu về Đức Thánh Linh, Đức Chúa Trời sẽ không tha thứ cho họ về điều đó.
\s5
\v 11 Thế nên, khi người ta đem anh em vào nhà hội để chất vấn anh em trước mặt những lãnh đạo tôn giáo và những người có quyền lực khác trong nước thì đừng lo lắng về cách anh em sẽ trả lời họ thế nào hay về việc anh em phải nói gì,
\v 12 vì chính lúc ấy Đức Thánh Linh sẽ nói cho anh em biết điều anh em nên nói.”
\s5
\v 13 Một người trong đám đông thưa với Chúa Giê-xu: “Thưa Thầy, xin bảo anh tôi chia gia tài của cha cho tôi! ”
\v 14 Nhưng Chúa Giê-xu đáp lời anh: “Này anh kia, không ai lập tôi làm quan tòa để xử lý những tranh chấp về tài sản của người ta đâu! ”
\v 15 Rồi Ngài nói với cả đám đông: “Hãy cẩn thận, đừng tham lam! Giá trị của một người không được quyết định bởi những thứ mà người sở hữu.”
\s5
\v 16 Rồi Ngài kể cho họ ví dụ minh họa này: “Những cánh đồng của một người giàu kia được một vụ mùa bội thu.
\v 17 Thế nên ông thầm nghĩ: Mình không biết phải làm gì đây, mình không có cái kho nào đủ lớn để chứa tất cả những gì thu hoạch được!
\v 18 Rồi ông lại thầm nghĩ, Mình biết mình sẽ làm gì rồi, mình sẽ cho đập mấy cái kho lúa để xây những cái to hơn! Rồi mình sẽ chứa lúa mì và những thứ khác trong những kho mới và lớn đó.
\v 19 Rồi mình sẽ nói với chính mình rằng: “Bây giờ, mình đã có đủ đồ dự trữ đủ dùng cho nhiều năm. Thế nên, giờ mình sẽ nghỉ ngơi thôi. Mình sẽ ăn uống và vui vẻ! ’”
\s5
\v 20 Nhưng Đức Chúa Trời phán với ông ta: “Anh là kẻ ngu dại! Đêm nay anh sẽ chết! Vậy tất cả những thứ anh đã dự trữ cho mình sẽ thuộc về người khác chứ không phải là anh! ’”
\v 21 Rồi Chúa Giê-xu kết lại ví dụ minh họa này mà nói rằng: “Đó là điều sẽ xảy ra với những người chỉ biết thâu trữ của cải cho mình mà không xem trọng những gì Đức Chúa Trời kể là có giá trị.”
\s5
\v 22 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ: “Vậy, Thầy muốn nói cho anh em điều này: đừng lo lắng về những thứ anh em cần dùng để sinh sống. Đừng lo lắng về việc liệu anh em có đủ đồ ăn để ăn hay có đủ quần áo để mặc hay không.
\v 23 Sự sống của anh em quan trọng hơn đồ ăn mà anh em ăn và thân thể của anh em quan trọng hơn quần áo anh em mặc.
\s5
\v 24 Hãy nghĩ về loài chim: Chúng không gieo hạt và chúng cũng chẳng thu hoạch. Chúng chẳng có phòng hay kho bãi để chứa hoa lợi. Nhưng Đức Chúa Trời nuôi chúng ăn. Anh em chắc chắn có giá trị hơn loài chim rất nhiều.
\v 25 Chẳng ai trong anh em vì lo lắng về đời sống mà thêm được một phút nào để sống!
\v 26 Thế nên, vì ngay cả việc nhỏ ấy anh em cũng không làm được, thì anh em không nên lo lắng về bất kỳ điều gì khác.
\s5
\v 27 Hãy xem loài hoa lớn lên thế nào. Chúng chẳng làm lụng để kiếm tiền và chúng cũng không tự may quần áo. Nhưng Thầy nói cho anh em biết rằng ngay đến Vua Sa-lô-môn, người đã sống cách đây rất lâu, có ăn mặc những bộ đồ đẹp đến đâu thì người chưa bao giờ mặc đẹp như một trong những bông hoa ấy.
\v 28 Đức Chúa Trời làm nên cây cỏ cách đẹp đẽ mặc dầu chúng chỉ sống trong một thời gian ngắn. Sau đó chúng bị cắt đi và ném vào trong lửa. Nhưng anh em rất quý giá đối với Đức Chúa Trời và Ngài quan tâm anh em nhiều hơn Ngài quan tâm cây cỏ. Tại sao anh em lại ít đức tin nơi Ngài?
\s5
\v 29 Đừng tự hỏi mình sẽ ăn gì uống gì và đừng lo lắng về những điều đó.
\v 30 Những người không biết Đức Chúa Trời luôn lo lắng về những việc như vậy. Nhưng Cha anh em ở trên trời biết rằng anh em cần những điều đó.
\s5
\v 31 Thay vào đó, hãy xem điều quan trọng nhất trong cuộc đời của anh em đó là việc tiếp nhận Đức Chúa Trời khi Ngài cai trị trên anh em. Khi đó, Ngài cũng sẽ ban cho anh em mọi thứ anh em cần.
\v 32 Thế nên, bầy chiên nhỏ, anh em không nên lo lắng. Cha của anh em ở trên trời muốn ban cho anh em mọi điều tốt lành mà Ngài đã định khi Ngài hoàn toàn cai trị trên muôn vật.
\s5
\v 33 Vậy nên, hãy bán hết những thứ anh em sở hữu. Hãy đem tiền mà cho những người không có thức ăn và quần áo cần thiết hoặc nơi để ở. Hãy sắm cho mình những cái túi không hư cũ, và anh em sẽ cất giữ của cải ở trên trời là nơi nó sẽ luôn được an toàn. Tại đó, không kẻ trộm nào có thể tới gần để ăn cắp và cũng không có sâu mối làm hư hại đồ đạc của anh.
\v 34 Bất cứ điều gì anh em quý trọng thì đó chính là thứ mà anh em sẽ bận tâm và dành thì giờ cho nó.
\s5
\v 35 Hãy luôn sẵn sàng để làm công việc của Chúa, giống như người đã mặc sẵn quần áo lao động và giữ cho đèn của mình cháy sáng suốt đêm.
\v 36 Hãy sẵn sàng để đón Thầy trở lại, giống như những người đầy tớ đợi chủ đi dự tiệc cưới về. Họ đợi để khi chủ về đến, gõ cửa thì mở ngay.
\s5
\v 37 Nếu khi chủ trở về mà những người đầy tớ này còn thức, ông sẽ thưởng cho họ. Thầy nói với anh em điều này: ông ấy sẽ thay quần áo để phục vụ, bảo họ ngồi xuống bàn và ông sẽ dọn thức ăn phục vụ họ.
\v 38 Nếu gần sáng chủ mới về và thấy các đầy tớ của mình vẫn còn thức sẵn sàng để đón ông, thì ông ấy sẽ rất hài lòng về họ.
\s5
\v 39 Nhưng anh em cũng phải nhớ điều này: Nếu chủ nhà biết giờ nào kẻ trộm sẽ đến thì người sẽ thức đợi và không để kể trộm đột nhập vào nhà mình.
\v 40 Vậy nên, hãy sẵn sàng, vì Thầy, tức là Con Người, sẽ trở lại vào lúc anh em không ngờ.”
\s5
\v 41 Phi-e-rơ thưa: “Thưa Chúa, Ngài kể ví dụ này cho chúng tôi hay cũng cho mọi người khác nữa? ”
\v 42 Chúa đáp: “Thầy nói điều này với tất cả những ai giống như một đầy tớ khôn ngoan và trung thành, là người quản lý nhà của chủ. Chủ đặt anh làm người chịu trách nhiệm việc cung cấp thức ăn cho những đầy tớ khác đúng giờ.
\v 43 Nếu người đầy tớ ấy làm đúng công việc của mình khi chủ trở về, thì chủ của anh sẽ thưởng cho anh.
\v 44 Thầy nói anh em điều này: người chủ sẽ giao cho đầy tớ ấy quản lý toàn bộ tài sản mình.
\s5
\v 45 Nhưng nếu người đầy tớ chịu trách nhiệm quản lý ấy tự nhủ: Chủ ta đã đi xa một thời gian dài, rồi người bắt đầu đánh đập những đầy tớ khác, cả nam lẫn nữ. Người đó cũng có thể sẽ ăn uống nhậu nhẹt say sưa.
\v 46 Nếu anh ta làm như vậy, thì người chủ sẽ về ngay lúc anh ta không ngờ. Sau đó, chủ sẽ trừng phạt anh ta cách nặng nề và ấn định cho anh ta đến một nơi cùng với những kẻ không trung tín phục vụ người.
\s5
\v 47 Người đầy tớ biết chủ của mình muốn gì nhưng không chuẩn bị sẵn sàng và thực hiện điều đó sẽ bị trừng phạt nghiêm khắc.
\v 48 Nhưng người đầy tớ nào không biết chủ muốn mình làm gì và rồi làm sai sẽ chỉ bị phạt nhẹ. Những ai được cho nhiều thì sẽ được kỳ vọng nhiều. Những ai được cho nhiều hơn thậm chí sẽ được kỳ vọng nhiều hơn nữa.”
\s5
\v 49 ”Thầy đến thế gian để làm cho anh em được sạch như lửa làm cho kim loại được sạch vậy. Thầy mong ước việc này đã được bắt đầu.
\v 50 Không lâu nữa, thầy phải chịu một phép báp-têm vô cùng đau đớn. Thầy sẽ phải chịu đau khổ cho đến khi việc ấy được hoàn tất.
\s5
\v 51 Anh em tưởng rằng kết quả của việc Thầy đến thế gian là con người sẽ chúng sống với nhau cách bình an hay sao? Không phải! Thầy cần phải cho anh em hay rằng, thay vì như vậy, họ sẽ bị chia rẽ.
\v 52 Vì trong cùng một nhà sẽ có người tin Thầy và người không tin, nên họ sẽ bị chia rẽ. Ba người trong nhà không tin Thầy sẽ chống đối với hai người tin.
\v 53 Cha sẽ chống đối con hoặc con sẽ chống đối cha mình. Mẹ sẽ chống đối con gái, hoặc con gái sẽ chống đối mẹ mình. Mẹ chồng sẽ chống đối con dâu, hoặc con dâu sẽ chống nghịch mẹ chồng của mình.”
\s5
\v 54 Ngài cũng nói với đoàn dân: “Khi anh em thấy mây đen hình thành ở hướng tây, anh em sẽ nói ngay rằng Trời sắp mưa! và điều đó xảy ra.
\v 55 Khi thấy gió nam thổi đến, anh em nói: Trời sẽ nóng bức lắm đây! và anh em đã đúng.
\v 56 Này những kẻ đạo đức giả! Nhờ quan sát mây và gió mà anh em biết được thời tiết sẽ như thế nào. Vậy tại sao anh em không thể biết được điều Đức Chúa Trời đang làm trong hiện tại?
\s5
\v 57 Mỗi người trong anh em phải tự quyết định đâu là điều anh em nên làm trong khi anh em còn thời gian để làm điều đó!
\v 58 Anh em nên cố gắng giải quyết những vấn đề với người buộc tội anh em trong khi anh em vẫn còn đang trên đường đi đến tòa án. Nếu người ấy ép buộc anh em đi đến trước quan tòa, quan tòa có thể phán anh em có tội và giao anh em cho viên chức tòa án. Và người này sẽ tống giam anh em vào tù.
\v 59 Tôi cho anh em hay, nếu anh em đã vào tù, thì anh em sẽ không được thả ra cho đến khi anh em có thể trả hết những gì quan tòa nói rằng anh em đã nợ.”
\s5
\c 13
\p
\v 1 Lúc ấy, có vài người nói cho Chúa Giê-xu nghe về một số người Ga-li-lê mới bị những binh lính giết tại Giê-ru-sa-lem. Tổng đốc người La-mã là Phi-lát đã sai lính giết chết họ trong khi họ đang dâng tế lễ trong đền thờ.
\v 2 Chúa Giê-xu đáp lời họ rằng: “Anh em nghĩ rằng những người Ga-li-lê ấy bị như vậy là do họ phạm tội nặng hơn những người Ga-li-lê khác sao?
\v 3 Tôi bảo đảm rằng, đó không phải vì lý do đó! Nhưng anh em cần ghi nhớ rằng Đức Chúa Trời cũng sẽ hình phạt anh em tương tự như vậy nếu anh em không từ bỏ hành vi tội lỗi của mình.
\s5
\v 4 Hay như tám người bị tháp ở Si-lô-ê bên ngoài thành Giê-ru-sa-lem ngã xuống đè chết họ thì sao? Anh em nghĩ rằng điều đó xảy ra bởi vì họ là những người tội lỗi hơn mọi người khác tại Giê-ru-sa-lem hay sao?
\v 5 Tôi bảo đảm rằng, không phải vì lý do đó! Nhưng thay vào đó, anh em cần phải ý thức rằng Đức Chúa Trời cũng sẽ hình phạt anh em tương tự như vậy nếu anh em không từ bỏ hành vi tội lỗi của mình!”
\s5
\v 6 Rồi Ngài kể cho họ nghe câu chuyện sau: “Có một người trồng một cây vả ở trong vườn của ông. Hàng năm ông đều đến để hái quả, nhưng chẳng thấy có quả nào trên cây.
\v 7 Cho nên ông đã nói với người làm vườn, Nhìn cái cây này xem! Đã ba năm nay tôi đến hái quả mà chẳng được quả nào. Hãy đốn nó đi! nó chỉ hút chất bổ từ đất lên cách vô ích!
\s5
\v 8 Nhưng người làm vườn thưa: Thưa ông chủ, xin chờ thêm một năm nữa. Tôi sẽ đào đất xung quanh và bón phân cho nó.
\v 9 Nếu năm sau nó ra quả, chúng ta sẽ để nó tiếp tục sống! Nhưng nếu khi đó nó vẫn không ra quả, ông có thể đốn nó đi. ’”
\s5
\v 10 Vào một ngày nghỉ của người Do Thái, Chúa Giê-xu đang dạy dỗ ở một trong số các nhà hội.
\v 11 Tại đó có một phụ nữ bị tà linh làm cho tàn tật suốt mười tám năm. Lưng cô bị còng và không thể đứng thẳng được.
\s5
\v 12 Khi Chúa Giê-xu nhìn thấy cô, Ngài gọi cô đến chỗ Ngài. Ngài nói với cô rằng: “Này cô, tôi đã chữa lành cho cô khỏi căn bệnh này! ”
\v 13 Ngài đặt tay trên cô. Lập tức, cô đứng thẳng dậy và bắt đầu ngợi khen Đức Chúa Trời!
\v 14 Nhưng người lãnh đạo nhà hội rất tức giận vì Chúa Giê-xu chữa lành cho bà vào ngày nghỉ của người Do Thái. Thế nên, ông nói với dân chúng: “Có sáu ngày trong tuần luật pháp của chúng ta cho phép mọi người làm việc. Nếu anh em cần được chữa bệnh, thì đó là những ngày anh em có thể đến nhà hội để được chữa lành. Đừng đến vào ngày nghỉ của chúng ta!”
\s5
\v 15 Chúa đáp lời ông rằng: “Ông và những người lãnh đạo tôn giáo bạn ông là bọn đạo đức giả! Tất cả các ông thỉnh thoảng cũng làm việc trong ngày nghỉ! Chẳng lẽ các ông không mở dây cho bò hay lừa khỏi máng ăn để dẫn nó đi đến chỗ uống nước sao?
\v 16 Người phụ nữ này là một người Do Thái, là con cháu của Áp-ra-ham! Nhưng Sa-tan đã khiến cô bị tàn tật suốt mười tám năm như thể nó đã trói buộc cô! Chắc chắn các ông sẽ đồng ý với tôi rằng việc tôi giải phóng cho cô khỏi Sa-tan là điều nên làm, cho dù cho tôi có làm điều đó trong ngày nghỉ đi chăng nữa!
\s5
\v 17 Sau khi Ngài nói điều đó, các kẻ thù của Ngài đều lấy làm xấu hổ về bản thân họ. Nhưng tất cả những người khác thì vui mừng về những việc diệu kỳ mà Ngài đã làm.
\s5
\v 18 Rồi Ngài nói: “làm thế nào tôi có thể giải thích được khi Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài như một vị vua thì sẽ thế nào? Tôi sẽ nói cho anh em biết là điều đó sẽ như thế nào:
\v 19 Việc đó cũng giống như một hạt cải nhỏ mà người kia lấy gieo nơi cánh đồng của mình. Nó mọc lên thành một cây to. Nó to đến nỗi chim chóc đến làm tổ trên cành của nó.”
\s5
\v 20 Ngài lại nói: “Bằng một cách khác tôi sẽ nói cho anh em biết khi Đức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài như một vị vua thì sẽ như thế nào.
\v 21 Việc đó cũng giống như một chút men được một phụ nữ lấy trộn vào khoảng hai mươi lăm ký bột. Một chút men ấy đã làm dậy cả đống bột.”
\s5
\v 22 Chúa Giê-xu tiếp tục lên Giê-ru-sa-lem. Ngài ghé qua tất cả các thành và thôn làng trên đường đi để dạy dỗ dân chúng.
\v 23 Có người hỏi Ngài: “Thưa Chúa, phải chăng Đức Chúa Trời chỉ cứu một vài người? ” Chúa Giê-xu đáp:
\v 24 “Anh em cần nỗ lực để bước vào cửa hẹp. Tôi cho anh em hay, nhiều người sẽ cố gắng tìm những đường khác, nhưng họ không thể vào được.
\s5
\v 25 Sau khi người chủ nhà thức dậy và khóa cửa lại, anh em đứng ngoài cửa mà gõ. Anh em sẽ nài xin chủ nhà mà nói với người rằng: Thưa Chúa, xin mở cửa cho chúng tôi! Nhưng Ngài sẽ trả lời: Không, Ta sẽ không mở đâu vì Ta không biết các ngươi và Ta cũng chẳng biết các ngươi từ đâu đến!
\v 26 Anh em sẽ nói: Ngài chắc đã quên rằng chúng tôi đã cùng ngồi ăn với Ngài và Ngài đã dạy dỗ cho chúng tôi trên những con đường trong các thành phố của chúng tôi!
\v 27 Nhưng Ngài sẽ phán: Ta lặp lại lần nữa, Ta không biết các ngươi và Ta cũng chẳng biết các ngươi từ đâu đến. Các ngươi là bọn gian ác! Hãy đi ra khỏi đây! ’”
\s5
\v 28 Chúa Giê-xu nói tiếp: “Anh em sẽ nhìn thấy Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp từ xa. Tất cả các tiên tri ngày xưa cũng sẽ có mặt ở đó, trong nơi Đức Chúa Trời làm Vua cai trị muôn vật. Nhưng anh em sẽ bị ở ngoài, sẽ khóc lóc và nghiến răng trong đau đớn!
\v 29 Hơn thế nữa, có nhiều người không phải người Do Thái sẽ được vào trong. Cũng sẽ có những người đến từ những vùng đất thuộc phương bắt, phương đông, phương nam và phương tây. Họ sẽ dự tiệc mừng việc Đức Chúa Trời cai trị trên muôn vật.
\v 30 Hãy suy ngẫm về điều này: khi ấy, những người dường như tầm thường nhất trong hiện tại sẽ trở nên quan trọng nhất, và những người dường như quan trọng nhất trong hiện tại, khi ấy, sẽ trở thành tầm thường nhất.”
\s5
\v 31 Cũng trong ngày đó, có một số người Pha-ri-si đến nói với Chúa Giê-xu: “Hãy đi khỏi khu vực này, vì vua Hê-rốt An-ti-pa muốn giết Thầy! ”
\v 32 Ngài đáp lời họ: “Hãy nói thông điệp này của Thầy với con cáo Hê-rốt ấy rằng: Nghe đây! Hôm nay, tôi đuổi quỷ và làm phép lạ và tôi sẽ tiếp tục làm những việc ấy thêm một thời gian ngắn nữa. Sau đó, tôi sẽ hoàn tất công việc của mình.
\v 33 Nhưng trong những ngày sắp tới tôi phải tiếp tục hành trình đi đến Giê-ru-sa-lem, bởi vì một đấng tiên tri không thể bị giết ở một nơi nào đó khác hơn Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 34 Ôi, dân thành Giê-ru-sa-lem! Các ngươi đã giết các đấng tiên tri đời xưa, và các ngươi cũng giết những người khác được Đức Chúa Trời sai đến bằng cách ném đá họ. Nhiều lần ta muốn gom các ngươi lại để bảo vệ các ngươi như gà mẹ túc những gà con của mình ở dưới cánh. Nhưng các ngươi không muốn ta làm vậy.
\v 35 Giờ thì hãy nghe đây, hỡi dân thành Giê-ru-sa-lem, Đức Chúa Trời sẽ không bảo vệ các ngươi nữa. Tôi cũng cho anh em biết: Tôi sẽ vào thành này chỉ một lần nữa thôi. Sau đó, anh em sẽ không thấy tôi nữa cho đến khi tôi trở lại, lúc ấy anh em sẽ nói về tôi rằng: Nguyện Đức Chúa Trời chúc phước cho người này, là người đến với thẩm quyền của Đức Chúa Trời! ’”
\s5
\c 14
\p
\v 1 Một ngày nghỉ nọ, Chúa Giê-xu đến dùng bữa tại nhà của một trong những người lãnh đạo của phái Pha-ri-si, và họ chăm chú theo dõi Ngài.
\v 2 Ngay lúc ấy, trước mặt Ngài có một người bị bệnh khiến cho tay chân của ông bị sưng phù lên.
\v 3 Chúa Giê-xu hỏi những người thông thạo luật pháp của người Do thái và những người Pha-ri-si có mặt ở đó rằng “Theo luật pháp, trong ngày nghỉ có được phép chữa bệnh cho người ta hay không?”
\s5
\v 4 Họ không trả lời. Thế nên Chúa Giê-xu đặt tay trên người bệnh và chữa lành cho anh. Rồi Ngài nói với anh rằng anh có thể đi.
\v 5 Và Ngài nói với những người có mặt ở đó: “Nếu con trai hay con bò nhà các ông rơi xuống giếng trong ngày nghỉ, các ông có kéo nó lên ngay không? ”
\v 6 Một lần nữa, họ không thể trả lời Ngài.
\s5
\v 7 Chúa Giê-xu để ý thấy những người được mời đến ăn đều chọn những chỗ thường dành cho những người quan trọng ngồi. Ngài khuyên họ:
\v 8 “Khi một người trong số các ông được mời đến dự tiệc cưới, đừng ngồi vào chỗ nơi người quan trọng ngồi. Rất có thể có một người quan trọng hơn các ông cũng được mời dự tiệc cưới ấy.
\v 9 Khi người ấy đến, người đã mời cả hai người đến dự sẽ đến và nói: Xin nhường chỗ lại cho người này! Lúc đó các ông sẽ rất xấu hổ vì sẽ phải ngồi ở chỗ tầm thường.
\s5
\v 10 Thay vào đó, khi các ông được mời đến dự tiệc, hãy đến và ngồi ở chọn chỗ tầm thường. Để khi người đã mời mọi người đến dự, người ấy sẽ nói với anh em: Bạn ơi, xin mời ngồi ở chỗ tốt hơn! Khi ấy, tất cả những người đang ngồi ăn cùng với các ông sẽ thấy rằng người kia tôn trọng các ông.
\v 11 Vì Đức Chúa Trời sẽ hạ những kẻ tự tâng bốc mình xuống và Ngài sẽ cất nhắc những người khiêm nhường lên.”
\s5
\v 12 Ngài cũng nói với người Pha-ri-si đã mời Ngài đến dùng bữa rằng, “Khi ông đãi ăn trưa hoặc ăn tối, đừng chỉ mời bạn bè, bà con hay những người hàng xóm giàu có, vì họ sẽ đáp lại ông bằng cách mời ông dùng bữa.
\s5
\v 13 Thay vào đó, khi ông đãi tiệc, hãy mời những người nghèo, người tàn tật, người què hay người mù đến.
\v 14 Họ sẽ không thể trả ơn cho ông. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho ông! Ngài sẽ trả lại cho ông vào ngày phục sinh của những người công bình.”
\s5
\v 15 Một trong những người ngồi ăn với Ngài nghe Ngài nói điều đó. Ông nói với Chúa Giê-xu: “Đức Chúa Trời thật sự ban phước cho người nào sẽ được dự tiệc để ăn mừng ngày Đức Chúa Trời bắt đầu cai trị khắp mọi nơi! ”
\v 16 Chúa Giê-xu đáp lời Ngài: “Có lần một người kia quyết định chuẩn bị tổ chức một bữa đại tiệc. Ông đã mời nhiều người đến dự.
\v 17 Đến ngày tổ chức tiệc, ông sai đầy tớ đến nói với những người đã được mời rằng: Xin hãy đến đến ngay, vì mọi thứ đã sẵn sàng rồi!
\s5
\v 18 Nhưng khi người đầy tớ làm điều đó, tất cả các khách mời đều bắt đầu nói lý do vì sao ho không thể đến được. Người đầu tiên mà người đầy tớ đến nói rằng, Tôi vừa mua một đám ruộng, và tôi phải đi đến đó để xem nó. Xin nói với chủ cho tôi cáo lỗi vì không đến được!
\v 19 Người khác thì nói: Tôi mới mua năm đôi bò, và tôi phải đi để kiểm tra chúng. Xin nói với chủ cho tôi cáo lỗi vì không đến được!
\v 20 Còn có người khác thì nói: Tôi vừa mới lấy vợ, nên tôi không đi được.
\s5
\v 21 Người đầy tớ trở về và trình bày những gì mà mọi đã nói cho chủ. Người chủ nhà nổi giận và nói với người đầy tớ rằng: Hãy đi thật nhanh khắp hang cùng ngõ hẻm trong thành phố, tìm những người nghèo khổ, tàn tật, đui mù, què quặt mà đem họ đến đây, trong nhà của ta!
\v 22 Sau khi người đầy tớ đi và làm điều đó, người đó trở về thưa với chủ: Thưa ông, tôi đã làm theo những gì ông dặn, nhưng vẫn còn nhiều chỗ trống.
\s5
\v 23 Thế nên người chủ nói với anh: Vậy hãy ra ngoài thành. Tìm thêm người dọc các xa lộ. Cũng tìm cả những con đường hẹp dọc theo hàng rào. Hãy nài ép mọi người ở những nơi đó đến nhà ta!
\v 24 Còn nữa, ta nói cho anh điều này, những người đã được mời trước đây sẽ không được dự tiệc của ta vì họ đã từ chối không chịu đến. ’”
\s5
\v 25 Một đoàn dân rất đông cùng đi với chúa Giê-xu. Ngài quay lại và nói với họ:
\v 26 “Người nào đến với tôi mà yêu mến cha mẹ, vợ con và anh chị em mình hơn yêu mến tôi, thì người ấy không thể làm môn đồ của tôi. Người ấy thậm chí phải yêu tôi hơn chính mạng sống của mình!
\v 27 Người nào không vác thập tự giá của mình và người nào không vâng lời tôi thì không thể làm môn đồ của tôi.
\s5
\v 28 Nếu có người nào trong anh em muốn xây một cái tháp, chẳng phải trước tiên người ấy phải ngồi xuống tính toán phí tổn sao? Rồi sau đó mới có thể xác định liệu mình có đủ kinh phí để hoàn thành nó không.
\v 29 Nếu không, khi anh em đã xây nền rồi mà lại không thể làm xong cái tháp được thì mọi người nhìn vào sẽ chê cười anh em.
\v 30 Họ sẽ nói rằng: Anh này khởi công xây tháp mà không hoàn tất được!
\s5
\v 31 Hay, nếu một vị vua quyết định điều quân đi chiến đấu với vua khác thì vị vua đó trước hết phải ngồi xuống với những người cố vấn cho ông. Họ sẽ xác định liệu đạo binh mười ngàn quân của ông, có thể đánh bại đạo binh hai mươi ngàn quân của vua kia không.
\v 32 Nếu vua thấy không thể đánh bại được đạo quân kia, thì vua ấy phải sai sứ giả đến gặp vua kia trong đạo quân kia còn ở xa. Vua sẽ dặn sứ giả đến nói với vua kia rằng: Tôi phải làm gì để cầu hòa với ngài?
\v 33 Tương tự như vậy, nếu ai trong anh em trước nhất chưa quyết định rằng anh em sẽ sẵn sàng từ bỏ mọi sự mình có, thì anh em không thể làm môn đồ tôi.”
\s5
\v 34 Chúa Giê-xu cũng nói rằng: “Anh em cũng giống như muối, là thứ rất hữu ích. Nhưng nếu muối mất đi vị mặn của nó thì làm thế nào cho nó mặn lại được?
\v 35 Nếu muối không còn vị mặn nữa, thì nó thậm chí chẳng còn ích lợi gì dù là cho đất hay là dùng làm phân bón. Người ta chỉ còn cách vứt nó đi. Mỗi người trong anh em nên lắng nghe cách cẩn thận điều mà tôi nói với anh em!”
\s5
\c 15
\p
\v 1 Lúc này, có nhiều nhân viên thu thuế và những người bị xem là thường xuyên phạm tội đến cùng Chúa Giê-xu để nghe Ngài dạy dỗ.
\v 2 Người Pha-ri-si và các thầy dạy luật người Do Thái bắt đầu lầm bầm, nói rằng: “Ông này tiếp đón những kẻ tội lỗi và thậm chí còn ăn chung với họ. ” Họ nghĩ Chúa Giê-xu làm như vậy là đang tự làm ô uế chính Ngài.
\s5
\v 3 Vì thế, Chúa Giê-xu kể cho họ nghe ẩn dụ này:
\v 4 “Giả sử một người trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất đi một con. Chắc hẳn các ông sẽ để chín mươi chín con lại trong đồng hoang để đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm thấy nó.
\v 5 Và khi các ông tìm được, các ông hẳn là sẽ rất vui mừng, vác nó lên vai và đem về nhà.
\s5
\v 6 Khi về đến nhà, các ông sẽ mời bạn bè, hàng xóm đến và nói với họ: Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên bị lạc mất!
\v 7 Tôi cho các ông hay, tương tự như vậy, trên thiên đàng sẽ rất vui mừng vì một tội nhân ăn năn tội lỗi của mình hơn là nhiều người đã được công bình trước Đức Chúa Trời và họ không cần ăn năn.
\s5
\v 8 Hay giả như một phụ nữ có mười đồng bạc quý nhưng rồi bà đánh mất một đồng trong số đó. Chắc chắn bà sẽ thắp đèn, quét nhà và cẩn thận tìm kiếm cho đến khi bà tìm được nó.
\v 9 Và khi đã tìm được rồi, bà sẽ mời bạn bè, hàng xóm đến và nói với họ: “Hãy chung vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy đồng bạc mà tôi đã đánh mất!
\v 10 Tôi cho các ông biết, cũng tương tự như vậy, các thiên sứ của Đức Chúa Trời sẽ rất vui mừng khi một tội nhân chịu ăn năn tội lỗi của mình.”
\s5
\v 11 Rồi Chúa Giê-xu lại nói tiếp rằng: “Một người kia có hai con trai.
\v 12 Ngày nọ, người con út đến thưa với cha: Thưa cha, xin chia cho con phần gia tài mà con sẽ được hưởng khi cha qua đời. Vậy nên, người cha chia gia tài của mình cho hai con.
\s5
\v 13 Chỉ một vài ngày sau, người con út gom hết tài sản của mình và đi đến một đất nước xa xôi. Ở đất nước đó, cậu sử dụng phung phí hết tiền bạc của mình cách ngu ngốc trong lối sống trong trụy lạc.
\v 14 Sau khi đã tiêu xài hết tiền của, tại đất nước ấy xảy ra một nạn đói khủng khiếp. Và không lâu sau, cậu con trai này không còn lại gì để có thể sinh sống.
\s5
\v 15 Thế nên cậu đi đến chỗ một người dân bản xứ và xin người đó thuê cậu làm việc. Thế là, người này sai cậu ra đồng để cho heo ăn.
\v 16 Được một lúc, cậu ấy đói quá đến độ muốn lấy vỏ đậu của heo mà ăn, nhưng chẳng ai cho.
\s5
\v 17 Cuối cùng, cậu đã bắt đầu suy nghĩ cách rõ ràng về sự ngu dại mình đã làm và cậu ta tự nhủ: Tất cả những người đầy tớ làm thuê cho cha mình đều được ăn uống dư dả còn mình thì đang chết đói ở đây vì không có gì để ăn cả!
\v 18 Mình sẽ rời khỏi đây và trở về với cha. Mình sẽ thưa với cha rằng: “Thưa cha, con đã phạm tội với Đức Chúa Trời và với cha.
\v 19 Con không xứng đáng được gọi là con của cha nữa; xin cha thuê con làm việc như một trong số những người đầy tớ của cha vậy. ’”
\s5
\v 20 Vậy là cậu ta rời khỏi đó và bắt đầu trở về nhà cha mình. Nhưng khi cậu vẫn còn cách xa nhà một quãng dài, cha cậu nhìn thấy và cảm thấy xót thương cho cậu. Ông chạy đến chỗ của cậu và ôm lấy cậu mà hôn vào má.
\v 21 Cậu con trai thưa với cha: Thưa cha, con đã phạm tội với Đức Chúa Trời và với cha. Nên con không xứng đáng được gọi là con của cha nữa.
\s5
\v 22 Nhưng cha cậu nói với những đầy tớ của mình rằng: Hãy nhanh đem chiếc áo choàng tốt nhất của ta và mặc cho con ta. Cũng hãy đeo nhẫn vào tay nó và mang giày vào chân nó!
\v 23 Rồi hãy dắt bò con đã được vỗ béo để dành cho dịp đặc biệt ra mà làm thịt để chúng ta ăn mừng!
\v 24 Chúng ta cần phải ăn mừng vì đứa con này của ta giống như đã chết, mà bây giờ nó lại sống! Nó giống như đã mất, mà bây giờ đã tìm lại được! Thế nên, tất cả họ bắt đầu tổ chức ăn mừng.
\s5
\v 25 Trong khi tất cả những việc đó đang diễn ra, người con cả đang làm việc ngoài đồng. Sau khi xong việc và trở về gần đến nhà, anh nghe thấy tiếng người đàn ca và nhảy múa.
\v 26 Anh gọi một người trong số các đầy tớ lại và hỏi chuyện gì đang xảy ra.
\v 27 Người đầy tớ thưa với anh rằng: Em trai cậu đã trở về. Cha cậu bảo chúng tôi làm thịt bò con mập để tổ chức ăn mừng vì em của cậu đã trở về an toàn và lành lặn.
\s5
\v 28 Nhưng người anh cả nổi giận và không muốn vào nhà. Nên cha của anh đã đi ra và khuyên dỗ anh vào nhà.
\v 29 Nhưng anh thưa với cha rằng: Cha à, suốt bao nhiêu năm qua con đã làm việc quần quật cho cha chẳng khác nào nô lệ. Con luôn vâng lời làm theo mọi điều cha dặn bảo. Nhưng cha chưa bao giờ cho con một con dê con để cùng ăn chung với bạn bè.
\v 30 Thế mà bây giờ thằng con này của cha trở về nhà sau khi đã phung phí hết tiền bạc của cha cho gái mại dâm, thì cha lại bảo đầy tớ làm thịt bò con mập để ăn mừng!
\s5
\v 31 Nhưng người cha nói với anh: Con ơi, con lúc nào cũng ở với cha, và mọi thứ của cha là của con.
\v 32 Nhưng chúng ta nên vui vẻ và ăn mừng, vì em con đây tưởng như đã chết mà nay lại sống! Tưởng như đã mất mà nay tìm lại được! ’”
\s5
\c 16
\p
\v 1 Chúa Giê-xu lại nói với các môn đồ: “Một người giàu kia có một quản gia. Một ngày nọ, người giàu có đó được thuật lại rằng viên quản gia quản lý tài sản của ông rất kém, rằng người đó làm cho tài sản của ông bị thất thoát.
\v 2 Thế nên ông gọi viên quản gia đến gặp ông và nói với người đó rằng: Những gì anh đã làm thật tồi tệ! Hãy đưa tôi bảng báo cáo tổng kết cuối cùng về việc quản lý của anh vì từ nay anh không được làm quản gia cho nhà của tôi nữa!
\s5
\v 3 Viên quản gia thầm nhủ: Ông chủ sẽ cách chức quản lý của mình, vậy mình phải nghĩ xem mình nên làm gì đây. Mình không đủ khỏe để làm việc đào hào, còn đi ăn xin thì xấu hổ.
\v 4 Mình biết mình sẽ làm gì để sau khi bị cho thôi việc quản lý người ta sẽ rước mình về và chu cấp cho mình!
\s5
\v 5 Vậy nên, anh ta gọi từng con nợ của chủ đến gặp. Anh hỏi người thứ nhất: Anh nợ chủ tôi bao nhiêu?
\v 6 Người ấy đáp: Ba ngàn lít dầu ô-liu. Viên quản gia nói với anh: Lấy hóa đơn ra, ngồi xuống rồi mau sửa lại thành một ngàn rưỡi lít!
\v 7 Anh nói với một người khác: Còn anh nợ bao nhiêu? Người ấy đáp: Một ngàn giỏ lúa mì. ” Viên quản gia nói với anh: Lấy hóa đơn ra và sửa thành tám trăm giỏ!
\s5
\v 8 Khi người chủ nghe được việc viên quản gia của ông đã làm thì ông khen người quản gia không trung thực về cách ông ấy chuẩn bị cho việc ông sắp mất việc. Sự thật là những người không tin Chúa trong thế gian này, là những người làm việc bất lương và dùng mưu gian, biết nhìn về phía trước và chuẩn bị cho tương lai của mình hơn những người tin Chúa, là những người chiếu sáng như đuốc trong thế gian.
\v 9 Thầy nói với anh em, hãy dùng tiền anh em làm cách bất lương mà giúp đỡ những người khác. Khi anh em làm vậy, họ sẽ làm bạn với anh em, và khi số tiền ấy đã hết thì anh em sẽ có bạn là những người sẽ đón anh em vào nhà đời đời của anh em.
\s5
\v 10 Ai trung tín quản lý chỉ một số tiền nhỏ thì cũng có thể được giao cho nhiều hơn. Ai không trung thực trong cách xử lý những việc thông thường thì cũng sẽ không trung thực khi xử lý những việc quan trọng.
\v 11 Anh em quản lý tiền kiếm được cách bất chính, nhưng nếu anh em không trung thực trong cách quản lí số tiền đó thì sẽ không ai giao cho anh em tài sản của chính anh em.
\v 12 Anh em đang quản lý tiền bạc của người khác, nhưng nếu anh em không trung thực thì anh em đừng mong ai giao tiền cho anh em đầu tư cho chính mình.
\s5
\v 13 Không đầy tớ nào có thể phục vụ hai người chủ khác nhau cùng lúc. Nếu người đó cố gắng để làm thế, người ấy sẽ ghét chủ này mà yêu mến chủ kia, hoặc sẽ trung thành với chủ này mà khinh thường chủ kia. Anh em không thể tận hiến đời mình để phục vụ Đức Chúa Trời nếu anh em cũng dành đời sống của mình cho việc kiếm tiền và những của cải vật chất khác.”
\s5
\v 14 Khi những người Pha-ri-si có mặt ở đó nghe Chúa Giê-xu nói điều đó, họ cười nhạo Ngài vì họ là những kẻ ham tiền bạc.
\v 15 Nhưng Chúa Giê-xu nói với họ: “Các ông cố làm cho người khác nghĩ rằng các ông công chính, nhưng Đức Chúa Trời biết lòng các ông. Hãy nhớ rằng có nhiều điều mà người ta ca ngợi như thể là rất quan trọng, thì Đức Chúa Trời lại xem là ghê tởm.
\s5
\v 16 Luật pháp mà Đức Chúa Trời ban cho Môi-se và điều mà các tiên tri đã viết đã được rao giảng cho đến khi Giăng Báp-tít đến. Từ ngày đó, tôi đã và đang rao giảng rằng Đức Chúa Trời sẽ sớm bày tỏ chính Ngài như một vị vua. Nhiều người đã tiếp nhận thông điệp ấy và đang rất thiết tha cầu xin Đức Chúa Trời cai trị đời sống họ.
\v 17 Toàn bộ luật pháp của Đức Chúa Trời, kể cả những điều tưởng chừng như không quan trọng, sẽ trường tồn còn hơn cả trời đất.
\s5
\v 18 Người nào li dị vợ và lấy một người phụ nữ khác là phạm tội ngoại tình, và người nam nào lấy một người phụ nữ bị chồng li dị cũng phạm tội ngoại tình.”
\s5
\v 19 Chúa Giê-xu cũng nói rằng: “Có một người giàu kia mặc áo màu tía và áo vải lanh tốt. Hàng ngày, người đó đều đãi tiệc xa xỉ.
\v 20 Và mỗi ngày tại cổng nhà của người giàu ấy luôn có một người nghèo tên là La-xa-rơ nằm đó. Người của La-xa-rơ đầy những chỗ lở loét.
\v 21 Ông đói đến nỗi ông muốn được ăn những mẩu thức ăn vụn trên bàn của người giàu rơi xuống. Tệ hơn nữa, có mấy con chó đến và liếm những vết lở loét trên người ông.
\s5
\v 22 Cuối cùng, người nghèo chết. Ông được các thiên sứ đưa đến với tổ tiên của ông là Áp-ra-ham. Người giàu cũng chết, và xác của ông được đem chôn.
\v 23 Tại nơi của người chết, người giàu chịu đau đớn khổ sở. Ông nhìn lên và thấy Áp-ra-ham từ xa cùng với La-xa-rơ đang ngồi rất gần bên Áp-ra-ham.
\s5
\v 24 Thế nên người giàu la lớn lên rằng: Cha Áp-ra-ham ơi, con đang đau đới rất nhiều trong lửa ở đây! Xin thương xót con mà sai La-xa-rơ đến đây để anh có thể nhúng ngón tay vào nước và chạm vào lưỡi con cho mát!
\s5
\v 25 Nhưng Áp-ra-ham trả lời: Con ơi, hãy nhớ rằng trong khi con còn sống ở trên đất con đã tận hưởng nhiều điều tốt lành rồi. Nhưng La-xa-rơ thì thật đáng thương. Giờ nó được hạnh phúc ở nơi này, còn con phải chịu đau đớn.
\v 26 Bên cạnh đó, Đức Chúa Trời đã đặt giữa con và chúng ta một khe vực lớn. Thế nên ai muốn đi từ đây qua chỗ của của đều không được. Thêm vào đó, cũng không ai có thể đi từ đó sang đến chỗ của chúng ta ở đây.
\s5
\v 27 Người giàu lại thưa: Nếu vậy, thưa Cha Áp-ra-ham, con xin người sai La-xa-rơ đến nhà cha của con.
\v 28 Con còn năm anh em sống ở đó. Xin nói anh ấy cảnh báo họ để họ không phải đi đến nơi này, là nơi chúng con chịu nhiều đau khổ!
\s5
\v 29 Nhưng Áp-ra-ham đáp: Không, ta sẽ không làm thế, vì các anh em con đã có những gì Môi-se và các tiên tri đã viết từ thuở xưa. Họ chỉ cần vâng theo những gì họ đã viết!
\v 30 Nhưng người giàu trả lời: Không đâu, thưa Cha Áp-ra-ham, như thế sẽ không đủ đâu! Nhưng nếu có ai đó từ trong những người đã chết quay trở về và cảnh báo họ thì họ sẽ từ bỏ hành vi tội lỗi của mình.
\v 31 Áp-ra-ham nói với ông: Không đâu! Nếu họ không nghe những gì Môi-se và các tiên tri đã viết, thì dù có ai đó sống lại từ trong những người chết đến cảnh báo họ, thì họ cũng sẽ không tin rằng họ cần phải từ bỏ hành vi tội lỗi của mình đâu. ’”
\s5
\c 17
\p
\v 1 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ của Ngài rằng: “Những điều cám dỗ người ta phạm tội chắc chắn có xảy ra, nhưng thật kinh khiếp cho người nào gây ra những điều ấy!
\v 2 Sẽ tốt hơn cho người đó nếu có ai buộc một tảng đá lớn vào cổ người ấy và ném anh ta xuống biển, hơn là để người ấy gây cho một người yếu đuối trong đức tin phạm tội.
\s5
\v 3 Hãy cẩn thận trong cách hành xử của mình. Nếu một người trong số các anh em của mình phạm tội, anh em hãy khiển trách người ấy. Nếu người ấy nói rằng người ấy xin lỗi và xin anh em tha thứ cho, thì anh em hãy tha thứ cho họ.
\v 4 Thậm chí nếu người ấy phạm lỗi với anh em đến bảy lần trong một ngày, nếu mỗi lần như vậy người ấy đều trở lại cùng anh em và nói: Tôi xin lỗi vì việc mình đã làm, thì anh em cũng phải tha thứ cho họ.”
\s5
\v 5 Các sứ đồ thưa với Chúa: “Xin thêm đức tin cho chúng tôi! ”
\v 6 Chúa đáp: “Nếu anh em có đức tin thậm chí không lớn bằng một hạt cải nhỏ này, thì anh em đã có thể bảo cây dâu này rằng: Hãy tự bứng mình lên luôn với cả gốc và trồng xuống biển thì nó sẽ vâng lệnh anh em!”
\s5
\v 7 Chúa Giê-xu cũng nói rằng: “Giả sử một người trong anh em có một người làm công đi cày ruộng của anh em hoặc đi chăn chiên của anh em. Khi người đầy tớ ở ngoài đồng về nhà, anh em sẽ không nói rằng: Hãy đến đây, mau ngồi xuống và ăn đi! ?
\v 8 Thay vào đó, anh em sẽ nói với người đó rằng: Hãy dọn cơm cho tôi! Hãy thay quần áo và phục vụ bữa ăn cho tôi để tôi ăn và uống! Sau đó, anh mới được ăn uống.
\s5
\v 9 Anh em sẽ không cám ơn người đầy tớ của mình vì họ đã làm những công việc được dặn phải làm!
\v 10 Tương tự như vậy, khi anh em đã hoàn thành mọi điều Đức Chúa Trời phán dặn anh em làm, thì anh em nên nói rằng: Chúng tôi chỉ là người làm công của Đức Chúa Trời, không xứng đáng để được Ngài cám ơn. Chúng tôi chỉ làm những việc Ngài đã phán dặn chúng tôi làm. ’”
\s5
\v 11 Khi Chúa Giê-xu và các môn đồ đang trên đường đi đến Giê-ru-sa-lem, họ đi ngang qua khu vực nằm giữa vùng Sa-ma-ri và Ga-li-lê.
\v 12 Khi Chúa Giê-xu đi vào một làng kia, có mười người bị bệnh phung đi đến với Ngài, nhưng họ đứng ở đằng xa.
\v 13 Họ kêu lớn: “Thưa Giê-xu, thưa Thầy, xin thương xót chúng tôi!”
\s5
\v 14 Khi Ngài nhìn thấy họ, Ngài nói với họ: “Hãy đi và trình diện trước các thầy tế lễ. ” Thế nên, họ liền đi và khi đang trên đường đi thì họ được chữa lành.
\v 15 Khi thấy mình đã được lành, thì một người trong số họ quay trở lại, lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời.
\v 16 Anh đến chỗ Chúa Giê-xu, sấp người, cúi mặt dưới chân Chúa Giê-xu và cảm ơn Ngài. Đó là một người Sa-ma-ri.
\s5
\v 17 Chúa Giê-xu nói: “Tôi đã chữa lành cho mười người phung! Sao chín người kia không quay lại?
\v 18 Người nước ngoài này là người duy nhất quay lại để cảm tạ Đức Chúa Trời; còn những người khác thì không trở lại”
\v 19 Rồi Ngài nói với người ấy: “Hãy đứng dậy và đi đi. Đức Chúa Trời đã chữa lành cho anh vì anh tin tôi.”
\s5
\v 20 Một ngày nọ, những người Pha-ri-si đến hỏi Chúa Giê-xu: “Khi nào Đức Chúa Trời bắt đầu cai trị trên mọi người? ” Ngài đáp: “Đó không phải là điều mà người ta có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
\v 21 Họ không thể nói rằng: Kìa, Ngài đang cai trị ở đây, hay Ngài đang cai trị ở đó! vì trái ngược lại với điều các ông nghĩ, Đức Chúa Trời đã bắt đầu cai trị ở giữa các ông rồi.”
\s5
\v 22 Chúa Giê-xu nói với các môn đồ của Ngài rằng: “Sẽ có lúc anh em muốn thấy Thầy, tức là Con Người, cai trị cách đầy quyền năng. Nhưng anh em sẽ không thấy được điều đó.
\v 23 Người ta sẽ nói với anh em rằng: Hãy xem, Đấng Mê-si-a ở đằng kia! hay họ sẽ nói rằng Hãy xem, Ngài ở đây! Khi họ nói điều đó, thì đừng đi theo họ.
\v 24 Vì khi sấm chớp sáng từ phương trời này đến phương trời kia, ai cũng có thể nhìn thấy được. Tương tự như vậy, khi Thầy, tức là Con Người, trở lại, mọi người sẽ nhìn thấy Thầy.
\s5
\v 25 Nhưng trước khi điều đó xảy ra, Thầy phải chịu nhiều đau đớn và Thầy phải bị người ta chối bỏ.
\v 26 Nhưng khi Thầy, tức là Con Người, trở lại, mọi người sẽ làm những việc như cách người ta đã làm trong thời Nô-ê sống.
\v 27 Lúc ấy, người ta ăn và uống như bình thường, và họ cũng cưới gả như thường cho đến ngày Nô-ê và gia đình của ông đi vào chiếc tàu lớn. Nhưng rồi nước lụt tràn đến và hủy diệt tất cả những ai không ở trong tàu.
\s5
\v 28 Tương tự như vậy, khi Lót sống trong thành Sô-đôm, người ta ăn và uống như thường lệ. Họ mua và bán. Họ trồng trọt và xây nhà như bình thường.
\v 29 Nhưng đến ngày Lót ra khỏi Sô-đôm, thì lửa và lưu huỳnh cháy từ trời rơi xuống hủy diệt toàn bộ những ai ở trong thành.
\s5
\v 30 Cũng vậy, khi Thầy, tức là Con Người, trở lại thế gian, người ta sẽ chưa chuẩn bị trước.
\v 31 Trong ngày đó, người nào đang ở bên ngoài nhà của mình, với tất cả những thứ mà họ sỡ hữu bên trong những ngôi nhà của mình, đừng phí thời gian để vào nhà lấy đồ đạc đi. Tương tự như vậy, người nào đang làm việc ngoài đồng, đừng trở về nhà để lấy bất cứ thứ gì, mà phải chạy trốn cho nhanh.
\s5
\v 32 Hãy nhớ chuyện đã xảy ra cho vợ của Lót!
\v 33 Người nào cứ giữ lối sống của mình thì sẽ chết. Nhưng ai từ bỏ lối sống của mình vì cớ Thầy thì sẽ sống đời đời.
\s5
\v 34 Thầy nói cho anh em điều này: Trong đêm Thầy trở lại, có hai người cùng ngủ trên một chiếc giường. Người tin nơi Thầy sẽ được đem đi còn người kia sẽ bị bỏ lại.
\v 35-36 Hai phụ nữ đang cùng nhau xay lúa, một người sẽ được đem đi, một người sẽ bị bỏ lại. ”
\v 37 Các môn đồ thưa với Ngài: “Thưa Chúa, khi nào việc ấy sẽ xảy ra? ” Ngài đáp với họ: “Xác chết ở đâu, kên kên sẽ bâu lại ở đó.”
\s5
\c 18
\p
\v 1 Chúa Giê-xu kể cho các môn đồ một câu chuyện khác nhằm dạy họ rằng họ phải kiên trì cầu nguyện và đừng nản lòng khi Đức Chúa Trời chưa trả lời những cầu xin của họ ngay.
\v 2 Ngài nói: “Tại một thành kia có một vị thẩm phán là người không kính sợ Đức Chúa Trời và cũng chẳng quan tâm đến dân chúng.
\s5
\v 3 Trong thành ấy cũng có một góa phụ cứ đến tìm vị thẩm phán này mà thưa rằng: Xin đòi lại công bằng cho tôi trước người chống đối tôi nơi tòa án.
\v 4 Suốt một thời gian dài, vị thẩm phán từ chối giúp bà. Nhưng sau đó ông tự nhủ: Mình không sợ Đức Chúa Trời cũng chẳng quan tâm đến dân chúng,
\v 5 nhưng bà quả phụ này cứ làm phiền mình! Nên mình sẽ xét xử trường hợp của bà ấy và chắc rằng bà ta được xét xử cách công bằng, vì nếu mình không làm như vậy, bà ta sẽ làm mình mệt mỏi vì cứ đến tìm mình hoài! ’”
\s5
\v 6 Rồi Chúa Giê-xu nói: “Hãy suy nghĩ kỹ về lời mà vị thẩm phán bất công này đã nói.
\v 7 Thế nên chúng ta lại càng chắc chắn rằng Đức Chúa Trời là Đấng công bình, sẽ xét xử công bằng cho những người được lựa chọn của Ngài, là những người tha thiết cầu xin Ngài cả ngày lẫn đêm! Ngài luôn kiên nhẫn với họ.
\v 8 Thầy nói cho anh em biết, Đức Chúa Trời sẽ nhanh chóng xét xử công bằng cho những người được chọn của Ngài! Nhưng khi Thầy, tức là Con Người, trở lại thế gian, liệu Thầy có còn tìm thấy người nào tin nơi Thầy chăng?”
\s5
\v 9 Rồi Chúa Giê-xu cũng kể câu chuyện này cho một số người tưởng rằng mình công bình và những người xem thường người khác.
\v 10 Ngài nói: “Có hai người đi lên đền thờ tại Giê-ru-sa-lem để cầu nguyện. Một người là người Pha-ri-si. Người kia là người thu thuế từ người dân cho chính quyền La-mã.
\s5
\v 11 Người Pha-ri-si đứng và cầu nguyện về mình như vầy: Ôi lạy Đức Chúa Trời, con cảm tạ Ngài vì con không giống như những người khác. Một số trộm cắp tiền bạc từ những người khác, một số đối xử với những người khác cách bất công và một số người thì phạm tội gian dâm. Con không có làm bất cứ điều nào như thế cả. Và chắc chắn con không giống như người thu thuế tội lỗi này là kẻ lừa gạt người ta!
\v 12 Con kiêng ăn mỗi tuần hai ngày và con dâng cho đền thờ mười phần trăm của mọi thứ con kiếm được!'
\s5
\v 13 Nhưng người thu thuế đứng cách xa những người khác trong sân đền thờ. Ông thậm chí không ngước mắt lên trời. Thay vào đó, ông đấm ngực mình và nói: Ôi lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót con và tha thứ cho con, vì con là một tội nhân xấu xa! ’”
\v 14 Rồi Chúa Giê-xu nói: “Tôi nói cho anh em biết rằng, khi cả hai ra về, người thu thuế là người được tha thứ chứ không phải người Pha-ri-si. Điều này là vì ai tự tôn mình lên sẽ bị hạ thấp xuống và ai tự hạ thấp mình xuống sẽ được tôn cao.”
\s5
\v 15 Một ngày kia, người ta thậm chí đem đến cho Chúa Giê-xu những em bé nhỏ để Ngài đặt tay trên chúng và chúc phước cho chúng. Khi các môn đồ thấy thế thì họ nói với những người đó không nên làm vậy.
\v 16 Nhưng Chúa Giê-xu gọi họ đem những đứa trẻ đến với Ngài. Ngài nói rằng: “Hãy để các con trẻ đến với Thầy! Đừng ngăn cản chúng! Chính những người khiêm tốn và có lòng tin cậy giống như những đứa trẻ này mới là người được Đức Chúa Trời đồng ý cai trị.
\v 17 Thật sự, Thầy nói với anh em rằng, bất cứ ai không đón nhận việc để Đức Chúa Trời cai trị trên họ cách khiêm tốn như một đứa trẻ, thì Ngài sẽ không cai trị trên họ.”
\s5
\v 18 Một lần kia, một lãnh đạo của người Do Thái đã hỏi Chúa Giê-xu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để có được sự sống đời đời? ”
\v 19 Chúa Giê-xu nói với anh: “Sao anh gọi tôi là nhân lành? Chỉ có Đức Chúa Trời mới thật sự là Đấng nhân lành mà thôi!
\v 20 Để trả lời cho câu hỏi của anh, chắc anh biết các mạng lệnh mà Đức Chúa Trời ban cho Môi-se để chúng ta làm theo như: Đừng phạm tội ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng dối, hãy hiếu kính cha và mẹ? ”
\v 21 Người ấy thưa: “Từ khi còn nhỏ tôi đã giữ tất cả các mạng lệnh ấy.”
\s5
\v 22 Khi Chúa Giê-xu nghe anh nói vậy thì Ngài nói với anh rằng: “Anh cần làm thêm một việc nữa. Hãy bán tất cả những gì anh có. Sau đó, đem tiền cho những người thiếu thốn. Kết quả là anh sẽ có của cải thuộc linh trên trời. Rồi hãy đến làm môn đồ của tôi! ”
\v 23 Người ấy nghe vậy thì buồn lắm, bởi vì anh rất giàu có.
\s5
\v 24 Khi Chúa Giê-xu thấy anh buồn bã đến như thế nào, thì Ngài trở nên vô cùng buồn rầu. Ngài nói: “Thật khó để người giàu chịu để cho Đức Chúa Trời cai trị trên họ. ”
\v 25 Trên thực tế, lạc đà đi qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu chịu để Đức Chúa Trời làm cai trị sống của họ.”
\s5
\v 26 Những người nghe Chúa Giê-xu nói vậy thì nói rằng: “Vậy chắc chẳng có ai được cứu! ”
\v 27 Nhưng Chúa Giê-xu nói: “Điều loài người không làm được thì Đức Chúa Trời làm được.”
\s5
\v 28 Phi-e-rơ thưa: “Thầy nhìn xem, chúng tôi đã bỏ tất cả những gì mình có để làm môn đồ của Thầy. ”
\v 29 Chúa Giê-xu nói với họ: “Đúng vậy, và Thầy cũng nói với anh em rằng những ai đã rời bỏ nhà cửa, vợ con, anh em, cha mẹ để phục tùng ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho họ
\v 30 sẽ nhận được gấp nhiều lần hơn những gì họ đã từ bỏ trong đời này, và sẽ nhận được sự sống đời đời trong đời sau.”
\s5
\v 31 Chúa Giê-xu đem mười hai môn đồ riêng ra và nói với họ: “Hãy nghe cho thật kỹ! Chúng ta đang đi lên Giê-ru-sa-lem. Trong khi chúng ta ở tại đó, mọi điều mà các nhà tiên tri đã viết về Thầy, tức là Con Người, cách đây rất lâu sẽ xảy ra.
\v 32 Các kẻ thù của Thầy sẽ đặt Thầy ở dưới quyền của những người không phải là người Do Thái. Họ sẽ chế nhạo Thầy, đối xử với Thầy bằng thái độ khinh bỉ và khạc nhổ vào mặt Thầy.
\v 33 Họ sẽ dùng roi đánh Thầy và rồi họ sẽ giết Thầy. Nhưng, ba ngày sau đó Thầy sẽ sống lại.”
\s5
\v 34 Nhưng các môn đồ không hiểu bất cứ điều gì trong những điều mà Ngài nói. Đức Chúa Trời đã ngăn không cho họ hiểu được ý nghĩa của những điều Ngài đang nói với họ.
\s5
\v 35 Khi Chúa Giê-xu và các môn đồ đến gần thành Giê-ri-cô, có một người mù đang ngồi ăn xin bên vệ đường.
\v 36 Khi anh nghe thấy tiếng đoàn dân đông đi qua, anh hỏi thăm: “chuyện gì đang xảy ra vậy? ”
\v 37 Họ nói với anh rằng: “Giê-xu, người đến từ làng Na-xa-rét, đang đi ngang qua đây.”
\s5
\v 38 Anh kêu lớn tiếng rằng: “Giê-xu, Ngài là con cháu của vua Đa-vít, xin thương xót tôi! ”
\v 39 Những người đi phía trước đám đông mắng anh và bảo anh hãy im đi. Nhưng anh thậm chí còn la to hơn rằng: “Ngài là con của vua Đa-vít, xin thương xót tôi!”
\s5
\v 40 Chúa Giê-xu dừng lại và nói dân chúng đưa anh ta đến gần Ngài. Khi người mù này đến gần, Chúa Giê-xu hỏi anh:
\v 41 “Anh muốn tôi làm gì cho anh? ” Anh đáp: “Thưa Chúa, tôi muốn Ngài làm cho tôi nhìn thấy lại được!”
\s5
\v 42 Chúa Giê-xu nói với anh: “Vậy hãy nhìn xem! Vì anh đã tin tôi, nên tôi chữa lành cho anh! ”
\v 43 Lập tức, người mù nhìn thấy được. Và anh cùng đi với Chúa Giê-xu, vừa ngợi khen Đức Chúa Trời. Khi tất cả những người dân ở đó chứng kiến sự việc này, họ cũng ngợi khen Đức Chúa Trời.
\s5
\c 19
\p
\v 1 Chúa Giê-xu đi vào thành Giê-ri-cô và băng ngang qua thành phố.
\v 2 Tại đó có một người tên là Xa-chê. Ông là người chịu trách nhiệm về việc thu thuế và rất giàu có.
\s5
\v 3 Ông muốn nhìn thấy Chúa Giê-xu nhưng ông không thể nhìn thấy Ngài vì đoàn dân đông. Ông thì rất thấp và có quá nhiều người xung quanh Chúa Giê-xu.
\v 4 Vậy nên, ông đã chạy đi trước. Ông leo lên một cây sung để có thể nhìn thấy Chúa Giê-xu khi Ngài đi ngang qua.
\s5
\v 5 Khi Chúa Giê-xu đến chỗ đó, Ngài ngước mắt lên và nói với ông: “Xa-chê, hãy mau xuống đây, tối nay tôi phải ở lại nhà của ông! ”
\v 6 Thế là, Xa-chê nhanh nhẹn leo xuống. Ông rất vui vì được đón tiếp Chúa Giê-xu vào nhà mình.
\v 7 Nhưng mọi người thấy Chúa Giê-xu đi đến đó thì càu nhàu rằng: “Ông ta định làm khách của một kẻ tội lỗi đây!”
\s5
\v 8 Trong khi họ đang ăn, Xa-chê đứng dậy thưa với Chúa Giê-xu: “Thưa Chúa, tôi muốn Ngài biết rằng tôi sẽ lấy phân nửa tài sản của tôi để cho người nghèo. Và đối với những người đã bị tôi lừa, tôi sẽ trả lại cho họ gấp bốn lần những gì tôi đã lấy của họ. ”
\v 9 Chúa Giê-xu nói với ông rằng: “Hôm nay Đức Chúa Trời đã cứu gia đình này, vì người này đã thể hiện mình thật là con cháu thật của Áp-ra-ham.
\v 10 Hãy nhớ điều này: Tôi, tức là Con Người, đến để tìm và cứu những người giống như ông, là người đã đi xa khỏi Đức Chúa Trời.”
\s5
\v 11 Dân chúng lắng nghe mọi điều Chúa Giê-xu nói. Khi Ngài đã gần đến thành Giê-ru-sa-lem, Chúa Giê-xu quyết định kể cho họ nghe một câu chuyện khác. Ngài muốn họ đừng hiểu lầm rằng ngay khi đến thành Giê-ru-sa-lem Ngài sẽ trở thành vua theo ý muốn của Đức Chúa Trời.
\v 12 Ngài nói: “Một hoàng tử chuẩn bị lên đường đến một đất nước xa xôi để được một vị vua có quyền cao hơn ban cho quyền để làm vua trên đất nước mà mình sống. Sau khi anh nhận được quyền để làm vua, anh ta sẽ trở lại để cai trị trên dân chúng của mình.
\s5
\v 13 Trước khi đi, anh cho gọi mười người đầy tớ đến. Anh trao cho mỗi người một số tiền như nhau. Anh bảo họ rằng: Hãy dùng tiền này để kinh doanh cho đến khi tôi trở về! Rồi ông đi.
\v 14 Nhưng nhiều người ở trong đất nước của anh lại ghét anh. Thế nên họ sai một vài sứ giả đi theo và thưa với vị vua có thẩm quyền cao hơn rằng: Chúng tôi không muốn người này làm vua của chúng tôi!
\v 15 Nhưng dù vậy anh ta vẫn được phong làm vua. Sau đó, anh trở về trong vai trò là một tân vương. Anh cho gọi những người đầy tớ mà mình đã giao tiền đến. Anh muốn biết họ đã làm lời ra được bao nhiêu với số tiền mà anh đưa cho họ.
\s5
\v 16 Người thứ nhất đến và thưa: Thưa ngài, với số tiền ngài giao tôi đã làm lợi ra gấp mười lần!
\v 17 Vua nói với anh: Anh là người đầy tớ tốt! Anh đã làm rất tốt! Vì anh đã trung thành trong việc sử dụng món tiền nhỏ này, ta sẽ giao cho anh cai quản mười thành.'
\s5
\v 18 Người đầy tớ thứ hai đến thưa: Thưa ngài, số tiền ngài giao tôi đã làm lợi ra gấp năm lần!
\v 19 Vua cũng nói với người đầy tớ này: Tốt lắm! Ta sẽ cho anh cai quản năm thành.
\s5
\v 20 Sau đó, một đầy tớ khác đến. Anh nói: Thưa ngài, tiền của ngài đây ạ. Tôi đã gói trong khăn và cất nó vào chỗ an toàn.
\v 21 Tôi sợ ngài sẽ trách phạt nếu việc làm ăn thất bại. Tôi biết ngài là một người nghiêm khắc, là người lấy từ nơi những người khác những thứ không thật sự thuộc về ngài. Ngài giống như một người nông dân đi gặt lúa mà người khác đã gieo trồng.'
\s5
\v 22 Vua nói với người đầy tớ ấy: Anh là đầy tớ xấu! Ta sẽ xử anh theo những lời anh vừa nói. Anh biết ta là người nghiêm khắc, bởi vì ta lấy những thứ không thuộc về ta và gặt những thứ ta không trồng.
\v 23 Vậy thì ít ra anh phải giao tiền của ta cho những người cho vay tiền, để khi ta trở về ta có thể thu được cả vốn lẫn lời đáng ra số tiền đó có thể làm ra!
\s5
\v 24 Rồi vua nói với những người đang đứng gần đó: Hãy lấy tiền từ chỗ của anh ta mà đưa cho người đầy tớ đã làm lợi ra gấp mười lần!
\v 25 Họ phản đối: Nhưng thưa ngài, anh ấy đã có nhiều tiền rồi!
\s5
\v 26 Nhưng vua nói: Ta cho các ngươi hay: Đối với những người biết sử dụng tốt những gì mình nhận được, ta thậm chí sẽ cho thêm nữa. Nhưng còn những kẻ không biết sử dụng tốt những gì mình nhận được, ta thậm chí sẽ lấy lại cả những thứ mà họ đang có nữa.
\v 27 Còn với những kẻ thù, là những người không muốn ta cai trị trên họ, hãy đem chúng đến đây và xử tử chúng cho ta xem! ’”
\s5
\v 28 Sau khi Chúa Giê-xu nói những điều ấy, Ngài tiếp tục đi lên Giê-ru-sa-lem trước các môn đồ.
\s5
\v 29 Khi họ đến gần làng Bết-pha-giê và Bê-tha-ni, cạnh núi Ô-li-ve,
\v 30 Ngài nói với hai môn đồ rằng: “Hãy đi vào làng ở phía trước. Khi anh em vào đó, anh em sẽ thấy một con lừa con chưa bị ai cưỡi lên đang được buộc ở đó. Hãy mở nó ra và dắt nó về đây cho Ta.
\v 31 Nếu có người hỏi anh em: Sao các anh cởi trói cho con lừa? thì hãy trả lời: Chúa cần nó. ’”
\s5
\v 32 Vậy, hai môn đồ vào làng và thấy con lừa y như Chúa Giê-xu đã nói với họ.
\v 33 Khi họ đang mở trói cho nó, những người chủ lừa nói với họ: “Sao các anh cởi trói con lừa của chúng tôi ra? ”
\v 34 Họ trả lời: “Chúa cần nó. ”
\v 35 Rồi các môn đồ dắt lừa về cho Chúa Giê-xu. Họ trải áo của mình lên lưng lừa để Ngài ngồi lên và đỡ Ngài lên.
\v 36 Khi Ngài cưỡi đi, những người khác trải áo của mình trên đường để tôn vinh Ngài.
\s5
\v 37 Khi họ cùng đi trên đường dẫn xuống núi Ô-li-ve, cả đoàn môn đồ bắt đầu vui mừng lớn tiếng ngợi khen Đức Chúa Trời vì những phép lạ lớn lao họ đã thấy Chúa Giê-xu làm.
\v 38 Họ đã nói những lời như: “Nguyện Đức Chúa Trời ban phước cho Vua của chúng ta là Đấng đến với thẩm quyền của Đức Chúa Trời! ” “Nguyện giữa Đức Chúa Trời trên trời và chúng ta là dân của Ngài sẽ có sự bình an! ” “Nguyện mọi người đều ngợi khen Đức Chúa Trời!”
\s5
\v 39 Một số người Pha-ri-si đi trong đám đông nói với Ngài rằng: “Thưa Thầy, hãy bảo các môn đồ của Thầy đừng nói những điều đó! ”
\v 40 Ngài đáp: “Tôi cho các ông hay: nếu những người này im lặng thì những hòn đá sẽ lên tiếng ngợi khen tôi!”
\s5
\v 41 Khi Chúa Giê-xu đến gần và nhìn thấy thành phố Giê-ru-sa-lem, Ngài khóc về dân của thành ấy.
\v 42 Ngài nói: “Tôi ước gì hôm nay các người biết cách để có được sự bình an của Đức Chúa Trời. Nhưng hiện giờ các người không thể biết được.
\s5
\v 43 Tôi muốn các người biết rằng: những kẻ thù của các người sẽ sớm đến và đặt rào chắn xung quanh thành. Họ sẽ bao vây thành và tấn công từ mọi hướng.
\v 44 Họ sẽ phá đổ tường thành và hủy diệt mọi thứ. Họ sẽ hủy diệt nó, cả các người lẫn con cái các người. Khi họ đã phá hủy mọi thứ rồi, sẽ không con hòn nào chồng lên hòn đá khác. Tất cả những việc này sẽ xảy ra vì các người đã không nhận biết thời điểm Đức Chúa Trời đã đến để cứu mình!”
\s5
\v 45 Chúa Giê-xu vào thành Giê-ru-sa-lem và đi vào sân đền thờ. Ngài thấy tại nơi đó những người đang mua bán,
\v 46 thì Ngài bắt đầu đuổi họ ra. Ngài nói với họ rằng, “Kinh Thánh có chép: Ta muốn nhà Ta là nơi người ta cầu nguyện, nhưng các người lại biến nó thành nơi lẩn trốn cho bọn trộm cướp!”
\s5
\v 47 Suốt cả tuần đó, hàng ngày Chúa Giê-xu đều dạy dỗ dân chúng trong sân đền thờ. Các thầy tế lễ cả, các thầy dạy luật tôn giáo và những người lãnh đạo người Do Thái khác đang tìm cách để giết Ngài.
\v 48 Nhưng họ không tìm ra được cách nào để làm bởi vì tất cả dân chúng đều háo hức để nghe Ngài.
\s5
\c 20
\p
\v 1 Một ngày trong tuần, khi Chúa Giê-xu đang dạy dỗ dân chúng trong sân đền thờ và nói cho họ về tin tức tốt lành của Đức Chúa Trời. Trong khi Ngài đang làm điều đó, các thầy tế lễ cả, các thầy dạy luật của người Do Thái và những trưởng lão khác đến với Ngài.
\v 2 Họ nói với Ngài: “Hãy cho chúng tôi biết, anh lấy quyền gì mà làm những việc này? Và ai cho anh cái quyền ấy?”
\s5
\v 3 Ngài đáp: “Tôi cũng muốn hỏi các ông một câu. Hãy cho tôi biết,
\v 4 về việc Giăng làm báp-têm cho dân chúng: có phải Đức Chúa Trời đã truyền lệnh cho ông để báp-têm hay con người đã truyền lệnh cho ông?”
\s5
\v 5 Họ bàn luận điều này với nhau. Họ nói: “Nếu chúng ta trả lời: Đức Chúa Trời truyền lệnh cho ông, thì ông ta sẽ bảo: vậy sao các ông không tin ông ấy? ’”
\v 6 Nhưng nếu chúng ta nói: Giăng làm báp-têm theo yêu cầu của con người, thì dân chúng sẽ ném đá chúng ta chết vì tất cả họ đều tin rằng Giăng là tiên tri do Đức Chúa Trời sai đến.”
\s5
\v 7 Nên họ trả lời rằng họ không biết ai đã bảo Giăng đi làm phép báp-têm.
\v 8 Chúa Giê-xu nói với họ: “Thế thì tôi cũng sẽ không nói cho các ông biết ai đã sai tôi đến để làm những việc này.”
\s5
\v 9 Rồi Chúa Giê-xu kể cho dân chúng nghe ẩn dụ này: “Có một người kia trồng một vườn nho. Ông cho một số người thuê vườn cho để chăm sóc nó. Sau đó, ông đi đến một đất nước khác và ở đó trong một thời gian dài.
\v 10 Khi đến mùa thu hoạch nho, ông sai một đầy tớ đến gặp những người hiện đang chăm sóc vườn để họ đưa cho anh phần nho thu được từ vườn nho của mình. Nhưng khi người đầy tớ ấy đến, họ đánh anh và đuổi về tay không.
\s5
\v 11 Sau đó, người chủ vườn sai một đầy tớ khác đến. Nhưng họ cũng đánh đập và nhục mạ anh. Họ đuổi anh về tay không.
\v 12 Tiếp sau đó, người chủ vườn lại sai một đầy tớ khác. Người đầy tớ thứ ba này cũng bị họ đánh bị thương và ném ra khỏi vườn.
\s5
\v 13 Thế nên, người chủ vườn tự nhủ: “Mình nên làm gì bây giờ? Mình sẽ sai con trai của mình, là đứa mình yêu thương rất nhiều. Có thể họ sẽ tôn trọng nó.
\v 14 Thế là chủ vườn sai con trai mình đi, nhưng khi những người chăm sóc vườn thấy cậu con trai đang đến, họ bàn với nhau, Người đang đến là người một ngày nào đó sẽ thừa kế vườn nho! Chúng ta hãy giết nó thì vườn nho này sẽ thuộc về chúng ta!
\s5
\v 15 Vậy nên, họ kéo cậu con trai ra ngoài vườn nho và họ giết cậu đi. Thế thì, tôi sẽ cho anh em biết người chủ vườn nho sẽ làm gì với họ!
\v 16 Ông ấy sẽ đến và giết hết những kẻ chăm sóc vườn. Sau đó, ông sẽ sắp xếp cho những người khác chăm sóc nó. ” Khi dân chúng nghe Chúa Giê-xu nói vậy, họ bảo: “Cầu mong chuyện như vậy không bao giờ xảy ra!”
\s5
\v 17 Nhưng Chúa Giê-xu nhìn thẳng vào họ và nói: “Anh em có thể nói vậy, nhưng hãy suy nghĩ xem những lời này trong Kinh Thánh có nghĩa gì, Hòn đá bị những thợ xây nhà bỏ đi đã trở thành hòn đá quan trọng nhất trong công trình.
\v 18 Ai ngã lên hòn đá này sẽ bị vỡ ra thành từng mảnh, và hòn đá này sẽ bị nghiền nát bất cứ ai nó rơi trúng.”
\s5
\v 19 Các thầy tế lễ cả và các thầy dạy luật người Do Thái nhận ra rằng Ngài đang lên án họ khi Ngài kể câu chuyện về những kẻ gian ác. Thế nên, họ liền cố gắng tìm cách để bắt Ngài, nhưng họ chưa dám bắt Ngài bởi vì họ sợ những gì dân chúng sẽ làm nếu họ làm vậy.
\v 20 Vì vậy, họ theo dõi Chúa Giê-xu sát sao. Họ còn sai những thám tử giả vờ làm người thật thà. Nhưng họ thật sự muốn Chúa Giê-xu nói sai một điều gì đó để họ có thể tố cáo Ngài. Họ muốn nộp Ngài cho quan tổng đốc của tỉnh.
\s5
\v 21 Thế nên, một trong các thám tử hỏi Ngài: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy nói và dạy điều hay lẽ phải. Thầy chỉ nói sự thật cho dù những nhân vật quan trọng không thích điều đó. Thầy dạy cho chúng tôi biết ý muốn của Đức Chúa Trời một cách chân thật.
\v 22 Vậy xin cho chúng tôi biết Thầy suy nghĩ như thế nào về vấn đề này: việc chúng ta nộp thuế cho chính quyền La-mã là đúng hay không, thưa Thầy?”
\s5
\v 23 Nhưng Ngài biết họ đang tìm cách lừa Ngài, khiến Ngài gặp rắc rối với cả người Do Thái là những người ghét việc đóng thuế, lẫn với chính quyền La-mã. Nên Ngài nói với họ:
\v 24 “Hãy đưa tôi xem một đồng tiền La-mã. Rồi nói cho tôi biết trên đồng tiền ấy có hình của ai. ” Họ đưa cho Ngài xem một đồng tiền và thưa: “Nó có hình và tên của Sê-sa, người đứng đầu chính quyền La-mã.”
\s5
\v 25 Ngài nói với họ: “Trong trường hợp đó, hãy trả cho chính quyền những gì thuộc về họ và trả cho Đức Chúa Trời những gì thuộc về Ngài. ”
\v 26 Các thám tử ngạc nhiên trước câu trả lời của Ngài đến độ không thể trả lời Ngài. Họ cũng không tìm thấy lỗi nào trong những lời Chúa Giê-xu nói với đoàn dân vây quanh Ngài.
\s5
\v 27 Sau đó, có một số người Sa-đu-sê đến với Chúa Giê-xu. Họ là nhóm người Do Thái cho rằng không ai có thể sống lại từ cõi chết.
\v 28 Họ cũng muốn hỏi Chúa Giê-xu một câu hỏi. Một người trong số họ thưa với Chúa: “Thưa Thầy, Môi-se có viết cho người Do Thái chúng ta rằng nếu một người nam lấy vợ nhưng chưa có con mà lại qua đời, thì em trai của người sẽ lấy quả phụ ấy để cô ta có con. Theo cách đó, người ta sẽ xem đứa bé là người nối dõi của người đã chết.
\s5
\v 29 Vậy, có bảy anh em trong một gia đình. Người anh cả lấy vợ, nhưng anh và vợ mình không có con. Sau đó anh ta qua đời.
\v 30 Người em kế tuân theo luật này và lấy người quả phụ ấy, nhưng điều tương tự cũng xảy ra với anh.
\v 31 Rồi người em thứ ba cưới cô, nhưng điều tương tự lại xảy ra lần nữa. Tất cả bảy anh em, từng người một, lấy người phụ nữ đó, nhưng họ đều không có con và từng người một đều qua đời.
\v 32 Cuối cùng, người phụ nữ đó cũng qua đời.
\v 33 Vậy, nếu thật sự có thời kỳ người chết sẽ sống lại, thì Thầy nghĩ rằng người phụ nữ ấy sẽ là vợ của ai? Xin Thầy nhớ rằng cô ấy đã cưới cả bảy anh em!”
\s5
\v 34 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Trong thế gian này, người nam thì lấy vợ và người ta gả chồng cho con gái của mình.
\v 35 Nhưng những người được Đức Chúa Trời kể là xứng đáng để ở trên thiên đàng sau khi họ sống lại từ cõi chết sẽ không kết hôn.
\v 36 Họ cũng không chết nữa, vì họ sẽ bất tử giống như các thiên sứ. Việc Đức Chúa Trời khiến họ từ kẻ chết sống lại sẽ cho thấy rằng họ là con cái của Ngài.
\s5
\v 37 Môi-se cũng có viết đôi điều về việc đó. Trong phần viết về bụi gai cháy, ông nhắc đến Đức Chúa Trời là Đấng mà Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp thờ phượng. Người chết thì không thờ phượng Đức Chúa Trời, nhưng đúng hơn là người sống mới thờ phượng Đức Chúa Trời.
\v 38 Tất cả linh hồn của những người được sống lại sau khi chết sẽ tiếp tục tôn vinh Ngài!”
\s5
\v 39 Một số thầy dạy luật người Do Thái đáp lời: “Thưa Thầy, Thầy nói đúng lắm! ”
\v 40 Sau đó, không ai dám hỏi Ngài bất cứ câu hỏi nào để gài bẫy Ngài nữa.
\s5
\v 41 Sau đó, Chúa Giê-xu nói với họ: “Tôi cho các ông biết, người ta đã sai lầm khi nói rằng Chúa Cứu Thế chỉ là con cháu của Vua Đa-vít!
\v 42 Trong Thi Thiên, chính vua Đa-vít đã viết về Chúa Cứu Thế rằng: Đức Chúa Trời phán với Chúa tôi, Hãy ngồi ở đây bên phải Ta, là nơi Ta sẽ tôn ngươi lên rất cao.
\v 43 Hãy ngồi đây cho trong khi Ta đánh bại hoàn toàn các kẻ thù của Con.
\v 44 Vua Đa-vít gọi Chúa Cứu Thế là Chúa tôi! Thế nên Chúa Cứu Thế không thể chỉ là một ai đó trong số con cháu của Vua Đa-vít! Những gì tôi đã nói chứng minh rằng, Ngài phải là Đấng lớn hơn Đa-vít rất nhiều, có đúng vậy không?”
\s5
\v 45 Trong khi những người khác đang lắng nghe, Chúa Giê-xu nói với các môn đồ của mình rằng:
\v 46 “Hãy cẩn thận để anh em không hành động giống như những người dạy luật pháp của người Do Thái. Họ thích mặc áo dài đi loanh quanh để khiến người ta nghĩ rằng họ là người quan trọng. Họ cũng thích được mọi người kính cẩn chào giữa phố chợ. Họ thích ngồi ở những vị trí quan trọng nhất trong nhà hội. Khi đi dự tiệc, họ thích ngồi ở những chỗ dành cho những vị khách danh dự nhất ngồi.
\v 47 Họ cũng cướp hết tài sản của các bà quả phụ. Rồi họ cầu nguyện thật dài tại chốn công cộng. Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ hình phạt họ cách nặng nề.”
\s5
\c 21
\p
\v 1 Từ chỗ Ngài đang ngồi, Chúa Giê-xu nhìn lên và thấy những người giàu đang bỏ những món quà của họ vào thùng lạc hiến.
\v 2 Ngài cũng thấy một quả phụ nghèo bỏ vào hai đồng tiền nhỏ chẳng đáng là bao.
\v 3 Và Ngài nói với các môn đồ rằng: “Sự thật là, bà quả phụ nghèo kia đã bỏ vào trong thùng lạc hiến nhiều tiền hơn tất cả những người giàu kia.
\v 4 Vì tất cả họ ai cũng có nhiều tiền, nhưng họ chỉ dâng một phần nhỏ trong số đó. Nhưng bà quả phụ này, là người rất nghèo, nhưng đã dâng toàn bộ số tiền bà có để mua những thứ bà cần.
\s5
\v 5 Một số môn đồ của Chúa Giê-xu đang nói về việc đền thờ được trang hoàng bằng đá và những lễ vật trang trí đẹp mắt mà người ta đã dâng. Nhưng Chúa Giê-xu nói:
\v 6 “Những gì anh em đang thấy đây sẽ bị hủy diệt hoàn toàn. Phải, sẽ có ngày chẳng còn một hòn đá nào nằm chồng trên một hòn đá khác.”
\s5
\v 7 Họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, khi nào các việc ấy sẽ xảy ra? Và điều gì sẽ xảy ra để cho thấy rằng những điều ấy sắp xảy ra hay không? ”
\v 8 Chúa Giê-xu đáp: “Hãy cẩn thận đừng để ai lừa dối anh em. Vì nhiều người sẽ đến và mỗi người đều tuyên bố họ là Thầy. Mỗi người sẽ nói về chính mình rằng: Ta là Đấng Mê-si-a! Họ cũng sẽ nói rằng, Thời kỳ Đức Chúa Trời sẽ cai trị như một vị vua đã đến gần! Anh em đừng theo làm môn đồ họ!
\v 9 Còn nữa, khi anh em nghe nói về chiến tranh và việc người ta chiến đấu với nhau thì đừng kinh hãi. Vì những việc ấy phải xảy ra trước khi sự kết thúc của thế giới này đến.”
\s5
\v 10 “Những nhóm người khác nhau sẽ tấn công lẫn nhau, các vua khác nhau sẽ chiến đấu với nhau.
\v 11 Và tại nhiều nơi sẽ có động đất lớn, cũng như đói kém và các dịch bệnh kinh hoàng. Nhiều điều xảy ra sẽ khiến cho con người vô cùng khiếp sợ và người ta sẽ thấy các điều kỳ lạ trên trời báo hiệu rằng một sự kiện vô cùng quan trọng sắp xảy ra.
\s5
\v 12 Nhưng trước khi những việc ấy xảy ra, họ sẽ bắt anh em, đối xử với anh em cách tàn tệ và nộp anh em cho các nhà hội để họ xét xử và bỏ tù anh em. Họ sẽ xét xử anh em trước sự hiện diện của các vua và những lãnh đạo cấp cao vì anh em theo Thầy.
\v 13 Đó sẽ là lúc để anh em nói cho họ biết sự thật về Thầy.
\s5
\v 14 Vậy, anh em đừng lo nghĩ trước về điều anh em sẽ nói để bênh vực mình,
\v 15 vì Thầy sẽ ban cho anh em lời lẽ phù hợp và sự khôn ngoan để anh em biết cần phải nói gì. Kết quả là, không một người nào kiện cáo anh em có thể nói rằng anh em sai.
\s5
\v 16 Và thậm chí cha mẹ, những người thân và bạn bè phản bội, họ sẽ giết vài người trong anh em.
\v 17 Nói chung, mọi người sẽ ghét anh em bởi vì anh em tin nơi Thầy.
\v 18 Nhưng thậm chí một sợi tóc trên đầu anh em cũng sẽ không mất đâu.
\v 19 Nếu anh em trải qua những lúc khó khăn và chứng minh được đức tin của mình nơi Đức Chúa Trời thì anh em sẽ cứu được chính mình.”
\s5
\v 20 “Khi anh em thấy thành Giê-ru-sa-lem bị quân đội bao vây thì anh em biết rằng họ sẽ nhanh chóng phá hủy thành phố này.
\v 21 Lúc ấy, ai trong số anh em đang ở xứ Giu-đê hãy chạy trốn lên các ngọn núi. Và ai trong số anh em đang ở trong thành thì phải rời đi. Những ai trong số anh em đang ở khu ngoại ô gần đó thì đừng đi vào thành.
\v 22 Vì đây sẽ là lúc Đức Chúa Trời hình phạt thành phố này; khi Ngài làm điều đó, mọi lời trong Kinh Thánh sẽ thành hiện thực.
\s5
\v 23 Trong những ngày đó, thật kinh khiếp cho phụ nữ mang thai và những ai đang chăm sóc con của mình, vì sẽ có đại họa trong xứ và người dân sẽ phải chịu nhiểu đau khổ vì Đức Chúa Trời sẽ nổi giận với họ.
\v 24 Nhiều người trong số họ sẽ chết vì bị quân lính tấn công bằng vũ khí. Những người khác sẽ trở thành tù nhân và họ sẽ bị giải đi nhiều nơi trên khắp thế giới. Dân ngoại sẽ cứ hành quân khắp các đường phố Giê-ru-sa-lem cho đến chừng nào Đức Chúa Trời còn cho phép họ làm như vậy.”
\s5
\v 25 “Lúc ấy, sẽ có những việc kỳ lạ xảy ra đối với mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao. Còn ở dưới dất, các dân tộc sẽ sợt sệt và họ sẽ trở nên bối rối bởi vì biển cả gầm thét cùng với những cơn sóng lớn của nó.
\v 26 Người ta ngất đi vì kinh hãi, bởi vì họ đang chờ đợi việc sẽ xảy ra trong đời sau. Các ngôi sao trên trời sẽ phải rời khỏi vị trí thông thường của chúng.
\s5
\v 27 Rồi mọi người sẽ thấy Thầy, tức là Con Người, đến trong các đám mây với quyền năng và ánh sáng rực rỡ.
\v 28 Vậy nên, khi những điều tồi tệ ấy bắt đầu xảy ra, hãy đứng thẳng và ngước nhìn lên, vì Đức Chúa Trời sẽ sớm giải cứu anh em.”
\s5
\v 29 Rồi Chúa Giê-xu kể cho họ nghe một ẩn dụ: “Hãy suy nghĩ về những cây vả và thậm chí là tất cả các cây khác.
\v 30 Khi nào anh em thấy những lá của chúng bắt đầu mọc ra, thì anh em biết rằng sắp đến mùa hè.
\v 31 Cũng vậy, khi anh em nhìn thấy những điều thầy vừa kể xảy ra, thì anh em biết rằng Đức Chúa Trời sẽ sớm bày tỏ chính Ngài ra như một vị vua.
\s5
\v 32 Thầy nói thật với anh em: thế hệ này sẽ chưa kết thúc trước khi những điều Thầy vừa mô tả xảy ra đâu.
\v 33 Trời và đất sẽ đi đến hồi kết nhưng những gì Thầy nói với anh em sẽ không bao giờ đi đến hồi kết.
\s5
\v 34 “Hãy hết mực cẩn thận trong việc tự chủ bản thân mình. Đừng đi đến những bữa tiệc mà người ta thác loạn hay say xỉn. Đừng mang theo mình nỗi bận tâm về đời này. Nếu anh em sống như vậy thì anh em sẽ không còn chờ đợi Thầy trở lại nữa. Và khi đó Thầy sẽ khiến anh em ngạc nhiên khi thầy đến. Thầy sẽ đến cách thình lình như khi một cái bẫy thú sập lại mà không báo trước.
\v 35 Thật sự, Thầy sẽ trở lại mà không báo trước gì cả, và ngày ấy sẽ đến khi anh em không sẵn sàng gặp Thầy.
\s5
\v 36 Vậy, anh em phải luôn sẵn sàng chờ ngày Thầy trở lại. Và phải luôn cầu nguyện để anh em có thể được an toàn trải qua mọi điều khó khăn này, và để Thầy, tức là Con Người, công bố rằng anh em vô tội khi Thầy đến để phán xét thế giới.”
\s5
\v 37 Hàng ngày, Chúa Giê-xu dạy dỗ dân chúng trong đền thờ. Nhưng mỗi buổi tối, Ngài đi ra khỏi thành và ở suốt đêm trên Núi Ô-li-ve.
\v 38 Và mỗi buổi sáng sớm, tất cả dân chúng lại đến đền thờ để lắng nghe Ngài.
\s5
\c 22
\p
\v 1 Gần đến thời điểm của Lễ Bánh Không Men, là lễ mà người dân còn gọi là Lễ Vượt Qua.
\v 2 Lúc này, các thầy tế lễ cả và các thầy dạy luật người Do Thái đang tìm cách để giết Chúa Giê-xu vì họ sợ dân chúng, là những người đang theo Ngài.
\s5
\v 3 Sa-tan đã nhập vào Giu-đa, người được gọi là Ích-ca-ri-ốt, là một trong số mười hai môn đồ.
\v 4 Hắn đi và nói chuyện với các thầy tế lễ cả và các viên chức bảo vệ đền thờ về cách làm thế nào hắn có thể giao nộp Chúa Giê-xu cho họ.
\s5
\v 5 Họ rất hài lòng về việc hắn muốn làm điều đó. Họ để nghị trả tiền cho hắn để làm việc ấy.
\v 6 Thế nên, Giu-đa đã đồng ý và rồi ông bắt đầu tìm cách giúp họ bắt Chúa Giê-xu khi không có dân chúng vây quanh Ngài.
\s5
\v 7 Đến ngày Lễ Bánh Không Men, là ngày người ta giết các con chiên con để kỷ niệm Lễ Vượt Qua.
\v 8 Chúa Giê-xu nói với Phi-e-rơ và Giăng: “Hãy đi chuẩn bị bữa ăn Lễ Vượt Qua để chúng ta cùng ăn với nhau. ”
\v 9 Họ thưa với Ngài: “Thầy muốn chúng tôi chuẩn bị bữa ăn tại đâu?”
\s5
\v 10 Ngài đáp: “Hãy nghe cho kỹ. Khi anh em đi vào trong thành, một người đang mang một bình nước lớn sẽ gặp anh em; hãy đi theo người ấy vào nhà mà anh ta đi vào.
\v 11 Hãy nói với chủ nhà, Thầy của chúng tôi nói hãy chỉ cho chúng tôi căn phòng để Thầy và các môn đồ của người có thể cùng ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?
\s5
\v 12 Người ấy sẽ chỉ cho anh em một căn phòng lớn ở trên lầu. Nó đã đươc chuẩn bị với mọi thứ đã sẵn sàng để dùng cho khách. Hãy dọn bữa ăn cho chúng ta ở đó. ”
\v 13 Vậy, hai môn đồ đi vào trong thành. Họ thấy mọi thứ giống y như những điều Chúa Giê-xu đã nói với họ. Thế nên, họ đã chuẩn bị bữa ăn cho Lễ Vượt Qua tại đó.
\s5
\v 14 Đến giờ dùng bữa, Chúa Giê-xu đến và ngồi xuống với các sứ đồ.
\v 15 Ngài nói với họ: “Thầy rất muốn ăn bữa ăn Lễ Vượt Qua này với anh em trước khi Thầy chịu đau đớn và chịu chết.
\v 16 Thầy nói cho anh em biết, Thầy sẽ không ăn bữa ăn Lễ Vượt Qua này nữa cho đến khi Thầy dự lễ ấy vào thời điểm Đức Chúa Trời cai trị trên mọi người ở mọi mơi, là khi Ngài hoàn thành việc đã bắt đầu trong Lễ Vượt Qua.”
\s5
\v 17 Rồi Ngài lấy một ly rượu và tạ ơn Đức Chúa Trời. Ngài nói: “Hãy cầm lấy và chia nhau ly này trong vòng anh em.
\v 18 Vì Thầy nói cho anh em biết rằng, Thầy sẽ không uống loại rượu này nữa cho đến khi Đức Chúa Trời cai trị trên mọi người ở mọi nơi.”
\s5
\v 19 Sau đó, Ngài cầm lấy bánh và tạ ơn Đức Chúa Trời. Ngài bẻ nó ra thành từng miếng và đưa cho họ để ăn. Khi Ngài làm như vậy, Ngài nói, “Bánh này là thân thể của Thầy, sắp vì anh em mà phải hy sinh. Về sau, hãy làm điều này để thể hiện sự kính trọng đối với Thầy. ”
\v 20 Cũng vậy, sau khi họ đã dùng bữa xong, Ngài cầm ly rượu lên và nói: “Đây là giao ước mới mà Thầy sẽ lập bằng chính huyết của mình, là huyết sẽ đổ ra vì anh em.
\s5
\v 21 Nhưng, hãy nhìn xem! Kẻ sẽ nộp Thầy cho các kẻ thù của Thầy cũng đang ngồi đây ăn với Thầy.
\v 22 Thật vậy, Thầy, tức là Con Người, sẽ chết, vì đó là điều Đức Chúa Trời đã hoạch định. Nhưng thật kinh khiếp cho kẻ nộp Thầy vào tay các kẻ thù của Thầy! ”
\v 23 Các sứ đồ bắt đầu hỏi nhau: “Ai trong chúng ta là kẻ đang dự tính làm điều đó?”
\s5
\v 24 Sau đó, các sứ đồ tranh cãi với nhau; họ nói, “Ai trong chúng ta sẽ được tôn trọng nhất khi Chúa Giê-xu lên làm vua? ”
\v 25 Chúa Giê-xu trả lời họ: “Các vua ở những nước ngoại quốc thích chứng tỏ cho người dân thấy rằng họ quyền lực. Thế nhưng, họ lại tự ban cho mình danh hiệu những người giúp đỡ nhân dân.
\s5
\v 26 Nhưng anh em không nên giống như những người cai trị đó! Thay vào đó, những người được tôn trọng nhất trong anh em phải cư xử như thể họ là những người nhỏ nhất, và người lãnh đạo phải cư xử như một người đầy tớ.
\v 27 Vì anh em biết rằng nhân vật quan trọng thì ngồi ăn tại bàn, chớ không phải đầy tớ là người đi bưng bê thức ăn. Nhưng Thầy là người đầy tớ của anh em.
\s5
\v 28 Anh em là những người đã ở với Thầy trong những khó khăn mà Thầy đã chịu.
\v 29 Giờ đây, Thầy sẽ cho anh em giữ các chức vụ có quyền thế lớn khi Đức Chúa Trời cai trị trên mọi người, cũng như Cha Thầy đã chỉ định Thầy làm Vua để cai trị vậy.
\v 30 Anh em sẽ được ngồi ăn và uống với Thầy khi Thầy được lên làm Vua. Thật vậy, anh em sẽ được ngồi trên ngôi để phán xét mười hai bộ tộc của Y-sơ-ra-ên.”
\s5
\v 31 “Si-môn, Si-môn, hãy nghe đây! Sa-tan đã xin Đức Chúa Trời cho phép nó thử anh, giống như người ta sàng sảy lúa mì trong cái rây, và Đức Chúa Trời đã cho phép nó làm điều đó.
\v 32 Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh, Si-môn, để anh không hoàn toàn từ bỏ đức tin nơi Thầy. Vậy khi anh quay trở lại cùng Thầy, hãy khích lệ các anh em của mình một lần nữa.
\s5
\v 33 Phi-e-rơ thưa với Ngài: “Thưa Chúa, tôi sẵn sàng cùng Ngài chịu tù; tôi sẵn sàng cùng chết với Ngài! ”
\v 34 Chúa Giê-xu đáp: “Phi-e-rơ, Thầy muốn anh biết rằng trong đêm nay, trước khi gà trống gáy, anh sẽ nói ba lần rằng anh không biết Thầy!”
\s5
\v 35 Rồi Chúa Giê-xu hỏi các môn đồ: “Khi Thầy sai anh em đi đến các ngôi làng và anh em đi không đem theo tiền bạc, lương thực hay giày dép, có điều gì anh em cần mà không có được không? ” Họ thưa: “Không thiếu gì cả! ”
\v 36 Và Ngài nói: “Nhưng bây giờ, nếu ai trong anh em có tiền, người đó hãy đem nó theo bên mình. Cũng vậy, ai có lương thực hãy đem nó theo bên mình, và ai không có gươm, hãy bán áo choàng của mình đi mà mua!”
\s5
\v 37 Thầy nói với anh em điều này vì điều mà tiên tri đã viết về Thầy trong Kinh Thánh phải xảy ra: Người ta xem người như tội phạm. Mọi điều được chép về Thầy trong Kinh Thánh đang xảy ra.
\v 38 Các môn đồ thưa: “Thưa Chúa, hãy nhìn xem! Chúng tôi có hai thanh gươm! ” Ngài đáp: “Đủ rồi. Đừng nên nói như vậy nữa.”
\s5
\v 39 Chúa Giê-xu ra khỏi thành và đi lên Núi Ô-li-ve, như Ngài vẫn thường làm; các môn đồ cùng đi với Ngài.
\v 40 Khi đến nơi Ngài muốn đến, Ngài nói với họ: “Hãy cầu nguyện để Đức Chúa Trời giúp anh em không bị cám dỗ mà phạm tội.”
\s5
\v 41 Rồi Ngài đi khỏi họ khoảng ba mươi mét, quỳ xuống và cầu nguyện:
\v 42 Ngài nói: “Thưa Cha, những điều kinh khiếp sắp xảy ra cho Con: nếu Cha sẵn lòng ngăn nó không cho xảy ra, thì xin Cha hãy làm. Nhưng đừng làm theo điều con muốn, nhưng làm theo điều Cha muốn.”
\s5
\v 43 Có một thiên sứ từ trời đến thêm cho Ngài lòng can đảm.
\v 44 Ngài đang rất khổ sở. Thế nên, Ngài cầu nguyện càng khẩn thiết hơn. Mồ hôi của Ngài giống như những giọt máu lớn rơi xuống đất.
\s5
\v 45 Khi Ngài cầu nguyện xong, Ngài trở lại cùng các môn đồ. Ngài thấy rằng họ đang ngủ vì đã quá mệt mỏi với nỗi đau buồn.
\v 46 Ngài đánh thức họ dậy và nói với họ: “Anh em đáng ra không nên ngủ! Hãy dậy đi! Hãy cầu nguyện xin Đức Chúa Trời giúp đỡ để không điều gì thuyết phục anh em phạm tội được.”
\s5
\v 47 Trong khi Ngài còn đang nói, có một đám đông người đến cùng Ngài. Giu-đa, một trong mười hai môn đồ, là người dẫn đầu bọn họ. Hắn đến gần Chúa Giê-xu để hôn Ngài.
\v 48 Nhưng Chúa Giê-xu nói với hắn: “Giu-đa, anh thực sự sẽ hôn Thầy, tức là Con Người, để nộp Thầy vào tay các kẻ thù của Thầy sao?”
\s5
\v 49 Khi các môn đồ biết việc gì đang diễn ra, họ nói: “Thưa Chúa, chúng con có nên dùng gươm đánh họ chăng? ”
\v 50 Một người trong số họ đánh người đầy tớ của thầy tế lễ thượng phẩm, nhưng chỉ chém đứt lỗ tai bên phải của anh ta.
\v 51 Nhưng Chúa Giê-xu nói: “Đừng làm thêm những việc như vậy. ” Rồi Ngài chạm vào lỗ tai của người đầy tớ ấy và chữa lành cho anh ta.
\s5
\v 52-53 Chúa Giê-xu nói với các thầy tế lễ cả, các viên chức bảo vệ đền thờ và các trưởng lão người Do Thái, là những người đến để bắt Ngài rằng: “Thật ngạc nhiên vì các ông mang gươm và gậy đến để bắt tôi như thể tôi là một tên cướp vậy. Trong nhiều ngày, tôi ở cùng các ông trong đền thờ, nhưng các ông không hề ra tay bắt tôi! Nhưng đây là lúc các ông làm điều mình muốn. Đây cũng là lúc mà Sa-tan thực hiện những việc gian ác mà hắn muốn.
\s5
\v 54 Họ bắt Chúa Giê-xu dẫn đi và giải Ngài đi. Họ đem Ngài đến nhà thầy tế lễ thượng phẩm. Phi-e-rơ đi theo họ từ xa.
\v 55 Họ nhóm lửa ở giữa sân rồi cùng nhau ngồi xuống. Phi-e-rơ ngồi ở giữa họ.
\s5
\v 56 Qua ánh lửa, một đầy tớ gái nhìn thấy Phi-e-rơ ngồi đó. Cô nhìn ông thật kỹ và nói: “Ông này cũng ở cùng với người mà họ vừa bắt! ”
\v 57 Nhưng Phi-e-rơ chối và nói rằng: “Này cô, tôi không biết ông ta! ”
\v 58 Một lát sau, có người khác nhìn thấy Phi-e-rơ và nói: “Ông cũng là một trong số những người ở cùng với người đàn ông mà họ vừa bắt! ” Nhưng Phi-e-rơ nói: “Này anh, tôi không phải một trong số họ đâu!”
\s5
\v 59 Khoảng một tiếng sau, có người khác nói lớn rằng: “Cách nói của người này cho thấy rằng anh ta đến từ vùng Ga-li-lê. Chắc chắn người này cũng ở với người đàn ông mà họ vừa bắt! ”
\v 60 Nhưng Phi-e-rơ nói: “Này anh, tôi không biết anh đang nói gì! ” Ngay lúc ông còn đang nói thì gà trống gáy.
\s5
\v 61 Chúa Giê-xu quay lại và nhìn Phi-e-rơ. Phi-e-rơ liền nhớ lại điều mà Chúa đã nói với ông: “Đêm nay, trước khi gà trống gáy, anh sẽ ba lần chối rằng anh không biết Thầy. ”
\v 62 Ông đi ra khỏi sân và khóc cách đau khổ.
\s5
\v 63 Những người canh giữ Chúa Giê-xu đã chế nhạo và đánh Ngài.
\v 64 Họ bịt mắt Ngài lại, rồi nói: “Hãy chứng tỏ ngươi là một đấng tiên tri đi nào! Hãy nói cho chúng ta biết ai đã đánh ngươi! ”
\v 65 Họ còn nói nhiều điều xấu xa khác về Ngài, xúc phạm Ngài.
\s5
\v 66 Rạng sáng hôm sau, nhiều lãnh đạo Do Thái tập trung lại. Trong nhóm đó có các thầy tế lễ cả và những người dạy luật của người Do Thái. Họ giải Chúa Giê-xu đến Hội Đồng của người Do Thái. Tại đó, Họ nói với Ngài:
\v 67 “Nếu ngươi là Đấng Mê-si-a, hãy nói cho chúng ta biết! ” Nhưng Ngài đáp: “Nếu tôi nói tôi là Đấng ấy, các ông sẽ không tin tôi.
\v 68 Nếu tôi hỏi, các ông nghĩ gì về Đấng Mê-si-a, các ông sẽ không trả lời tôi.
\s5
\v 69 Nhưng từ nay trở đi, tôi, tức là Con Người, sẽ ngồi kế bên Đức Chúa Trời toàn năng và cai trị! ”
\v 70 Tất cả họ đều hỏi: “Nếu là như vậy, có phải ngươi đang nói rằng mình là Con Đức Chúa Trời? ” Ngài đáp: “Đúng vậy, đúng như lời các ông vừa nói. ”
\v 71 Họ liền nói với nhau: “Chúng ta chắc không cần thêm người làm chứng chống lại hắn! Chính chúng ta đã nghe hắn nói rằng hắn ngang bằng với Đức Chúa Trời!”
\s5
\c 23
\p
\v 1 Cả nhóm đứng dậy và giải Ngài đến chỗ Phi-lát, tổng đốc người La-mã.
\v 2 Họ tố cáo Ngài trước mặt Phi-lát: “Chúng tôi đã thấy người này gây rắc rối bằng cách nói dối người dân của chúng tôi. Hắn đã bảo họ đừng nộp thuế cho Sê-sa, là hoàng đế La-mã. Hắn cũng tự xưng mình là Đấng Mê-si-a, là vua!”
\s5
\v 3 Phi-lát hỏi Ngài: “Ngươi có phải là Vua của người Do Thái không? ” Chúa Giê-xu đáp: “Phải, đúng như lời ngài vừa hỏi tôi. ”
\v 4 Phi-lát nói với các thầy tế lễ cả và đám đông: “Người này chẳng phạm tội ác nào cả. ”
\v 5 Nhưng họ cứ khăng khăng cáo buộc Chúa Giê-xu; họ nói, “Hắn đang ra sức kích động dân chúng nổi loạn! Hắn đã giảng dạy những quan điểm của hắn khắp cả xứ Giu-đê. Hắn đã bắt đầu làm điều này trong vùng Ga-li-lê và nay hắn đang làm điều đó ở đây!”
\s5
\v 6 Khi Phi-lát nghe những lời của họ, ông hỏi, “Người này đến từ vùng Ga-li-lê sao? ”
\v 7 Vì Phi-lát nghe nói Chúa Giê-xu đến từ Ga-li-lê, là khu vực cai trị của Hê-rốt An-ti-pa, ông cho giải Chúa Giê-xu đến Hê-rốt bởi vì lúc ấy ông đang có mặt tại Giê-ru-sa-lem.
\s5
\v 8 Khi Hê-rốt nhìn thấy Chúa Giê-xu, ông rất vui mừng. Lâu nay ông đã mong được gặp Ngài vì ông đã nghe nói nhiều điều về Ngài và cũng muốn thấy Ngài làm phép lạ.
\v 9 Thế nên, ông hỏi Chúa Giê-xu rất nhiều câu hỏi, nhưng Chúa Giê-xu không trả lời bất cứ câu nào.
\v 10 Còn các thầy tế lễ cả và một số người chuyên về luật pháp của người Do Thái đứng gần Ngài thì ra sức tố cáo Ngài với đủ mọi tội danh.
\s5
\v 11 Hê-rốt và quân lính của ông chế giễu Chúa Giê-xu. Họ lấy quần áo đắt tiền mặc cho Ngài, giả vờ xem Ngài như là vua. Rồi Hê-rốt trao trả Ngài lại cho Phi-lát.
\v 12 Từ trước đến nay, Hê-rốt và Phi-lát vốn thù hiềm nhau, nhưng trong ngày hôm ấy họ đã trở thành bạn bè.
\s5
\v 13 Phi-lát tập hợp các thầy tế lễ cả và những người lãnh đạo Do Thái khác cùng dân chúng đang ở đó lại.
\v 14 Ông nói với họ: “Các người đem người này đến cho ta, bảo rằng hắn đang lãnh đạo dân chúng nổi loạn. Nhưng sau khi đã thẩm tra hắn như các người đã nghe, ta muốn các người biết rằng, ta không nghĩ rằng người này mắc bất cứ một tội nào như lời các người đã tố cáo.
\s5
\v 15 Ngay cả Hê-rốt cũng không nghĩ rằng người này có tội. Ta biết điều này bởi vì ông đã giao người này lại cho chúng ta mà không hề hình phạt hắn. Thế nên, rõ ràng là người này không đáng chết.
\v 16 Vì vậy, ta sẽ sai lính đánh đòn hắn rồi thả hắn ra. ”
\v 17 (Phi-lát nói điều này vì ông phải tha cho một tù nhân vào ngày Lễ Vượt Qua).
\s5
\v 18 Nhưng cả đám đông đồng thanh kêu lên: “Hãy giết người này đi! Hãy tha Ba-ra-ba cho chúng tôi! ”
\v 19 Ba-ra-ba là là người đã cầm đầu một số người trong thành nổi loạn chống lại chính quyền La-mã. Ông cũng là một kẻ giết người. Ông bị bỏ tù bởi vì những tội danh đó và ông đang chờ họ xử tử.
\s5
\v 20 Nhưng Phi-lát rất muốn tha cho Chúa Giê-xu nên ông tiếp tục thuyết phục dân chúng một lần nữa.
\v 21 Nhưng họ cứ nhất quyết kêu lên rằng: “Hãy đóng đinh hắn! Hãy đóng đinh hắn! ”
\v 22 Phi-lát nói với họ lần thứ ba và hỏi họ rằng: “Tại sao? Hắn đã phạm tội ác gì? Hắn chẳng làm gì để đáng phải chết. Thế nên, ta sẽ sai lính đánh đòn rồi thả hắn ra.”
\s5
\v 23 Nhưng họ cứ khăng khăng hét to lên rằng đòi Chúa Giê-xu phải chết trên thập tự giá. Cuối cùng, bởi vì họ liên tục gào thét lớn tiếng, họ đã thuyết phục Phi-lát
\v 24 làm theo điều họ yêu cầu.
\v 25 Vậy nên, ông đã trả tự do cho tên tù nhân phạm tội chống đối chính quyền và giết người! Rồi ông sai lính bắt Chúa Giê-xu và làm theo điều mà đám đông yêu cầu.
\s5
\v 26 Lúc ấy, có một người đến từ thành Sy-ren ở Châu Phi, tên là Si-môn. Ông từ miền quê đi lên Giê-ru-sa-lem. Khi quân lính đang giải Chúa Giê-xu đi, họ túm lấy Si-môn. Họ lấy cây thập tự của Chúa Giê-xu và bắt ông vác nó, và họ đã đặt nó lên vai của Si-môn.
\s5
\v 27 Một đoàn dân đông đi theo Chúa Giê-xu. Trong đó có nhiều phụ nữ đấm ngực mình và than khóc cho Ngài.
\v 28 Chúa Giê-xu quay lại và nói với họ: “Các chị em, là những phụ nữ ở Giê-ru-sa-lem, đừng khóc cho tôi! Thay vào đó, hãy khóc vì những gì sắp xảy ra cho các chị em và con cái của các chị em!
\s5
\v 29 Vì tôi muốn các chị em hay rằng sẽ sớm có ngày người ta sẽ nói: Thật may mắn cho những phụ nữ chưa từng sanh con hay cho con bú!
\v 30 Dân trong thành phố này sẽ nói: Chúng tôi ước gì những ngọn núi đổ xuống trên chúng tôi và rằng những ngọn đồi sẽ che lấp chúng tôi!
\v 31 Nếu tôi phải chịu chết, mặc dầu tôi không làm gì sai, thì những điều khủng khiếp chắc chắn sẽ xảy ra cho những người đáng phải chết.
\s5
\v 32 Cũng có hai tên tội phạm khác bị giải đi đến chỗ họ sẽ chịu chết cùng với Chúa Giê-xu.
\s5
\v 33 Khi họ đến chỗ gọi là “Cái Sọ, ” tại đó, họ hành hình Chúa Giê-xu bằng cách đóng đinh Ngài vào cây thập tự. Họ cũng làm như vậy với hai tên tội phạm. Họ đặt một tên bên phải và một tên bên trái Chúa Giê-xu.
\v 34 Nhưng Chúa Giê-xu nói rằng: “Thưa Cha, xin tha thứ cho những người đã làm việc này, vì họ thực sự không biết mình đang làm vậy với ai. ” Rồi quân lính chia nhau y phục của Ngài bằng cách chơi trò tương tự như lắc xí ngầu để quyết định xem phần nào sẽ thuộc về ai.
\s5
\v 35 Nhiều người đứng gần đó để xem. Thậm chí, những người lãnh đạo Do Thái còn chế nhạo Chúa Giê-xu: “Hắn đã cứu những người khác! Nếu Đức Chúa Trời thực sự chọn hắn làm Đấng Mê-si-a, thì chắc hắn phải tự cứu mình được!”
\s5
\v 36 Quân lính cũng nhạo báng Ngài. Họ đến gần và đưa giấm cho Ngài uống.
\v 37 Họ cứ nói với Ngài rằng: “Nếu ông là Vua dân Do Thái, hãy tự cứu mình đi! ”
\v 38 Họ cũng đóng vào cây thập tự ở phía trên đầu của Ngài một tấm biển có đề rằng: Đây là Vua của dân Do Thái.
\s5
\v 39 Một trong hai tên tội phạm bị treo trên thập tự giá cũng xúc phạm Ngài; hắn ta nói: “Ông là Đấng Mê-si-a, không phải sao? Thế thì, hãy tự cứu mình đi và cứu cả chúng tôi nữa! ”
\v 40 Nhưng tên kia ngăn hắn nói; người đó nói: “Anh nên sợ Đức Chúa Trời trừng phạt anh! Họ hình phạt ông ấy y như chúng ta.
\v 41 Hai chúng ta đều đáng chết. Họ hình phạt chúng ta xứng với những việc ác chúng ta làm. Nhưng người này không có làm gì sai cả!”
\s5
\v 42 Rồi anh thưa với Chúa Giê-xu: “Thưa Giê-xu, khi Ngài bắt đầu cai trị như một vị vua, xin nhớ đến và cứu tôi! ”
\v 43 Chúa Giê-xu đáp: “Tôi muốn nói cho anh biết rằng hôm nay anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng!”
\s5
\v 44 Khi đó vào khoảng giữa trưa. Nhưng khắp xứ đều trở nên tối tăm cho đến ba giờ chiều.
\v 45 Không hề có ánh sáng từ mặt trời. Và bức màn dày ngăn nơi chí thánh trong đền thờ bị xé ra làm đôi.
\s5
\v 46 Khi điều đó xảy ra, Chúa Giê-xu kêu lớn lên rằng: “Thưa Cha, Con xin giao linh hồn Con trong tay Cha! ” Sau khi Ngài nói điều đó, thì Ngài ngừng thở và qua đời.
\v 47 Khi viên sĩ quan chỉ huy quân lính thấy sự việc đã xảy ra, ông nói: “Thật, người này không làm gì nên tội! ” Điều ông nói thể hiện sự tôn kính Đức Chúa Trời.
\s5
\v 48 Khi đoàn dân tụ tập để chứng kiến cái chết của những người này nhìn thấy việc đã xảy ra, thì họ trở về nhà, đấm ngực mình để tỏ ra rằng họ đau buồn.
\v 49 Tất cả những người thân quen với Chúa Giê-xu, bao gồm những người phụ nữ đã theo Ngài từ Ga-li-lê, đều đứng đằng xa chứng kiến mọi việc đã xảy ra.
\s5
\v 50-51 Lúc ấy, có một người tên là Giô-sép, đến từ A-ri-ma-thê, một thành phố của người Do Thái. Ông là một người tốt và công bình, và ông là thành viên của Hội Đồng Người Do Thái. Ông nhìn thấy mọi việc xảy ra nhưng ông không đồng thuận với các thành viên khác trong Hội Đồng khi họ quyết định giết hại Chúa Giê-xu và khi họ thi hành điều đó. Ông cũng đang nóng lòng trông đợi ngày Đức Chúa Trời sẽ sai phái vua của Ngài đến để bắt đầu cai trị.
\s5
\v 52 Giô-sép đến gặp Phi-lát và xin Phi-lát cho phép được đưa thi hài của Chúa Giê-xu đem đi chôn. Phi-lát cho phép ông làm điều đó,
\v 53 thế nên ông đem thi hài Chúa Giê-xu xuống khỏi cây thập tự. Ông liệm xác Ngài bằng vải lanh. Rồi ông đặt xác Ngài trong một phần mộ mà ai đó đã đục trong vách đá. Chưa có ai được chôn trong đó trước đây.
\s5
\v 54 Đó là ngày người ta chuẩn bị sẵn sàng cho ngày nghỉ của người Do Thái gọi là ngày Sa-bát. Mặt trời đã gần lặn, và đó là thời điểm bắt đầu của ngày Sa-bát
\v 55 Những người phụ nữ cùng đi với Chúa Giê-xu từ Ga-li-lê đi theo Giô-sép và những người nam cùng ở đó với ông. Họ nhìn thấy chỗ để chôn cất và họ nhìn thấy cách những người này đặt xác của Chúa Giê-xu vào bên trong đó.
\v 56 Rồi những phụ nữ này trở về nơi họ ở để chuẩn bị hương liệu và dầu thơm để xức xác Chúa Giê-xu. Tuy nhiên, họ không làm việc vào ngày Sa-bát theo như luật của người Do Thái quy định.
\s5
\c 24
\p
\v 1 Trước khi mặt trời mọc vào sáng Chúa Nhật, những người phụ nữ ấy đi đến nơi chôn cất. Họ đem theo mình những hương liệu đã chuẩn bị để xức xác của Chúa Giê-xu.
\v 2 Khi họ đến nơi, họ phát hiện ra rằng ai đó đã lăn tảng đá ra khỏi cửa mộ.
\v 3 Họ đi vào trong nơi chôn cất nhưng xác của Chúa Giê-xu thì không có ở đó!
\s5
\v 4 Trong khi còn đang phân vân về việc ấy. Bất ngờ có hai người nam mặc áo sáng chói đứng bên cạnh họ!
\v 5 Các bà sợ hãi quá. Khi họ úp mặt xuống đất, hai người nam nói với họ: “Các bà không nên tìm một người đang sống ở tại nơi họ chôn người chết!
\s5
\v 6 Ngài không có ở đây đâu; Ngài đã sống lại rồi! Hãy nhớ rằng trong khi Ngài còn ở Ga-li-lê với các bà, Ngài đã nói:
\v 7 Họ sẽ nộp Thầy, tức là Con Người, vào tay những kẻ tội lỗi. Họ sẽ giết Thầy bằng cách đóng đinh Thầy trên thập tự giá. Nhưng đến ngày thứ ba sau đó, Thầy sẽ sống lại. ’”
\s5
\v 8 Những người phụ nữ nhớ lại lời Chúa Giê-xu đã nói với họ.
\v 9 Thế nên, họ rời khỏi nơi chôn cất và đi đến nơi mười một sứ đồ cùng các môn đồ khác để thuật lại cho họ việc đã xảy ra.
\v 10 Những người phụ nữ kể lại những điều này cho các sứ đồ đó là là Ma-ri đến từ làng Ma-đơ-len, Gian-nơ, Ma-ri mẹ của Gia-cơ và những người phụ nữ khác đi với họ.
\s5
\v 11 Nhưng các sứ đồ gạt bỏ những lời của họ xem như chuyện vô lý.
\v 12 Tuy nhiên, Phi-e-rơ vẫn đứng dậy và chạy ngay đến chỗ chôn cất. Ông cúi xuống và nhìn vào bên trong. Ông nhìn thấy vải lanh đã dùng để liệm xác Chúa Giê-xu, nhưng Chúa Giê-xu thì không có ở đó. Thế nên, ông trở về nhà, tự hỏi việc gì đã xảy ra.
\s5
\v 13 Cũng trong ngày đó, hai môn đồ khác của Chúa Giê-xu đang đi đến một ngôi làng có tên là Em-ma-út. Nó cách Giê-ru-sa-lem chừng mười cây số.
\v 14 Họ đang nói với nhau về tất cả những việc đã xảy ra cho Chúa Giê-xu.
\s5
\v 15 Trong khi họ đang trò chuyện và bàn luận những việc ấy, chính Chúa Giê-xu đã đến gần họ và bắt đầu cùng đi với họ,
\v 16 Nhưng Đức Chúa Trời không cho phép họ nhận ra Ngài.
\s5
\v 17 Chúa Giê-xu nói với họ: “Hai anh đang bàn luận gì với nhau trong lúc đi đường vậy? ” Họ dừng lại, vẻ mặt họ sầu thảm.
\v 18 Một trong hai người, tên là Cơ-lê-ô-pa, trả lời: “Chắc ông là người duy nhất đến thăm Giê-ru-sa-lem mà không biết những sự việc đã xảy ra ở tại đó trong những ngày qua!”
\s5
\v 19 Ngài nói với họ: “Việc gì đã xảy ra? ” Họ đáp: “Những chuyện đã xảy ra cho Giê-xu, người đến từ Na-xa-rét, một đấng tiên tri. Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài quyền năng thực hiện các phép lạ và dạy dỗ những thông điệp tuyệt vời. Dân chúng nghĩ rằng Ngài thật tuyệt vời. ”
\v 20 Nhưng các thầy tế lễ cả và những người lãnh đạo đã nộp Ngài cho những nhà cầm quyền của La-mã. Các nhà cầm quyền kết án tử hình Ngài và họ đã giết Ngài bằng cách đóng đinh Ngài trên thập tự giá.
\s5
\v 21 Chúng tôi hi vọng Ngài là Đấng sẽ giải phóng những người Y-sơ-ra-ên chúng ta khỏi những kẻ thù của mình! Nhưng giờ thì điều đó dường như là không thể rồi, vì ba ngày đã trôi qua kể từ khi Ngài bị giết.
\s5
\v 22 Dù vậy, mấy người phụ nữ trong nhóm chúng tôi đã làm cho chúng tôi kinh ngạc. Sáng sớm hôm nay, họ đi đến nơi chông cất,
\v 23 nhưng xác của Chúa Giê-xu không có ở đó! Họ trở về và nói rằng họ đã thấy các thiên sứ hiện đến. Các thiên sứ nói rằng Ngài đang sống!
\v 24 Sau đó, mấy người trong chúng tôi đã đi đến nơi chôn cất. Họ thấy mọi điều đúng như lời các bà ấy nói. Nhưng họ không thấy Chúa Giê-xu đâu.”
\s5
\v 25 Ngài nói với họ: “Hai người các anh thật dại dột! Anh em thật chậm tin vào tất cả những điều các đấng tiên tri đã chép về Đấng Mê-si-a!
\v 26 Chắc các anh đều biết rằng Đấng Mê-si-a cần phải chịu đau đớn và chịu chết, rồi mới bước vào nhà vinh hiển của Ngài trên thiên đàng! ”
\v 27 Rồi Ngài giải thích cho họ mọi điều các tiên tri đã chép về chính Ngài trong Kinh Thánh. Ngài bắt đầu từ điều Môi-se đã viết và rồi giải thích cho họ điều tất cả những tiên tri khác đã viết.
\s5
\v 28 Họ đã gần đến làng mà hai môn đồ định đến. Ngài ra dấu cho họ biết rằng Ngài sẽ đi nữa,
\v 29 nhưng họ năn nỉ Ngài đừng làm như vậy. Họ nói, “Xin ở lại với chúng tôi đêm nay, vì trời đã sắp tối rồi. ” Thế nên, Ngài đi vào nhà để ở cùng với họ.
\s5
\v 30 Khi họ ngồi xuống để ăn, Ngài lấy bánh và tạ ơn Đức Chúa Trời về nó. Ngài bẻ ra và đưa một vài miếng cho họ.
\v 31 Khi ấy, Đức Chúa Trời khiến họ nhận ra Ngài. Nhưng ngay lập tức, Ngài đã biến mất!
\v 32 Họ nói với nhau: “Trong lúc chúng ta đi đường, Ngài đã trò chuyện và giúp chúng ta hiểu lời Kinh Thánh, chúng ta đã nhận thấy sẽ có một điều gì đó cực kỳ tốt lành sắp xảy ra, dù không biết đó là điều gì. Chúng ta không nên ở lại đây, chúng ta phải đi nói cho mấy người kia biết chuyện đã xảy ra!”
\s5
\v 33 Vậy, họ liền rời khỏi và quay trở về Giê-ru-sa-lem. Tại đó, họ tìm gặp mười một môn đồ và những người khác là những người đã tập trung lại với họ.
\v 34 Những người ấy nói với hai người, “Chúa đã sống lại thật rồi và Ngài đã hiện ra với Si-môn! ”
\v 35 Rồi hai người kể lại cho những người khác nghe chuyện đã xảy ra khi họ đang đi trên đường. Họ cũng kể cho những người đó làm thế nào cả hai người đã nhận ra Ngài khi Ngài bẻ bánh cho họ.
\s5
\v 36 Khi họ còn đang nói, chính Chúa Giê-xu bất ngờ hiện ra ở giữa họ. Ngài nói với họ: “Nguyện Đức Chúa Trời ban sự bình an cho anh em! ”
\v 37 Họ giật mình và sợ hãi, bởi vì họ nghĩ rằng họ đang nhìn thấy ma!
\s5
\v 38 Ngài nói với họ: “Anh em đừng sợ! Và anh em cũng đừng nghi ngờ việc Thầy còn sống.
\v 39 Hãy nhìn các vết thương trên tay và chân của Thầy! Anh em có thể chạm vào Thầy và xem thân thể của Thầy. Rồi anh em có thể thấy rằng đây thật sự chính là Thầy. Anh em có thể nói rằng Thầy thật sự đang sống vì ma thì không có thân xác như anh em thấy Thầy đang có đây! ”
\v 40 Sau khi Ngài nói điều đó, Ngài cho họ xem những vết thương trên tay và chân Ngài.
\s5
\v 41 Họ rất vui mừng và kinh ngạc nhưng vẫn chưa thể tin được rằng Ngài thật sự vẫn đang sống. Thế nên, Ngài nói với họ: “Anh em có gì để ăn ở đây không? ”
\v 42 Vậy, họ đưa cho Ngài một miếng cá nướng.
\v 43 Ngài cầm lấy trong khi họ quan sát.
\s5
\v 44 Rồi Ngài nói với họ: “Thầy sẽ lặp lại điều Thầy đã nói với anh em khi Thầy còn ở với anh em: Tất cả những điều mà Môi-se, các tiên tri khác và trong các Thi Thiên đã chép về Thầy phải được xảy ra!”
\s5
\v 45 Rồi Ngài khiến cho họ họ hiểu được những điều đã được viết về Ngài trong Kinh Thánh.
\v 46 Ngài nói với họ: “Đây là điều họ đã viết: Rằng Giê-xu, là Chúa Cứu Thế, phải chịu đau đớn và chịu chết, nhưng đến ngày thứ ba sau đó Ngài sẽ sống lại.
\v 47 Họ cũng viết rằng những ai tin nơi Ngài phải đi khắp nơi để rao giảng rằng mọi người nên từ bỏ việc phạm tội cùng Đức Chúa Trời, để Ngài tha cho những tội lỗi của họ. Họ viết rằng những người này nên bắt đầu rao giảng điều đó ở tại Giê-ru-sa-lem rồi sau đó đi và rao giảng điều đó cho tất cả các dân tộc.
\s5
\v 48 Anh em phải nói cho mọi người biết rằng những gì đã xảy ra cho Thầy đều là sự thật.
\v 49 Và Thầy muốn anh em biết rằng Thầy sẽ sai Đức Thánh Linh đến với anh em, như Cha Thầy đã hứa rằng Ngài sẽ làm. Nhưng anh em phải ở trong thành này cho đến khi Đức Chúa Trời đổ đầy trên anh em quyền năng của Đức Thánh Linh.”
\s5
\v 50 Sau đó, Chúa Giê-xu dẫn họ ra ngoài thành cho đến khi họ đến gần làng Bê-tha-ni. Tại đó, Ngài giơ tay lên và ban phước cho họ.
\v 51 Đang khi Ngài làm điều đó, Ngài rời khỏi họ và đi lên trời.
\s5
\v 52 Sau khi họ thờ phượng Ngài, họ vui mừng trở về Giê-ru-sa-lem.
\v 53 Mỗi ngày họ đều đi vào sân đền thờ và dành rất nhiều thời gian ngợi khen Đức Chúa Trời.